» Nhóm cá rồng nuôi làm cảnh (AROWANA)

Cá rồng có 2 râu ở đỉnh đầu và có miệng chếch 1 góc 45º. Vảy cá lớn, có màu bạc sáng và phản chiếu như cầu vòng. Cá thích nước chảy và bơi lội gần mặt nước. Trong thiên nhiên chúng ăn cá nhỏ, tép. Trong bể kính, chúng sẵn sàng ăn cá, tôm và khi trưởng thành chúng có thể ăn những mảnh thức ăn lớn.

Nội dung trong bài viết

  • Cá rồng bạc, ngân đái hay ngân long Osteoglossum bicirrhosumVandelli.
  • Cá Rồng Đen, Hắc Đái, Hắc Long Osteoglossum ferreiraiKanazawa
  • Cá rồng Châu Á Osteoglossum formosum hay Scleropages formosus

    • Kim long Indonesia hay Hồng vĩ kim long (Golden Arowana)
    • Kim long Malaysia hay Quá bối kim long (Malayan Bonytongue)
    • Hồng long (Red Arowana)
    • Thanh long (Green Arowana, Platnum Arowana )
  • Cá rồng vịnh Saratoga (Saratoga jardiniiSaville-Kent)
  • Cá rồng đốm (Scleropages leichardti Gunther 1846)

Cá rồng thích sống những nơi thoáng, sạch sẽ. Lúc bắt mồi động tác nhanh nhẹn. Lúc bình thường thì cá bơi chậm chạp, dáng đẹp đẽ. Khi sợ hãi cá hay phóng ra ngoài nên bể nuôi thường có lưới phao ở trên. Tính cá hung hăng, hay chiếm lãnh địa riêng, không cho cá rồng nơi khác xâm nhập vào, nếu có cá nơi khác đến thì nó sẽ dũng cảm rượt đuổi không hềsợ hãi, lùi bước. Cho nên nếu ta nuôi chung nhiều con trong cùng một bể thì chúng cắn đá nhau.

Cách lấy cá bột của cá rồng

Cá rồng có tập tính ấp trứng ở miệng. Miệng cá đực rộng và sâu hơn cá cái. Tập
tính trước khi sinh sản là cá bơi vòng tròn, cá đực bơi theo sau cá cái. Vào ban đêm
chúng tiếp tục bơi tròn nhưng nhanh hơn. Đặc tính này vẫn kéo dài 2 – 3 tháng. Sau đó con đực bơi bên cạnh con cái cắn vào vi lưng, vi ngực, vi bụng và lúc này bơi mạnh, cọ sát với nhau. Cá không ăn thức ăn ngoài. Ngoài tự nhiên, chúng sinh sản ở những vùng nước nông. Mỗi cá đẻ khoảng 30 – 80 trứng, trung bình là 40 trứng và rất mỏng manh. Trứng cá rất to khoảng 1,72cm. Sau khi đẻ và thụ tinh ngoài, trứng được ấp khoảng 10 – 20 ngày trong miệng của cá cái, trong túi nhỏ ở vị trí đôi hàm. Đến ngày thứ 7, con đực tách hết vỏ trứng và trứng nở thành cá bột. Thời gian ấp khoảng 45 ngày và trong thời gian này cá đực không ăn thức ăn ngoài. Đến ngày 59 cá bột tách rời. Ngày thứ 66 cá đực rời khỏi chúng. Cá bột được ăn ấu trùng Artemia và lúc này chúng trở nên hiếu động và cần thiết phải tách rời chúng ra.

Phân loại: Hiện nay cá rồng được chia làm 2 giống chính là Osteoglossumvà
Scleopages. Nhóm có nguồn gốc từ Nam Mỹ như ngân long, hắc long và nhóm có nguồn gốc Đông Nam Á như thanh long, hồng long hay châu Úc như cá rồng Vịnh Saratoga và cá rồng đốm Saratoga.

Những loài cá rồng thường gặp

Cá rồng bạc, ngân đái hay ngân long Osteoglossum bicirrhosumVandelli.

Phân bố: Lưu vực sông Amazon, Đông Orinoco, Brazil, Guyana.

Chiều dài > 60cm

Chiều dài bể 100 – 120cm

Thức ăn: Cá con, côn trùng, gan heo, thịt bò, tép.

Nhiệt độ nước 24 – 28ºC

Bểnuôi riêng

Cá rồng bạc, còn gọi là ngân long (Silver Arowana, South America Arowana)
có thân hình dài dẹt, đuôi nhỏ, đầu to. Ở cá còn nhỏ, vây lưng có màu nền là phấn hồng. Cá trưởng thành có vảy to như vỏ sò, dạng nửa tròn, đường bên có 31 – 35 vảy. Thân cá có màu bạc kim loại, hơi nhuốm màu xanh lam, màu hồng phấn sáng lấp lánh. Cá có cặp râu dài, hàm dưới dài hơn hàm trên (miệng hướng trên). Vây hậu môn có 50 – 55 nhánh, vây bụng dài 4 – 6cm.

Cá thích sống trong môi trường nước mềm, acid yếu và ởnhiệt độ 24 – 30ºC.
Trong tự nhiên, kích thước lớn nhất bắt được ở Brazil là 100cm. Tính ăn của cá
nghiêng về động vật. Các mẫu phân tích dạdày cá bắt ngoài tự nhiên cho thấy hơn 40% là côn trùng và nhện, sốcòn lại là giáp xác, nhuyển thể, cá hơn 10%, đôi khi còn bắt gặp cả ếch nhái, rắn và chim. Trong bể kính, cá có thể ăn được côn trùng, nhái, cá nhỏ, tôm, tép, sâu gạo, thịt. Cá con không cho ăn cho tới khi chúng tiêu hóa hết noãn hoàng.

Sinh sản: Khó phân biệt đực cái, thường thì con cái có thân rộng hơn con đực.
Cá thuộc nhóm ấp trứng trong miệng. Trong tự nhiên cá đẻ vào mùa mưa hàng năm (tháng 12 đến tháng 1 ở Brazil). Goulding (1980) quan sát 210 trứng của một con cái  cho thấy trứng thụ tinh và phát triển phôi ấp trong miệng của con đực khoảng 40 – 60 ngày. Khi cá bột rời khỏi cá đực, chiều dài có thể đo được khoảng 10cm. Đối với các trại sản xuất thương mại thì đẻgần như quanh năm.

Người ta đánh giá vẽ đẹp của cá rồng này như sau:

– Phiến vảy phải có màu sáng lấp lánh như kim loại bạc.

– Rìa vảy hơi nhuốm màu hồng phấn

– Vây có màu lam nhạt pha phấn hồng và phải phe phẩy dịu dàng tuyệt đẹp
như vồng cầu lúc cá bơi

– Thân hình thon nhỏ dần

– Vùng lưng dạng ngang thẳng, thân thon dài

Cá Rồng Đen, Hắc Đái, Hắc Long Osteoglossum ferreiraiKanazawa

Phân bố: Nam Mỹ, Rio Negro

Chiều dài cá 60cm

Chiều dài bể 90 – 120cm

Thức ăn: Cá con, côn trùng, gan heo, thịt bò, tép

Nhiệt độ nước 24 – 28ºC

Bể nuôi riêng

Cá rồng đen còn gọi là cá hắc long (Black Arowana) được phát hiện ở sông
Rio – Brazil năm 1966. Thân hình cá giống như cá ngân long. Điểm khác nhau là thời còn non, trên thân cá nhuốm màu đen. Có sọc màu vàng kèm chạy dài từ sau nắp mang xuống tận vi đuôi. Khi trưởng thành, màu đen cá biến dần, vảy cá có màu bạc, các vây có màu xanh lam đậm. Đến lúc cá rất lớn sẽ hướng sang màu đen, nhuốm màu tím, màu xanh đọt chuối.

Môi trường sống của cá giống như cá ngân long. Tuy nhiên, ở Rio Negro, môi
trường nước là acid hơn. Kích thước cá bắt ngoài tự nhiên khoảng 60 cm. Tính ăn
cũng giống như cá ngân long.

Cá này rất nhát và là loài quí hiếm cần được bảo vệ. Vềvẽ đẹp của cá hắc long cũng giống như cá thanh long nhưng chỉ có vây màu xanh lam đậm pha đen là tốt.

Cá rồng Châu Á Osteoglossum formosum hay Scleropages formosus

Phân bố: Indonesia, Thái lan, Cambodia, Nam Việt Nam. Trước đây cá được ghi nhận ởLa Ngà, Dầu Tiếng (sông Sài Gòn). Cá thường sống trong các sông suối chảy mạnh. Hiện nay hầu như không còn nữa.

Chiều dài >90 cm

Chiều dài bể 120 – 160 cm

Thức ăn: Cá con, côn trùng, gan heo, thịt bò, tép

Nhiệt độ nước 24 – 28ºC

Bể nuôi riêng

Cá rồng châu Á (Golden Dragon) có thân thon dài, dẹp bên, vùng bụng rộng thể
hiện dạng cung tròn. Lúc nhỏ cá có vùng lưng thẳng, nhưng khi trưởng thành lại có
lưng cong. Vảy to. Đường bên có 21 – 24 vảy. Vây ngực dài, vây lưng và vây hậu môn
nằm phía sau. Vây đuôi có 12 – 14 tia, vây hậu môn có 26 – 17 tia, vây ngực có 7 tia, vây bụng có 5 tia. Các vây lưng , đuôi và vây hậu môn không liền nhau. Miệng cá rất lớn, xiên, chiều dài vượt quá vị trí mắt của cá. Khi cá há miệng ra có hình vuông. Trước miệng có một cặp râu dài mép. Răng cá nhỏ và khít. Mắt to.
Cá thích sống trong vùng nước chảy chậm, nước đục hay nước có nhiều thực
vật thủy sinh. Mặc dù trong điều kiện tựnhiên cá thích sống trong môi trường nước đục, nhưng trong sinh sản cá thích sống trong môi trường nước sạch. Kích cỡ tối đa 90cm nhưng thường thì nhỏ hơn. Trong tự nhiên cá ăn được động vật có và không có xương sống. Cá cũng nhảy lên khỏi mặc nước để bắt mồi. Trong bể kính cá ăn được các loài thức ăn thịt đông lạnh, cá mồi, ếch nhái và côn trùng
Sinh sản: Cá thành thục từ 3 – 4 năm tuổi nhưng thường sinh sản lúc 4 tuổi. Thời
điểm này kích cỡ cá khoảng 45 – 60 cm. Cá đẻ thường xuyên suốt trong năm nhưng đỉnh điểm vào tháng 12 và tháng 1. Trong điều kiện vùng Đông Nam Á, cá sinh sản vào mùa mưa từ tháng 5 – 9. Khó phân biệt đực, cái mặc dù cá đã thành thục. Con đực có vẽ mãnh mai và miệng thì to hơn con cái. Sự ve vãn kéo dài khoảng 2 – 3 tháng. Hầu hết vũ điệu này thường xảy ra vào ban đêm khi cá bơi gần nhau trên mặt nước. Tuy nhiên nó cũng diễn ra vào ban ngày ở nơi nước cấp vào hay ven bờ. Biểu hiện của sự ve vãn là cá bơi song song nhau, uốn ẹo qua lại, bơi vòng tròn, mũi này chạm vây kia.

Cá cái có buồng trứng đơn khi chín chứa 20 – 30 trứng đường kính cỡ1,9cm. Một sốtác giả quan sát được cá đẻ 90 trứng. Con đực ấp trứng trong miệng khoảng 5 – 6 tuần. Trong thời gian này con đực không ăn thức ăn và hung dữ hơn bao giờ hết. Cá sẽ tiêu thụ hết khối noãn hoàng trong vòng vài tuần và cá dài khoảng 9cm. Cá sẽ ăn thức ăn ngoài trước khi noãn hoàng tiêu thụ hết. Lúc này nên cho cá ăn trùng muỗi đỏ. Cần sớm tách con lớn và con nhỏ ra riêng bởi vì lúc này chúng thường hay cắn nhau

Cá rồng Đông Nam Á phân bốnhư sau:

– Ở Malaysia có 2 loại Kim Long và Thanh Long

– Ở Indonesia có 3 loại là Hồng Long, Kim long và Thanh Long

Như vậy ở thị trường hiện nay có 4 loại thuộc loài Scleropages formosus là Kim long Indonesia, Kim long Malaysia, Hồng long của Indonesia và Thanh Long

Kim long Indonesia hay Hồng vĩ kim long (Golden Arowana)

Vùng lưng thân có màu xanh đen, gồm cảvây lưng và nửa phần trên vây đuôi.
Khung vảy màu vàng kim lấp lánh. Cá kim long đẹp có màu vàng kim mượt tới 1/2 phiến vảy. Vùng nắp có vết màu đỏ, hoàn toàn thể hiện màu vàng kim sáng đẹp. Loại cá này rất được ưa chuộng ở Indonesia (Đảo Kalimantan và Sumatra).

Kim long Malaysia hay Quá bối kim long (Malayan Bonytongue)

Cá cũng giống nhưHồng vĩ kim long, chỉ khác là phiến vảy màu vàng kim lấp
lánh. Cá sinh sản tự nhiên không nhiều, nhưng thuộc loại cá đẹp được ưa chuộng ở Đông Nam Á

Hồng long (Red Arowana)

Vùng nắp mang có vết đỏ đặt biệt, màu sắc của vây, các bộ phận và khung vảy
có thể màu hồng, đỏ đậm hay huyết hồng. Toàn thân sáng lấp lánh. Cá phân bố ở Kalimantan và Sumatra. Cá sinh sản ít nên sốlượng ít cần được bảo vệ.

Thanh long (Green Arowana, Platnum Arowana )

Phiến vảy màu xanh đọt chuối, thể hình tương đối nhỏhơn so với các loại trên.
Đường bên nổi bậc khác thường. Cá phân bốrộng: Ở Thái lan, Malaysia, Mianma và Việt Nam. Có thể tạo cá sinh sản trong hồnuôi. Loại cá phiến vảy thể hiện khối rắn màu tím thuộc loại quý nhất, còn loại khác ít giá trị hơn.

Hình dạng ngoài của cá Thanh long

Cá rồng vịnh Saratoga (Saratoga jardiniiSaville-Kent)

Phân bố: Phía bắc nước Úc từ sông Jardine đến sông Adelaide và các hệ thống
sông, kênh ở Trung -Nam Papua New Guinea và Irian Jaya.

Chiều dài cá 50 – 60cm (lớn nhất 90cm)

Chiều dài bể 100cm

Thức ăn: Cá con, côn trùng, gan heo, thịt bò, tép

Nhiệt độ nước 18 – 33ºC

Bể nuôi riêng

Chúng phân bốnhiều ở vịnh Saratoga. Cá có thể sống ở tất cả các tầng nước,
thường thì ở tầng giữa và tầng trên, gần mặt nước nơi có cây cỏ thủy sinh. Chúng có thể sống với biên độ nhiệt rộng từ 18 – 33ºC. Sinh sản thường vào mùa hè khi nhiệt độ nước trên 23ºC. Cá thể lớn nhất bắt ngoài tự nhiên dài 90cm và nặng 17,2kg. Tuy nhiên hầu hết cá bắt được có chiều dài dao động từ 50 – 60cm.

Ngoài tự nhiên cá ăn được cá nhỏ, giáp xác, côn trùng và các động vật có và
không xương sống khác. Trong bểkính, cá có thể ăn được thức ăn thông dụng đông lạnh hay tươi

Sinh sản: Khó phân biệt được đực cái. Khi cá thành thục, các đặc điểm giới tính
thì không xuất hiện. Tuy nhiên cá đực trường dài hơn cá cái. Giống nhưnhững loài khác trong họnày, S.jardinii có đặc tính giữ con trong miệng. Tuy nhiên giống này có đặc tính là con cái ngậm trứng. Trong những loài thuộc giống Osteolossum và cá thanh long S.formosus, con đực đảm đương vai trò này.

Đối với loài này, hiện nay chưa có cơ sở nào cho sinh sản thành công. Ao đất
được khuyến khích là nơi lý tưởng cho sinh sản. Nhiệt độ nước khoảng 23ºC, pH = 6,5 – 8, độ cứng từ 0 – 100ppm. Trong tự nhiên, mùa sinh sản thường bắt đầu vào trước mùa mưa khoảng tháng 10 – 11 mùa hè ở nam bán cầu.

Con cái có buồng trứng đơn. Sốtrứng dao động từ 60 – 65 trứng. Trứng to và
nhiều noãn hoàng là dưỡng chất cho sự phát triển phôi và kích thước dao động 10 – 11mm.

Trứng nở khoảng 1-2 tuần nhưng cá bột ấp trong miệng 4-5 tuần, trong thời
gian này noãn hoàng tiêu biến dần, dành hết chất dinh dưỡng cho phôi phát triển. Tuy nhiên cho cá ăn trước khi noãn hoàng tiêu biến hoàn toàn. Thức ăn là thịt băm nhỏ, tép nhỏ.

Cá rồng đốm (Scleropages leichardti Gunther 1846)

Phân bố: phía bắc nước Úc từsông Jardine đến sông Adelaide và các hệ thống
sông, kênh ởTrung – Nam Papua New Guinea và Irian Jaya.

Chiều dài: 50 – 60cm (lớn nhất 90cm)

Chiều dài bể 100cm

Thức ăn: cá con, côn trùng, gan heo, thịt bò, tép.

Nhiệt độ nước 7 – 40ºC

Bể nuôi riêng.

Cá phân bốrất ít ở vịnh Saratoga. Ngoài ra chúng còn phân bố ở hệ thống sông
Fitzroy của Đông Nam Queensland, sau đó được di giống sang hệ thống sông Mary. Cá thích sống vùng nước đục, ngược trên thượng nguồn và trung nguồn của các con sông và không tìm được ở các vùng gần cửa sông. Trong những ngày nắng của các tháng trong mùa hè, cá có xu hướng bơi lội dưới mặc nước ở vùng có cây cỏ thủy sinh.

Cá có khảnăng sống trong môi trường rộng nhiệt từ 7 – 40ºC, tuy nhiên khoảng
thích hợp từ 15 – 30ºC. Trọng lượng lớn nhất ngoài tự nhiên dài 90cm và nặng 4kg, nhưng thông thường 50 – 60cm. Cá ăn được cả côn trùng trên cạn và thủy sinh, cá, nhái, ếch, rắn. Đặc biệt cá có thểnhảy ra khỏi mặc nước để bắt côn trùng đang bay. Trong bể kính cá có khả năng ăn thịt đông và các thức ăn khác.

Sinh sản. Cũng cá ngân long, cá rồng đốm Saratoga rất khó phân biệt đực cái.
Cá bắt đầu bắt cặp vào tháng 9 – 10 và sinh sản vào mùa xuân khi nhiệt độ 20 – 23ºC. Bãi đẻ thường ở trên bềmặc nước ở những vùng cạn. Cá đẻ khoảng 50 trứng với kích thước 1cm được ấp trong miệng cá cái. Trứng nở khoảng 1 – 2 tuần sau thụ tinh và ấp trong miệng khoảng 5 – 6 tuần. Chưa có ghi nhận nào trường hợp cá đẻtrong bểkính. Điều kiện thích hợp cho cá đẻ trong ao đất với nhiệt độ 20 – 23ºC, pH= 7 – 9, độ cứng 5 – 150ppm. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại này theo bảng sau:

Những đặc điểm phân biệt 2 loài cá rồng

Rate this post

Viết một bình luận