20. Nghi thức ấn tống kinh sách

Tiếp đến, vị trưởng lão có lời đạo từ khuyến tấn cư sĩ, hoặc tán dương ân đức pháp bảo cho mọi người hoan hỷ.

Một nghi thức khác, nếu thí chủ có làm vi bằng hiến cúng tam tạng, thì sau lời tác bạch, thí chủ quì lên dâng tấm vi bằng ấy đến tận tay vị trưởng lão chứng minh, vậy cũng xem như là dâng cúng trọn bộ kinh điển đến chư Tăng rồi.

Sau lời tác bạch dâng cúng, thí chủ quì lên rót nước vào tay vị trưởng lão cao hạ nhất để biểu hiện sự hiến cúng tận tay chư tăng. Vì kinh điển như là tài sản văn hóa nên không thể dâng như cách cúng dường vật dụng.

Bạch đại đức tăng, chúng con xin hiến cúng kinh điển tam tạng cùng với sách phụ chú này có nghĩa văn cụ túc thanh tịnh, xin dâng đến tứ phương tỳ kheo Tăng. Lành thay bạch đại đức Tăng, ngưỡng mong chư Tăng lãnh nhận kinh điển tam tạng cùng với sách phụ chú này có nghĩa văn cụ túc thanh tịnh, cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an vui lâu dài. Lần thứ nhì. Lần thứ ba.

Khi chư Tăng đã quang lâm và an tọa thí chủ đảnh lễ chư Tăng rồi nói lên vài lời trình duyên sự để chư Tăng được rõ, xong rồi thí chủ tác bạch cúng dường như sau:

Tất cả sách tam tạng và chú giải phải được bài trí trên một hoặc nhiều chiếc bàn kê đối diện chư tăng, vừa tầm nhìn, không quá cao không quá thấp hơn chỗ ngồi của chư Tăng (vì kinh sách là pháp bảo), trần thiết trang trọng chỗ đặt kinh sách đó. Có thể cử hành lễ này ở trong chánh điện hay trong giảng đường.

Khi thí chủ bỏ tiền ra để in kinh sách hoặc mua kinh sách, nhất là tam tạng và chú giải, rồi hiến tặng đến chùa nào chưa có để chư Tăng trong chùa có tài liệu tham cứu tu học. Hãy làm theo nghi thức như vầy:

Ngoài sự cúng dường vật chất nhu cầu cho đời sống chư Tăng để tạo “phước vật”, người cư sĩ muốn tạo “phước trí” phải thiền định, học pháp, nghe pháp, đàm luận Phật pháp; thêm nữa là hoan hỷ với trí tuệ của người khác, tạo điều kiện giúp người khác tiến hóa trí tuệ, làm như thế cũng là tạo nhân sanh phước trí cho mình ở hậu lai. Gọi là việc tạo điều kiện giúp người khác tiến hóa trí tuệ, tức là ủng hộ các vị Tăng tu học, giảng dạy, dịch thuật kinh sách; hoặc mua hoặc in kinh sách (kinh cao sách chánh) như tam tạng và sách chú giải tam tạng, để ấn tống.

I.6.
VAI TRÒ CƯ SĨ TRONG PHẬT GIÁO

Đức
Phật có tâm đại bi với chúng sanh, Ngài thuyết pháp vừa
theo trình độ và hoàn cảnh của mỗi người, để họ có
thể thực hành theo giáo pháp hầu được an vui hạnh phúc
và giải thoát khỏi khổ luân hồi như Ngài. 

Giáo
pháp của Đức Phật ứng dụng cho cả hai giới xuất gia và
tại gia. 

Người
cư sĩ trong Phật giáo cũng có trách nhiệm nặng nề đối
với việc tồn vong của chánh pháp.

Đức
Phật có thuyết rằng: 

“Ở
đây, sau khi Như Lai nhập diệt, các tỳ kheo, các tỳ kheo ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn trọng và qui thuận bậc Đạo
Sư, sống tôn trọng và qui thuận giáo pháp, sống tôn trọng
và qui thuận Tăng chúng, sống tôn trọng và qui thuận học
giới, sống tôn trọng và qui thuận lẫn nhau. Đây là nguyên
nhân chánh pháp được tồn tại lâu dài sau khi Như Lai viên
tịch” (A.III.247). 

Người
cư sĩ Phật giáo, đúng nghĩa là cận sự nam và cận sự nữ
không phải là người chi đến với Phật giáo như một học
giả nghiên cứu triết học Đông phương. Mà phải nhận thức
rõ vai trò của mình đối với Phật pháp, phải thiết tha
sống theo tinh thần lời dạy của Đức Phật để hướng
tìm mục đích giải thoát, thành tựu hạnh phúc thật sự. 

Người
cư sĩ chân chánh trong Phật giáo có hai vai trò: 

1.
Vai trò người hộ pháp (Dhammarakkhaka).
2.
Vai trò người thừa tự pháp (Dhammadāyadaka).

Vai
trò hộ pháp 

Hộ
pháp tức là hộ trì Tam bảo: hộ trì Phật bảo, hộ trì Pháp bảo, hộ trì Tăng bảo. 

Hộ
trì Phật bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Đức Phật là bậc
giác ngộ chân lý, bậc đã tìm ra pháp giải thoát, bậc kính
trọng chánh pháp. Do vậy, sự hộ trì Phật bảo cũng gọi
là hộ pháp.

Hộ
trì Pháp bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng giáo lý của Đức
Phật là pháp đem đến sự an vui cho chúng sanh thiết thực hiện tại, lợi ích tương lai, và thoát khỏi luân hồi. Giữ
vững giáo pháp cho đúng tinh thần chánh pháp, không để bị
mai một, bị sai lệch văn cú ý nghĩa lời dạy của Đức
Phật. Đó gọi là hộ pháp. 

Hộ
trì Tăng bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Tăng chúng là những
vị đệ tử thừa hành giáo lý của Đức Phật, truyền thừa Phật pháp tồn tại trong thế gian ngay khi Đức Phật còn tại
thế và sau khi Đức Phật níp bàn. Tăng chúng còn là Giáo
pháp còn, do đó sự hộ trì Tăng bảo cũng là hộ pháp. 

a)
Hộ trì Phật Bảo 

Người
cư sĩ hộ trì Phật bảo bằng bốn hình thức sau đây: 

1-
Giữ vững niềm tin đối với Đức Phật, không có hoài nghi
sự giác ngộ của Ngài.
2-
Hằng tán dương Đức Phật và hoan hỷ người khác tán dương Đức Phật. 
3-
Thường xuyên lễ bái Đức Phật qua hình, tượng, xá lợi.
4-
Xây dựng đền tháp, tôn thờ Phật cảnh trang nghiêm để
tôn vinh Đức Phật. Nếu không có khả năng tự mình làm thì
ủng hộ người khác cùng làm. 

Việc
thờ phụng Đức Phật, người cư sĩ làm vai trò ấy là hợp
lý hơn các vị xuất gia. Khi Đức Thế Tôn sắp viên tịch,
tôn giả Ānanda đã bạch hỏi Ngài về việc xử sự đối
với thân Xá Lợi của Thế Tôn phải như thế nào? Đức Phật
bảo rằng: 

“Này
Ānanda, các ngươi chớ bận lo việc thờ phượng Xá Lợi của
Như Lai; hãy tinh tấn tự lợi, hãy chuyên cần tự lợi, hãy
sống nỗ lực nhiệt tâm, không dể duôi. Này Ānanda, có các
hiền trí Sát đế lỵ, các hiền trí Bà la môn, các hiền
trí gia chủ tín ngưỡng Như Lai, những người ấy sẽ thờ
phượng thân xá lợi của Như Lai” (D.II.141).

b)
Hộ trì Pháp bảo

Người
cư sĩ hộ trì Pháp bảo bằng năm hình thức sau đây: 

1-
Giữ vững niềm tin đối với giáo pháp, không có hoài nghi
về hiệu năng hướng thượng của Giáo pháp.
2-
Siêng năng học hỏi giáo pháp, thọ trì đúng chánh pháp, không
mê tín dị đoan, không xu hướng ngoại đạo.
3-
Hoan hỷ cúng dường đến các vị tỳ kheo, sa di là bậc đa
văn, những vị học pháp, hành pháp và duy trì giáo pháp. 
4-
Có sự ưu tư trong việc chấn hưng Phật pháp khi thấy có
dấu hiệu bi suy thoái, bị phá hoại. 
5-
Tùy khả năng của mình, hỗ trợ chư Tăng kết tập kinh điển,
in ấn sách kinh, mở trường lớp Phật học v.v…

Từ
thời Đức Phật đã có những tấm gương cư sĩ hộ pháp
như ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, vua Pasenadi, sau này có
vua Asoka … chẳng những họ cúng dường vật chất hộ độ
Đức Phật và Tăng chúng mà họ còn rất quan tâm để hộ
trì chánh pháp, cũng cố Phật pháp, làm sao cho giáo pháp hưng
thịnh. 

Người
cư sĩ hộ trì chánh pháp nổi bậc nhất là đức vua Asoka
(A Dục vương). Với quyền hành của mình, nhà vua đã cố
gắng học Phật pháp cho thông suốt để sàng lọc ra những
vị tu sĩ giả danh gây xáo trộn trong Phật giáo, nhà vua cũng
đã nhiệt tâm hộ độ chư Tăng kết tập kinh điển lần
thứ ba, nhà vua cũng tận tâm giúp đỡ chư Tăng đi hoằng
pháp mở mang Phật giáo đến các nước lân bang … 

c)
Hộ trì Tăng bảo 

Người
cư sĩ hộ trì Tăng bảo bằng năm hình thức sau đây: 

1-
Có niềm tin vững chắc nơi Tăng chúng, không vì lý do một
vài phần tử cá nhân xấu mà mất niềm tin với Tăng chúng. 
2-
Thường xuyên hộ độ cúng dường các nhu cầu vật chất
đến chư tăng. 
3-
Luôn luôn bảo vệ uy tín và thanh danh cho Tăng chúng.
4-
Quan tâm đến sự an nguy thịnh suy của Tăng chúng, đồng vui
cộng khổ với chư tăng. 
5-
Đối xử với Tăng chúng bằng sự kính trọng và nhu thuận. 

Các
cư sĩ thời Đức Phật như ông Jīvakakomārabhacca, bà Visākhā,
vua Pasenadi … là những người hộ Tăng tiêu biểu, vừa hộ
độ thực phẩm, vừa bảo vệ thanh danh chư tăng, vừa khéo
góp ý nhắc nhở những vị có hành vi sai trái để chấn chỉnh giáo hội tốt đẹp.

Vai
trò thừa tự pháp 

Thừa
tự (dāyada) là sự kế thừa, thừa hưởng, như là thừa tự
tài sản, thừa hưởng gia sản v.v… thừa tự pháp là kế
thừa Giáo pháp của Đức Phật. 

Trong
kinh Trung Bộ, Đức Thế Tôn có dạy rằng: “Này các tỳ kheo,
các ngươi hãy là người thừa tự pháp của ta, đừng là
người thừa tự tài vật – Dhamma-dāyādā me bhikkhave bhavatha
mā āmisadāyādā” — (M.I.12).


vai trò thừa tự pháp, người cư sĩ có ba phận sự: 

– Học
hỏi giáo lý 

Thực hành giáo pháp

Duy trì Phật giáo

a)
Học hỏi giáo lý

Để
lãnh hội những tinh hoa Phật pháp và có được chánh kiến,
người cư sĩ phải siêng năng học hỏi giáo lý, ưa thích tìm hiểu Phật pháp. Sự học hỏi giáo lý cho thông suốt,
gọi là thừa tự pháp. Ví như một người con kế thừa sự
nghiệp của ông cha, là phải biết được giá trị những
gì mà ông cha đã để lại, cũng vậy, giáo pháp mà đấng
từ phụ đã để lại, đệ tử xuất gia hay tại gia phải
chuyên cần học tập để biết được giá trị của giáo
pháp ấy, như thế mới đáng gọi là đệ tử thừa tự pháp. 

Người
cư sĩ học hỏi giáo lý bằng nhiều phương tiện, có thể
bằng cách nghe chư Tăng thuyết Phật pháp. 

Hoặc
có thể học hỏi bằng cách nghiên cứu tham khảo kinh sách
Phật giáo. 

Hoặc
có thể học hỏi bằng cách tìm gặp nhau để đàm luận Phật
pháp. 

Các
cư sĩ thời xưa khi đến viếng thăm Đức Phật hay các vị
Tỳ kheo, bao giờ họ cũng hoan hỷ nghe pháp, thiết tha học
giáo pháp, như vua Pasenadi, ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā
v.v… Có vậy mới xứng đáng gọi là cư sĩ thừa tự pháp.

b)
Thực hành giáo pháp

Người
cư sĩ không phải chỉ đơn thuần là người có tín ngưỡng tôn giáo, là người theo đạo Phật. Người cư sĩ phải sống
theo pháp, thực hành giáo pháp, chấp nhận giáo pháp ứng dụng
vào đời sống như là một nhu cầu không thể thiếu. Người
cư sĩ có thực hành như vậy mới hưởng được hương vị
tuyệt vời của giáo pháp, như khi có nếm qua món ăn rồi
mới thưởng thức được hương vị của món ăn đó. Gọi
là người cư sĩ thừa tự pháp, phải thật sự cảm nhận
được sự đặc thù của chánh pháp qua kinh nghiệm tu tập. 

Người
cư sĩ ngoài việc học hỏi giáo lý thông suốt, còn phải
thực hành nữa. Khi nào còn người thực hành theo giáo pháp
thì khi đó Phật pháp còn tồn tại, bởi thế vai trò thừa
tự pháp của người cư sĩ cũng rất quan trọng.

Sự
thực hành giáo pháp, tức là hành theo ba điều căn bản: 

“Không
làm các điều ác” (Sabbapāpassa akaraṇaṃ). Nghĩa là người
cư sĩ sống né tránh không làm điều tội lỗi như sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói chia rẽ, nói độc ác, nói
vô ích, tham lam, sân hận và tà kiến.

“Thực
hiện các việc lành” (Kusalassa upasampadā). Nghĩa là người
cư sĩ thiết tha làm những điều thiện như bố thí, trì giới,
tu tiến, cung kính, phục vụ, thính pháp, nói pháp, hồi hướng
phước, tùy hỷ phước và cải chánh tri kiến.

“Thanh
lọc nội tâm” (Sacittapariyodapanaṃ). Nghĩa là người cư sĩ tinh tấn thiền định để rèn luyện nội tâm, làm cho tâm
trong sạch không bị ô nhiễm bởi phiền não tham, sân, si. 

Sự
tu tập của người cư sĩ theo ba điều trên, gọi là người
cư sĩ thực hành giáo pháp. 

c)
Duy trì Phật giáo

Người
cư sĩ thừa tự pháp, ngoài hai phận sự là học hỏi giáo
lý và thực hành giáo pháp, còn có một phận sự nữa cũng
rất quan trọng, đó là duy trì Phật giáo.

Phật
giáo được tồn tại lâu dài là nhờ vào tứ chúng: tỳ kheo,
tỳ kheo ni, cận sự nam và cận sự nữ hết lòng phụng sự duy trì chánh pháp. Trong tứ chúng ấy, tỳ kheo và tỳ kheo
ni là hàng xuất gia; cận sự nam và cận sự nữ thuộc hàng
tại gia cư sĩ. Bậc xuất gia đóng vai trò chính trong phận
sự duy trì Phật pháp vững bền; còn đối với hàng cư sĩ
chỉ là vai trò phụ. 

Tuy
người cư sĩ đối với phận sự duy trì Phật pháp là vai
trò phụ nhưng không phải là không quan trọng. Vì nếu người
cư sĩ không xuất gia hoặc cư sĩ cha mẹ không hoan hỷ cho
con cháu xuất gia thì làm sao có tỳ kheo, tỳ kheo ni để duy
trì Phật pháp? Lại nữa, nếu người cư sĩ không ủng hộ cúng dường hoặc bảo vệ Tăng chúng Phật giáo thì làm sao
các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni có điều kiện thuận lợi làm
phận sự duy trì Phật pháp?

Bởi
thế, người cư sĩ cũng có phận sự duy trì Phật giáo là
gián tiếp. Và người cư sĩ duy trì Phật giáo được gọi
là người thừa tự giáo pháp. 

Một
thời, khi đức vua Asoka (A Dục vương) trở thành Phật tử,
đức vua đã ra sức xây cất 84.000 chùa tháp để tôn thờ
Xá lợi Đức Phật. Đức vua bạch hỏi chư Thánh Tăng: Sự
đại thí như vầy, không biết có ai đã từng làm chưa? 

Trưởng
lão Moggalliputtatissa thay mặt chư Tăng đã trả lời rằng:

“Thưa
Đại vương, dù khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền và cho đến
nay cũng chưa có một ai làm được việc đại thí như thế
này. Chỉ có Đại vương là nguời duy nhất làm được việc
đại thí này thôi”.

Đức
vua Asoka lắng nghe trưởng lão Moggalli-puttatissa trả lời, lòng
tràn ngập phỉ lạc. Vua đã suy nghĩ, nếu ta là người đã
làm được đại thí này chắc hẳn ta là người thừa kế Phật giáo (Dāyādo sāsanassa) chăng? Nghĩ vậy, Đức vua bèn
bạch hỏi vị trưởng lão nữa. 

“Kính
bạch Tôn giả, trẫm đã làm được đại thí như thế, vậy
trẫm có phải là người kế thừa của Phật giáo chăng?”

Trưởng
lão đáp:

“Thưa
đại vương, người chỉ bố thí bốn món vật dụng, dù có
là đại thí chăng nữa cũng chỉ gọi là thí chủ vật dụng
(paccayadāyaka), chứ chưa phải là người kế thừa Phật giáo
(sāsanadāyada). 

Đức
vua liền hỏi vị trưởng lão, người thế nào mới gọi là
kế thừa Phật giáo. Trưởng lão đáp:

“Những
người cha mẹ nào hoan hỷ cho phép con của mình xuất gia trở
thành tỳ kheo trong Phật giáo, như vậy, người cha mẹ ấy
mới được gọi là người kế thừa Phật giáo.”

Đức
vua Asoka nghe vậy khởi tâm tịnh tín bèn cho phép hai người
con là hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā xuất gia làm
tỳ kheo và tỳ kheo ni trong Phật giáo. Sau khi xuất gia, cả
hai vị đều đắc quả A la hán, và chính Đại Đức Mahinda
đã mở đầu công cuộc hoằng hóa giáo pháp tại xứ Tích
Lan. 

Các
bậc xuất gia duy trì Phật pháp bằng cách hoằng pháp, còn
đối với người cư sĩ thì duy trì Phật pháp bằng cách hộ
độ chư Tăng hoằng pháp, và tạo người nối truyền hoằng
pháp, tức là nếu con em có ý muốn xuất gia thì mình khích
lệ, động viên, và hoan hỷ cho phép. 

DỨT
CHƯƠNG I

Rate this post

Viết một bình luận