62 loại Tà kiến

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác, với mười tám luận chấp. Và 

y chỉ

 theo gì, căn 

cứ theo

 gì, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy 

luận bàn

 về phía 

quá khứ

 tối sơ, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

đề xướng

 ra nhiều 

sở kiến

 sai khác với mười tám luận chấp?

 30. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp rằng: “Bản ngã về 

thế giới

 là thường còn” với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn với bốn luận chấp?

31. Này các Tỷ-kheo, nhờ nhiệt tâm, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

; khi tâm 

nhập định

, vị ấy nhớ được nhiều 

đời sống

 

quá khứ

, như 

một đời

, hai đời, 

ba đời

, bốn đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, 

vô số

 trăm đời, 

vô số

 ngàn đời, 

vô số

 trăm ngàn đời, nhớ rằng: Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, 

giai cấp

 như thế này, 

ăn uống

 như thế này, 

lạc thọ

 

khổ thọ

 như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống tên như thế này, giòng họ như thế này, 

giai cấp

 như thế này, 

ăn uống

 như thế này, 

lạc thọ

khổ thọ

 như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi tôi được sanh tại chỗ này”. Như vậy người ấy nhớ nhiều đời 

quá khứ

, với những 

đặc điểm

 và những 

chi tiết

. Người ấy nói rằng: “Bản ngã và 

thế giới

 là thường trú, 

bất sanh

vững chắc

 như đảnh núi, như trụ đá; còn những loại 

hữu tình

 kia thời 

lưu chuyển

 

luân hồi

, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy? Vì rằng tôi do nhờ nhiệt tâm, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

… còn những loại 

hữu tình

 kia thì 

lưu chuyển

 

luân hồi

, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú”. 

 Này các Tỷ-kheo đó là 

lập trường

 thứ nhất, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số những vị Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằng 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn. 

 32. 

Trường hợp

 thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằng 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn? 

 Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

, khi tâm 

nhập định

, vị ấy nhớ được nhiều 

đời sống

 

quá khứ

, như một 

thành kiếp

 

hoại kiếp

, hai 

thành kiếp

 

hoại kiếp

, ba 

thành kiếp

 

hoại kiếp

, mười 

thành kiếp

 

hoại kiếp

; nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, 

giai cấp

 như thế này, 

ăn uống

 như thế này, 

lạc thọ

 

khổ thọ

 như thế này… còn những loại 

hữu tình

 kia 

lưu chuyển

 

luân hồi

, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

lập trường

 thứ hai, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận và chấp rằng, 

bản ngã

 và 

thế giới

 thường còn. 

 33. 

Trường hợp

 thứ ba, những Sa-môn hay Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và cho rừng 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn?

 Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, vị ấy nhớ được nhiều 

đời sống

 

quá khứ

, như mười 

thành kiếp

 

hoại kiếp

, hai mươi 

thành kiếp

 

hoại kiếp

, ba mươi 

thành kiếp

 

hoại kiếp

, bốn mươi thành kiếphoại kiếp, năm mươi 

thành kiếp

 

hoại kiếp

; nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, 

giai cấp

 như thế này, 

lạc thọ

 khổ thọnhư thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, 

giai cấp

 như thế này, 

ăn uống

 như thế này, 

lạc thọ

 khổ thọnhư thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi, tôi được sanh tại chỗ này”. Như vậy người ấy nhớ nhiều đời 

quá khứ

 với những 

đặc điểm

 và những 

chi tiết

. Người ấy nói: “Bản ngã và 

thế giới

 là thường trú, 

bất sanh

vững chắc

 như đảnh núi, như trụ đá; còn những loại 

hữu tình

 kia thì 

lưu chuyển

 

luân hồi

, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy? Vì rằng tôi nhờ nhiệt tâm… nên tâm 

nhập định

 như vậy. Khi tâm 

nhập định

 như vậy, tôi nhớ được nhiều 

đời sống

 

quá khứ

, như mười 

thành kiếp

hoại kiếp

… bốn mươi 

thành kiếp

 hoại kiếp”. Nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi sống với tên như thế này… tôi được sanh tại chỗ này”. Như vậy người ấy nhớ nhiều đời 

quá khứ

 với những với những 

đặc điểm

 và những 

chi tiết

. Người ấy nói: “Bản ngã và 

thế giới

 là thường trú, 

bất sanh

vững chắc

 như đảnh núi, trụ đá… còn những loại 

hữu tình

 kia thì 

lưu chuyển

luân hồi

, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

lập trường

 thứ ba, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 thường còn. 

 34. 

Trường hợp

 thứ tư, những Sa-môn, Bà-la-môn 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 thường còn?

 Này các Tỷ-kheo, ở đời có Sa-môn hay Bà-la-môn, là nhà 

suy luận

, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ của 

suy luận

, và sự 

tùy thuận

 theo thẩm sát, vị này 

tuyên bố

 như thế này: “Bản ngã và 

thế giới

 là thường trú, 

bất sanh

vững chắc

 như đảnh núi, như trụ đá, còn những loại 

hữu tình

 kia thời 

lưu chuyển

 

luân hồi

, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường còn”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

lập trường

 thứ tư, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn. 

 35. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này, chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn, với bốn luận chấp. Nếu có những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương Thường trú luận, chấp rằng: “Bản ngã và 

thế giới

 là thường còn”, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa. 

 36. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, 

chấp thủ

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 biết như vậy, Ngài lại biết hơn thế nữa, và Ngài không chấpsở tri ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 chứng được 

tịch tịnh

. Ngài như thậtbiết sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ biết vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

 37. Những 

chấp pháp

 ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

phân biệt

. Những pháp ấy, 

Như Lai

 đã thắng tri, 

giác ngộ

 và 

tuyên thuyết

; và chính những pháp ấy, những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 Tụng phẩm thứ hai

 1. Này các Tỷ-kheo, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác, với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác, với bốn luận chấp?

 2. Này các Tỷ-kheo, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một 

thời hạn

 rất lâu, 

thế giới

 này chuyển hoại. Trong khi 

thế giới

 chuyển hoại, 

các loại

 

hữu tình

 phần lớn sanh qua cõi Abhassara (

Quang Âm thiên

). Ở tại đấy, những loại 

chúng sanh

 này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu 

hào quang

phi hành

 trên 

hư không

, sống trong sự 

quang vinh

, và sống như vậy một 

thời gian

 khá dài. 

 3. Này các Tỷ-kheo, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một 

thời hạn

 rất lâu, 

thế giới

 này chuyển thành. Trong khi 

thế giới

 này chuyển thành, 

Phạm cung

 được 

hiện ra

, nhưng trống không. Lúc bấy giờ, một 

hữu tình

, hoặc 

thọ mạng

 đã tận, hay 

phước báo

 đã tận, 

mạng chung

 

từ Quang

 Âm thiên, sanh qua 

Phạm cung

 trống rỗng ấy. Vị ấy ở tại đấy, do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu 

hào quang

phi hành

 trên 

hư không

, sống trong sự 

quang vinh

, và sống như vậy trong một 

thời gian

 khá dài. 

 4. Vị này, tại chỗ ấy, sau khi sống lâu 

một mình

 như vậy, khởi ý chán nản, không 

hoan hỷ

 và có kỳ vọng: “Mong sao có các loài 

hữu tình

 khác, cũng đến tại chỗ này!” Lúc bấy giờ, các loài 

hữu tình

 khác, hoặc 

thọ mạng

 đã tận, hay 

phước báo

 đã tận, bị 

mệnh chung

 và từ 

thân Quang

 Âm thiên, sanh qua 

Phạm cung

 để làm bạn với 

vị hữu

 tình kia. Những loại 

hữu tình

 ở đấy cũng do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu 

hào quang

phi hành

 trên 

hư không

, sống trong sự 

quang vinh

, và sống như vậy, trong một 

thời gian

 khá dài. 

 5. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, 

vị hữu

 tình đầu tiên sanh qua nghĩ rằng: “Ta là 

Phạm thiên

Đại Phạm thiên

Toàn năng

Tối thắng

, Biến nhãn, Thượng tôn, 

Thượng đế

Sáng tạo

 chủ, 

Hóa sanh

 chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng 

Tự tại

Tổ phụ

 các 

chúng sanh

 đã và sẽ sanh. Những loài 

hữu tình

 ấy do chính ta sanh ra. Tại sao vậy? Vì chính do ta khởi niệm: Mong sao các loài 

hữu tình

 khác cũng đến tại chỗ này – Chính do 

sở nguyện

 của ta mà những loài 

hữu tình

 ấy đến tại chỗ này”. Các loài 

hữu tình

 đến sau cũng nghĩ như thế này: “Vị ấy là 

Phạm thiên

Đại Phạm thiên

, đấng 

Toàn năng

Tối thắng

, Biến nhãn, Thượng tôn, 

Thượng đế

Sáng tạo

 chủ, 

Hóa sanh

 chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng 

Tự tại

Tổ phụ

 các 

chúng sanh

 đã và sẽ sanh. 

Chúng ta

 do vị 

Phạm thiên

 này 

hóa sanh

. Vì sao vậy? Vì ta đã thấy vị này sanh trước ở đây rồi. Còn 

chúng ta

 thì sanh sau”

 6. Này các Tỷ-kheo, 

vị hữu

 tình sanh ra đầu tiên ấy sống được lâu hơn, 

sắc tướng

 

tốt đẹp

 hơn và được nhiều 

uy quyền

 hơn. Còn các loài 

hữu tình

 sanh sau thì sống ngắn hơn, 

sắc tướng

 ít 

tốt đẹp

 hơn và được ít quyền hơn. Này các Tỷ-kheo, 

sự tình

 này xảy ra. Một trong các loài 

hữu tình

 ấy, sau khi 

từ bỏ

 thân kia lại 

thác sanh

 đến cõi này. Khi đến cõi này, vị ấy 

xuất gia

 

từ bỏ

 

gia đình

sống không gia đình

. Sau khi 

xuất gia

 từ bỏgia đình, 

sống không gia đình

, vị ấy, nhờ nhiệt tâm, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, vị ấy nhớ tới 

đời sống

 

quá khứ

 ấy, chớ không nhớ 

xa hơn

 

đời sống

 ấy. Vị ấy nói rằng: “Vị kia là 

Phạm thiên

Đại Phạm thiên

, đấng 

Toàn năng

Tối thắng

, Biến nhãn, Thượng tôn, 

Thượng đế

Sáng tạo

 chủ, 

Hóa sanh

 chủ, Đại tôn, Chúa tể mị định mạng, đấng 

Tự Tại

Tổ phụ

 các 

chúng sanh

 đã và sẽ sanh. 

Chúng ta

 do vị 

Phạm thiên

 ấy 

hóa sanh

. Vị ấy là 

thường hằng

kiên cố

, thường trú, không bị 

chuyển biến

, thường trú như vậy 

mãi mãi

. Còn 

chúng ta

 do vị 

Phạm thiên

 ấy 

hóa sanh

 đến tại chỗ này. 

Chúng ta

 là 

vô thường

, không 

kiên cố

, yểu thọ và chịu sự biến dịch”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ nhất, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác. 

 7. 

Trường hợp

 thứ hai, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và thế giớilà thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng hữu tìnhkhác?

 Này các Tỷ-kheo, có những hạng 

chư Thiên

 gọi là Khiddàpadosikà (bị nhiễm hoặc bởi 

dục lạc

). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu 

dục lạc

. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu 

dục lạc

, nên bị 

thất niệm

. Do 

thất niệm

, các 

chư Thiên

 ấy 

thác sanh

từ bỏ

 

thân thể

 chúng. 

 8. Này các Tỷ-kheo, 

sự tình

 này xảy ra. Một trong các loài 

hữu tình

 kia khi thác sanhtừ bỏ 

thân thể

 ấy, lại sanh đến chỗ này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy 

xuất gia

từ bỏ

 

gia đình

sống không gia đình

. Sau khi 

xuất gia

từ bỏ

 

gia đình

sống không gia đình

, vị ấy nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, vị ấy nhớ đến 

đời sống

 

quá khứ

 ấy, chớ không nhớ 

xa hơn

 

đời sống

 ấy. 

 9. Vị ấy nói rằng: “Những 

chư Thiên

 không bị nhiễm hoặc bởi 

dục lạc

, chúng sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu 

dục lạc

. Vì sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu 

dục lạc

, nên không bị 

thất niệm

. Nhờ không 

thất niệm

, nên những 

chư Thiên

 ấy không 

thác sanh

 

từ bỏ

 

thân thể

 của chúng, sống 

thường hằng

kiên cố

, thường trú, không bị 

chuyển biến

, thường trú như vậy 

mãi mãi

. Còn 

chúng ta

 đã bị nhiễm hoặc bởi 

dục lạc

, sống lâu ngày mê say trong hý tiếu 

dục lạc

. Vì 

chúng ta

 sống lâu ngày mê say trong hý tiếu 

dục lạc

, nên bị 

thất niệm

. Do 

thất niệm

chúng ta

 

từ bỏ

 

thân thể

 này, sống 

vô thường

, không 

kiên cố

, yểu thọ, chịu sự 

biến dịch

 và 

thác sanh

 đến tại chỗ này”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ hai, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

, và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác. 

 10. 

Trường hợp

 thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và thế giớilà thường còn với một hạng 

hữu tình

, và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác?

 Này các Tỷ-kheo, có những hạng 

chư Thiên

 gọi là Manopadosikà (bị nhiễm hoặc bởi 

tâm trí

). Chúng sống lâu ngày nung nấu bởi sự 

đố kỵ

 lẫn nhau. Vì sống lâu ngày nung nấu bởi sự 

đố kỵ

 lẫn nhau, 

tâm trí

 của chúng oán ghét lẫn nhau. Vì 

tâm trí

 oán ghét lẫn nhau, nên thân chúng 

mệt mỏi

, tâm chúng 

mệt mỏi

. Các hạng 

chư Thiên

 ấy 

thác sanh

 

từ bỏ

 

thân thể

 này của chúng. 

 11. Này các Tỷ-kheo, 

sự tình

 này xảy ra. Một trong các 

vị hữu

 tình kia, khi thác sanhtừ bỏ 

thân thể

 ấy, lại sanh đến cõi này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy 

xuất gia

 

từ bỏ

 

gia đình

sống không gia đình

. Sau khi 

xuất gia

 

từ bỏ

 

gia đình

sống không gia đình

, vị ấy nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, vị ấy nhớ đến 

đời sống

 

quá khứ

 ấy, nhưng không nhớ 

xa hơn

 

đời sống

 ấy. 

 12. Vị ấy nói rằng: “Những vị 

chư Thiên

 không bị nhiễm hoặc bởi 

tâm trí

, chúng sống lâu ngày không nung nấu bởi sự 

đố kỵ

 lẫn nhau. Vì sống lâu ngày không nung nấu bởi sự 

đố kỵ

 lẫn nhau, 

tâm trí

 của chúng không oán ghét nhau. Vì 

tâm trí

 chúng không oán ghét nhau, nên thân chúng không 

mệt mỏi

, tâm chúng không 

mệt mỏi

. Những hàng 

chư Thiên

 ấy không 

thác sanh

 

từ bỏ

 

thân thể

 của chúng, sống 

thường hằng

 

kiên cố

, thường trú, không bị 

chuyển biến

, thường trú như vậy mãi mãi”. Còn 

chúng ta

 bị nhiễm hoặc bởi 

tâm trí

, sống lâu ngày nung nấu bởi sự 

đố kỵ

 lẫn nhau, nên tâm tríchúng ta oán ghét lẫn nhau. Vì 

tâm trí

 

chúng ta

 oán ghét lẫn nhau, nên thân mệt mỏivà tâm 

mệt mỏi

Chúng ta

 

thác sanh

từ bỏ

 thân này, sống 

vô thường

 không 

kiên cố

, yểu thọ, chịu sự 

biến dịch

 và 

thác sanh

 đến tại chỗ này”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ ba, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác. 

 13. 

Trường hợp

 thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và thế giớilà thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng hữu tìnhkhác. 

 Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn, hay Bà-la-môn là nhà 

suy luận

, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ 

biện bác

 của 

suy luận

 và sự 

tùy thuộc

 theo thẩm sát, vị này 

tuyên bố

 như thế này: “Cái gọi là mắt, là tai, là mũi, là lưỡi, là thân, cái 

bản ngã

 ấy 

vô thường

, không 

kiên cố

, không thường trú, bị 

chuyển biến

. Cái gọi là tâm, là ý, là thức, cái 

bản ngã

 ấy là thường còn, 

bất biến

, thường trú, không bị 

chuyển biến

thường hằng

 như vậy mãi mãi”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ tư, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

, và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác. 

 14. Này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa. 

 15. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 biết rằng: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, 

chấp thủ

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy, Ngài lại 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 sở triấy. Nhờ 

không chấp

 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 biết sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ biết vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

 Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

nhận biết

. Những pháp ấy, những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 16. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

Hữu biên

 

Vô biên

 với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 

vô biên

 với bốn luận chấp?

 17. Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, vị ấy sống ở 

trong đời

 với 

tư tưởng

 

thế giới

 là 

hữu biên

. Vị ấy nói rằng: “Thế giới này là 

hữu biên

, có một đường vòng chung quanh. Vì sao vậy? Vì tôi, nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, tôi sống với 

tư tưởng

 

thế giới

 là 

hữu biên

. Do đó tôi biết rằng 

thế giới

 này là 

hữu biên

, có một đường vòng chung quanh”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ nhất, 

y chỉ

 theo đó, căn 

cứ theo

 đó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 và 

vô biên

 18. 

Trường hợp

 thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 và vô biên?

 Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn, nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, vị ấy sống ở 

trong đời

 với 

tư tưởng

 

thế giới

 là 

vô biên

. Vị ấy nói: “Thế giới này là 

vô biên

, không có giới hạn”. Những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là 

hữu biên

, có một đường vòng xung quanh”, những vị ấy nói không đúng 

sự thật

Thế giới

 này là 

vô biên

, không có 

giới hạn

. Tại sao vậy? Vì tôi nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, tôi sống với 

tư tưởng

 

thế giới

 là 

vô biên

. Do đó tôi biết: “Thế giới này là 

vô biên

, không có giới hạn”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ hai, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 

vô biên

 19. 

Trường hợp

 thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 vô biên?

 Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, vị ấy sống ở 

trong đời

 với 

tư tưởng

 

thế giới

 là 

hữu biên

 về phía trên, phía dưới và 

thế giới

 là 

Vô biên

 về phía bề ngang. Vị ấy nói: “Thế giới này là 

hữu biên

 và vô biên”. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là 

hữu biên

, có một đường vòng 

xung quanh

, thì những vị ấy nói không đúng sự thật”. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là 

vô biên

 không có 

giới hạn

 thì những vị ấy nói không đúng 

sự thật

Thế giới

 này vừa là 

hữu biên

, vừa là 

vô biên

. Tại sao vậy? Vì rằng, tôi nhờ 

nhất tâm

, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Khi tâm 

nhập định

, tôi sống ở 

trong đời

 với 

tư tưởng

thế giới

 là 

hữu biên

 về phía trên, phía dưới, và 

thế giới

 là 

vô biên

 về phía bề ngang. Do vậy tôi biết: “Thế giới này vừa là 

hữu biên

 vừa là vô biên”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ ba, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 

vô biên

 20. 

Trường hợp

 thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 vô biên?

 Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà 

suy luận

, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ 

biện bác

 của 

suy luận

 và sự 

tùy thuận

 theo thẩm sát, vị này tuyên bốnhư sau: “Thế giới này không phải là 

hữu biên

, cũng không phải là 

vô biên

. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là 

hữu biên

 có 

giới hạn

 xung quanh”, những vị ấy nói không đúng 

sự thật

. Lại những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là 

vô biên

 không có giới hạn” những vị ấy cũng nói không đúng 

sự thật

. Lại những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này vừa là 

hữu biên

 vừa là vô biên”, những vị ấy cũng nói không đúng 

sự thật

Thế giới

 này cũng không phải là 

hữu biên

, cũng không phải là 

vô biên

 21. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

 với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 

vô biên

, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa. 

 22. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, 

chấp thủ

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài lại 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài như thậttuệ

tri sự

 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

 Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người trí mới có thể 

nhận biết

. Những pháp ấy 

Như Lai

 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

; và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 23. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

. Khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp?

 24. Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không 

như thật

 biết “Đây là thiện” không 

như thật

 biết “Đây là bất thiện”. Vị ấy nghĩ: Tôi không 

như thật

 biết: “Đây là thiện”, không 

như thật

 biết: “Đây là bất thiện” và nếu tôi 

trả lời

: “Đây là thiện” hoặc tôi 

trả lời

: “Đây là bất thiện”, thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi . Nếu dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể bị 

sai lầm

. Nếu tôi 

sai lầm

 thì tôi bị 

phiền muộn

. Nếu tôi bị 

phiền muộn

 sẽ thành một 

chướng ngại

 cho tôi – Như vậy, vì sợ 

sai lầm

, vì 

chán ghét

 

sai lầm

, nên vị ấy không 

trả lời

: “Đây là thiện”, cũng không 

trả lời

: “Đây là bất thiện”. Khi hỏi đến 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác, vị ấy dùng lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là 

không không

 phải như thế”. 

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ nhất, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn. 

 25. 

Trường hợp

 thứ hai, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì chủ trương 

Ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn?

 Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, không 

như thật

 biết “Đây là thiện”, không 

như thật

 biết “Đây là bất thiện”. Vị ấy nghĩ: Tôi không 

như thật

 biết: “Đây là thiện”, không 

như thật

 biết: “Đây là bất thiện”. Vì tôi không 

như thật

 biết: “Đây là thiện”, không 

như thật

 biết “Đây là bất thiện”. Và nếu tôi 

trả lời

: “Đây là thiện” hoặc tôi 

trả lời

: “Đây là bất thiện”, thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi. Nếu dục, tham, sân hoặc hận khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể 

chấp thủ

. Nếu tôi 

chấp thủ

, thì tôi bị 

phiền muộn

. Nếu tôi bị 

phiền muộn

, thời thành một 

chướng ngại

 cho tôi 

 Như vậy, vì sợ 

chấp thủ

, vì 

chán ghét

 

chấp thủ

, nên vị ấy không 

trả lời

: “Đây là thiện”, cũng không 

trả lời

: “Đây là bất thiện”. Khi bị hỏi đến 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác, vị ấy dùng lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là 

không không

 phải như thế”. Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ hai, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

, khi bị hỏi đến 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác, dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn. 

 26. 

Trường hợp

 thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì chủ trương 

ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn?

 Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn không 

như thật

 biết “Đây là thiện”, không 

như thật

 biết “Đây là bất thiện”. Vị ấy nghĩ: Tôi không 

như thật

 biết: “Đây là thiện”, không 

như thật

 biết: “Đây là bất thiện”. Vì tôi không 

như thật

 biết “Đây là thiện”, không 

như thật

 biết “Đây là bất thiện” và nếu tôi 

trả lời

: “Đây là thiện” hoặc 

trả lời

: “Đây là bất thiện”, có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

bác học

tế nhị

, nghị luận 

biện tài

, biện bácnhư chia chẻ sợi tóc, những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiếnvới 

trí tuệ

 của chúng, chúng có thể đọ tài, chất vấn và cật nạn tôi. Nếu chúng đọ tài, chất vấn, cật nạn tôi, tôi có 

thể không

 

giải đáp

 được cho chúng. Nếu tôi 

không giải

 đáp được cho chúng, thì tôi bị 

phiền muộn

. Nếu tôi bị 

phiền muộn

 thời thành một 

chướng ngại

 cho tôi – Như vậy, vì sợ bị 

thử thách

, vì 

chán ghét

 

thử thách

, nên vị ấy không 

trả lời

: “Đây là thiện”, cũng không 

trả lời

. “Đây là bất thiện”. Khi bị hỏi đến 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác, vị ấy dùng lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là 

không không

 phải như thế”. – Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ ba, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, chủ trương 

ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn. 

 27. 

Trường hợp

 thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì chủ trương 

Ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn?

 Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn 

đần độn

 

ngu si

. Vị này, vì 

đần độn

 

ngu si

, khi bị hỏi 

vấn đề

 nay hay 

vấn đề

 khác, liền dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn: “Anh hỏi tôi có 

một thế

 giới khác hay không?” Nếu tôi nghĩ “Có 

một thế

 giới khác”, tôi có thể 

trả lời

 với anh: “Có 

một thế

 giới khác”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là 

không không

 phải như thế. Nếu anh hỏi tôi: “Không có 

một thế

 giới khác phải không?” Nếu tôi nghĩ: “Không có 

một thế

 giới khác”, tôi có thể 

trả lời

 với anh: “Không có 

một thế

 giới khác”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là 

không không

 phải như thế. Nếu anh hỏi tôi “Không có một thếgiới khác phải không?” (… như trên… ) “Cũng có và cũng không có 

một thế

 giới khác?” “Cũng không có và cũng 

không không

 có 

một thế

 giới khác?”, “Có loại 

hữu tình

 hóa sanh?”, “Không có loại 

hữu tình

 hóa sanh?” “Cũng có và cũng không có loại hữu tìnhhóa sanh?” “Cũng không có và cũng 

không không

 có loại 

hữu tình

 hóa sanh?”, “Có kết quả 

dị thục

 của các nghiệp thiện và ác?”, “Không có kết quả 

dị thục

 của những nghiệp thiện và ác?”, “Cũng có và cũng không có kết quả 

dị thục

 của những nghiệp thiện và ác?”, “Cũng không có và cũng 

không không

 có kết quả 

dị thục

 của những nghiệp thiện và ác?”, “Như Lai có 

tồn tại

 sau khi chết?”, “Như Lai không có 

tồn tại

 sau khi chết?”, “Như Lai có và không có 

tồn tại

 sau khi chết?”, “Như Lai không có và cũng 

không không

 có 

tồn tại

 sau khi chết?”. Anh hỏi tôi như vậy. Nếu tôi nghĩ : “Như Lai không có và cũng 

không không

 có 

tồn tại

 sau khi chết”. Tôi có thể 

trả lời

 : “Như Lai không có và cũng 

không không

 có 

tồn tại

 sau khi chết”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là 

không không

 phải như thế.

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ tư, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn.

 28. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

. Khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác, dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương 

Ngụy biện luận

, khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa.

 29. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này : “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, 

chấp thủ

 như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài lại 

tuệ tri

 hơn thế nữa. Và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

.

 Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

phân biệt

. Những pháp ấy 

Như Lai

 đã 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

. Và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 30. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh với hai luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do vô nhânsanh?

 31. Này các Tỷ-kheo, có những 

chư Thiên

 gọi là 

Vô tưởng

 

hữu tình

. Khi một tưởng niệm khởi lên, thời 

chư Thiên

 ấy 

thác sanh

từ bỏ

 thân 

chư Thiên

 của mình. Này các Tỷ-kheo, 

sự tình

 này xẩy ra. Một trong loài 

hữu tình

 ấy, khi 

thác sanh

 

từ bỏ

 thân 

chư Thiên

 ấy của mình, lại sanh đến cõi này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy 

xuất gia

từ bỏ

 

gia đình

sống không gia đình

. Sau khi 

xuất gia

từ bỏ

 

gia đình

sống không gia đình

, vị ấy nhờ nhiệt tâm, nhờ 

tinh tấn

, nhờ 

cần mẫn

, nhờ không 

phóng dật

, nhờ chánh 

ức niệm

, nên tâm 

nhập định

. Vị ấy nhớ đến khi tưởng niệm phát sanh, chớ không nhớ xa hơnnữa. Vị ấy nói : “Bản ngã và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh. Tại sao vậy? Vì rằng tôi trước kia không có, nay tôi có. Từ nơi 

trạng thái

 không có, tôi 

trở thành

 loài hữu tình”.

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ nhất, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do vô nhânsanh. 

 32. 

Trường hợp

 thứ hai, những Sa-môn, Bà-la-môn, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh?

 Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà 

biện luận

, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ 

biện bác

 của 

suy luận

 và sự 

tùy thuận

 theo thẩm sát, vị ấy 

tuyên bố

 : “Bản ngã và 

thế giới

 

vô nhân

 sanh”.

 Này các Tỷ-kheo, đó là 

trường hợp

 thứ hai, 

y chỉ

 như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh.

 33. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh với hai luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh, chúng sẽ chấp cả hai luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa.

 34. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này : “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, 

chấp thủ

 như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy, Ngài lại 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 như vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

phân biệt

. Những pháp ấy 

Như Lai

 đã 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

tuyên thuyết

. Và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến.

 35. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

đề xướng

 nhiều 

ý kiến

 sai khác với mười tám luận chấp trên. Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn hoặc Bà-la-môn 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

đề xướng

 nhiều 

ý kiến

 sai khác, chúng sẽ chấp cả mười tám luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa.

 36. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này : “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, 

chấp thủ

 như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài lại 

tuệ tri

 hơn thế nữa. Và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

.

 Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

phân biệt

. Những pháp ấy 

Như Lai

 đã 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

. Và chính những pháp ấy, những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến.

 37. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn 

luận bàn

 về tương lai, chấp kiếnvề tương lai, 

y cứ

 về tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

ý kiến

 sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Và những vị Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, 

luận bàn

 về tương lai, 

chấp kiến

 về tương lai, 

y cứ

 về tương lai 

đề xướng

 nhiều 

ý kiến

 sai khác với bốn mươi bốn luận chấp?

 38. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

hữu tưởng

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 có tưởng 

sau khi chết

 với mười sáu luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Hữu tưởng luận

 

sau khi chết

, với mười sáu luận chấp?

 Những vị này chủ trương : “Bản ngã có sắc, không có bệnh, 

sau khi chết

 có tưởng”. Chúng chủ trương : “Bản ngã có sắc và cũng không có sắc …”, “Bản ngã cũng không có sắc và cũng 

không không

 có sắc …”, “Bản ngã là 

hữu biên

…”, “Bản ngã là 

vô biên

…”, “Bản ngã là 

hữu biên

 và vô biên”, “Bản ngã cũng 

không hữu

 biên và cũng 

không vô

 biên …”, “Bản ngã là nhất tưởng …”, “Bản ngã là dị tưởng …”. “Bản ngã là thiểu tưởng …”, “Bản ngã là 

vô lượng

 tưởng …”, “Bản ngã là thuần lạc …”, “Bản ngã là thuần khổ …”, “Bản ngã là khổ lạc”. Chúng chủ trương : “Bản ngã là không khổ khônglạc, không có bệnh, 

sau khi chết

 có tưởng”.

 39. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương 

hữu tưởng

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 có tưởng 

sau khi chết

 với mười sáu luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn này chủ trương 

Hữu tưởng luận

 

sau khi chết

, chúng sẽ chấp cả mười sáu luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa.

 40. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này : “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy, Ngài lại 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ không chấptrước 

sơ tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

phân biệt

. Những pháp ấy 

Như Lai

 đã 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

. Và chính những pháp ấy, những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến.

 Tụng phẩm thứ ba

 1. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương 

Vô tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 không có tưởng 

sau khi chết

 với tám luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Vô tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 không có tưởng 

sau khi chết

 với tám luận chấp?

 2. Những vị này chủ trương : “Bản ngã có sắc, không có bệnh, 

sau khi chết

 không có tưởng”, “Bản 

ngã không

 có sắc …”, “Bản ngã có sắc và cũng không có sắc …”, “Bản 

ngã không

 có sắc và cũng 

không không

 có sắc …”, “Là 

hữu biên

 …”, “Là 

vô biên

 …”, “Là 

hữu biên

 và 

vô biên

 …”. Các vị này chấp 

bản ngã

 là 

phi hữu

 biên và phi 

vô biên

, không có bệnh, 

sau khi chết

 không có tưởng.

 3. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương 

Vô tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 không có tưởng 

sau khi chết

 với tám luận chấp. – Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương 

Vô tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 không có tưởng 

sau khi chết

, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa.

 4. Này các Tỷ-kheo. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này : “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, 

chấp thủ

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài lại 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài như thậttuệ

tri sự

 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

.

 Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

nhận biết

. Những pháp ấy 

Như Lai

 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

; và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến.

 5. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

 với tám luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

 với tám luận chấp?

 6. Những vị này chấp: “Bản ngã có sắc, không có bệnh, 

sau khi chết

 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

… “, “Bản ngã là 

vô sắc

… “, “Bản ngã có sắc và cũng không có sắc… “, “Bản ngã là 

phi hữu

 sắc và cũng phi 

vô sắc

… “, “Bản ngã là 

hữu biên

… “, “Bản ngã là 

vô biên

… “, “Bản ngã là 

hữu biên

 và 

vô biên

… “. 

 7. Những vị này chấp rằng. 

Bản ngã

 là 

phi hữu

 biên và cũng phi 

vô biên

, không có bệnh, 

sau khi chết

 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

, với tám luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, chủ trương 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa. 

 8. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

nhận biết

. Những pháp ấy 

Như Lai

 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

; và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 9. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương 

Đoạn diệt luận

chấp trước

 sự 

đoạn diệt

, sự tiêu thất, sự hủy hoại của loài 

hữu tình

 với bảy luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, 

chấp trước

 sự 

đoạn diệt

, sự tiêu thất, sự hủy hoại của loài 

hữu tình

 với bảy luận chấp?

 10. Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hoặc Bà-la-môn chủ trương 

lý thuyết

 và 

ý kiến

: “Vì 

bản ngã

 này có sắc, do 

bốn đại

 hợp thành, do 

cha mẹ

 sanh ra, khi thân hoại bị hủy nát 

tiêu diệt

sau khi chết

 không còn nữa, nên 

bản ngã

 này như thế 

hoàn toàn

 đoạn diệt”. Như vậy một số người chủ trương sự 

đoạn diệt

, sự tiêu thất và sự hủy hoại của loài 

hữu tình

 11. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 như ông nói. Tôi không nói bản ngãấy không có, nhưng 

bản ngã

 ấy như thế không bị 

hoàn toàn

 

đoạn diệt

. Lại còn một 

bản ngã

 khác có thiên tánh, có sắc, thuộc 

dục giới

, ăn các đồ ăn 

đoàn thực

. Bản ngãấy ông không biết, ông không thấy. 

Bản ngã

 ấy tôi biết, tôi thấy. 

Bản ngã

 ấy khi thân hoại, bị hủy nát 

tiêu diệt

sau khi chết

 không còn nữa, nên 

bản ngã

 ấy như thế 

hoàn toàn

 đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự 

đoạn diệt

, tiêu thất và hủy hoại của loài 

hữu tình

 12. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế không bị 

hoàn toàn

 

đoạn diệt

. Lại còn một 

bản ngã

 khác có thiên tánh, có sắc, do ý tạo thành, mọi 

chi tiết

 tay chân lớn nhỏ đều đầy đủ, không khuyết một căn nào. 

Bản ngã

 ấy ông không biết, ông không thấy. 

Bản ngã

 ấy tôi biết, tôi thấy. 

Bản ngã

 ấy khi thân hoại bị hủy nát, 

tiêu diệt

, sau khi chếtkhông còn nữa, nên 

bản ngã

 ấy như thế 

hoàn toàn

 đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự 

đoạn diệt

, tiêu thất và hủy hoại của loài 

hữu tình

 13. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế không bị 

hoàn toàn

 

đoạn diệt

. Lại còn một 

bản ngã

 khác vượt ngoài tất cả sắc tưởng, 

diệt trừ

 các tưởng chống đối, không 

ức niệm

 các dị tưởng, nhận hiểu 

hư không

 là 

vô biên

Đạt đến

 

không vô biên xứ

. Bản ngãấy ông không biết, ông không thấy. 

Bản ngã

 ấy tôi biết, tôi thấy. 

Bản ngã

 ấy khi thân hoại, bị hủy nát 

tiêu diệt

sau khi chết

 không còn nữa, nên 

bản ngã

 ấy như thế 

hoàn toàn

 đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự 

đoạn diệt

, tiêu thất và hủy hoại của loài 

hữu tình

 14. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế không bị 

hoàn toàn

 

đoạn diệt

. Lại còn một 

bản ngã

 khác vượt ngoài tất cả 

không vô biên xứ

, nhận hiểu: Thức là 

vô biên

Đạt đến

 

Thức vô biên xứ

Bản ngã

 ấy ông không biết, ông không thấy. 

Bản ngã

 ấy tôi biết, tôi thấy. 

Bản ngã

 ấy khi thân hoại, bị hủy nát, 

tiêu diệt

sau khi chết

 không còn nữa, nên 

bản ngã

 ấy như thế 

hoàn toàn

 đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự 

đoạn diệt

, tiêu thất và hủy hoại của loài 

hữu tình

 15. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế không bị 

hoàn toàn

 

đoạn diệt

. Lại còn một 

bản ngã

 khác vượt ngoài tất cả 

Thức vô biên xứ

, nhận hiểu: không có 

sở hữu

Đạt đến

 

Vô sở hữu xứ

Bản ngã

 ấy ông không biết, ông không thấy. 

Bản ngã

 ấy tôi biết, tôi thấy. 

Bản ngã

 ấy khi thân hoại bị hủy nát, 

tiêu diệt

sau khi chết

 không còn nữa, nên 

bản ngã

 ấy như thế 

hoàn toàn

 đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự 

đoạn diệt

, tiêu thất và hủy hoại của loài 

hữu tình

 16. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế không bị 

hoàn toàn

 

đoạn diệt

. Lại còn một 

bản ngã

 khác vượt ngoài tất cả 

Vô sở hữu xứ

, nhận hiểu: Đây là 

tịch tịnh

, đây là mỹ diệu. 

Đạt đến

 

Phi tưởng Phi phi tưởng xứ

Bản ngã

 ấy ông không biết, ông không thấy. 

Bản ngã

 ấy tôi biết, tôi thấy. 

Bản ngã

 ấy khi thân hoại, bị hủy nát 

tiêu diệt

sau khi chết

 không còn nữa, nên 

bản ngã

 ấy như thế 

hoàn toàn

 đoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự 

đoạn diệt

, tiêu thất và hủy hoại của loài 

hữu tình

 17. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, chủ trương 

Đoạn diệt luận

chấp trước

 sự 

đoạn diệt

, tiêu thất, hủy hoại của loài 

hữu tình

 với bảy luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương 

Đoạn diệt luận

chấp trước

 sự 

đoạn diệt

, tiêu thất, hủy hoại của loài 

hữu tình

, chúng chấp cả bảy luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa. 

 18. Này các Tỷ-kheo. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

. Như vậy, Ngài tuệ ti hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 như vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

nhận biết

. Những pháp ấy 

Như Lai

 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

: và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 19. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hiện tại

 Niết Bànluận, 

chấp trước

 sự 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 với năm luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này, 

y chỉ

 gì, căn cứ gì, chủ trương 

Hiện tại

 Niết bànluận, 

chấp sự

 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 với năm luận chấp?

 20. Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hay Bà-la-môn chủ trương và 

quan niệm

: “Khi nào 

bản ngã

 này tận hưởng, 

sung mãn

 năm món 

dục lạc

, như thế 

bản ngã

 ấy 

đạt đến

 

tối thượng

 

Niết Bàn

 của loài hữu tình”. 

 21. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế, không phải 

hoàn toàn

 

đạt đến

 

tối thượng

 

Niết Bàn

. Vì cớ sao? Vì rằng tính của 

dục lạc

 và 

vô thường

, khổ, 

biến dịch

. Vì tánh của chúng là 

biến dịch

chuyển hóa

, nên ưu, bi, khổ, muộn, não phát sanh. Khi nào 

bản ngã

 ấy ly các 

dục lạc

, ly các 

ác pháp

đạt đến

 và 

an trú

 vào 

đệ nhất thiền

thiền định

 này có tầm, có tứ, có hỷ và có lạc, do 

ly dục

 sanh. Như thế, 

bản ngã

 ấy 

đạt đến

 

tối thượng

 

hiện tại

 Niết Bàn”. Như vậy có người chủ trương 

tối thượng

 hiện tạiNiết Bàn của loài 

hữu tình

 22. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế, không phải 

hoàn toàn

 

đạt đến

 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

. Vì cớ sao? Vì ở đây 

thiền định

 ấy có tầm, có tứ nên gọi là thô tháo. Khi nào 

bản ngã

 ấy có tầm và tứ, 

đạt đến

 và 

an trú

 

đệ nhị thiền

. Thiền địnhnày 

nội tâm

 yên tỉnh, trí 

chuyên nhất

 cảnh, không tầm, không tứ, 

hỷ lạc

 do định sanh. Như thế, 

bản ngã

 ấy 

đạt đến

 

tối thượng

 

hiện tại

 Niết Bàn”. Như vậy có người chủ trương 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 23. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế, không phải 

hoàn toàn

 

đạt đến

 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

. Vì cớ sao? Vì ở đây 

tâm trí

 có hỷ và bị kích động nên gọi là thô tháo. Khi nào 

bản ngã

 ấy không tham hỷ, trú xã, 

chánh niệm

chánh trí

, thân hưởng lạc mà các bậc thánh gọi là Hỷ niệm lạc trú – 

đạt đến

 và 

an trú

 

đệ tam thiền

. Như thế, 

bản ngã

 ấy 

đạt đến

 

tối thượng

 

hiện tại

 Niết Bàn”. Như vậy, có người chủ trương 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 24. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật có 

bản ngã

 ấy như ông nói. Tôi không nói 

bản ngã

 ấy không có. Nhưng 

bản ngã

 ấy như thế, không phải 

hoàn toàn

 

đạt đến

 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết bàn

. Vì cớ sao? Vì ở đây tâm 

thọ lạc

 nên gọi là thô tháo. Khi nào 

bản ngã

 ấy xả lạc và xả khổ, 

diệt trừ

 hỷ và ưu về trước, 

đạt đến

 và 

an trú

 vào 

đệ tứ thiền

. Thiền này không khổ, không lạc, xả niệm 

thanh tịnh

. Như thế, 

bản ngã

 ấy 

đạt đến

 

tối thượng

 

hiện tại

 Niết Bàn”. Như vậy có người chủ trương 

tối thượng

 hiện tạiNiết Bàn của loài 

hữu tình

 25. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trương 

Hiện tại

 Niết-bàn luận, 

chấp trước

 sự 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 với năm luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương 

Hiện tại

 Niết-bàn luận, 

chấp sự

 

tối thượng

 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

, những vị này sẽ chấp cả năm luận chấp trên, hay một trong năm luận chấp trên, 

ngoài ra

 không còn một luận chấp nào khác nữa. 

 26. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 như vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

 không có 

chấp thủ

. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

nhận biết

. Những pháp ấy 

Như Lai

 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

truyền thuyết

; và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 27. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy 

luận bàn

 về tương lai, chấp kiếnvề tương lai, 

y cứ

 về tương lai, sẽ 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, 

luận bàn

 về tương lai, 

chấp kiến

 về tương lai, 

y cứ

 về tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác. Chúng sẽ chấp bốn mươi bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài rakhông có luận chấp nào khác nữa. 

 28. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những định mạng như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sư 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

 của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 như vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

 29. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và 

luận bàn

 về tương lai, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

chấp kiến

 về quá khứtối sơ và tương lai, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

luận bàn

 về tương lai, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác. Những vị ấy sẽ chấp sáu mươi hai luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, 

ngoài ra

 không có luận chấp nào khác nữa. 

 30. Này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

tuệ tri

 như thế này: “Những 

sở kiến

 ấy, 

chấp trước

 như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ 

tác thành

 những 

định mệnh

 như vậy”. 

Như Lai

 

tuệ tri

 như vậy. Ngài 

tuệ tri

 hơn thế nữa, và Ngài 

không chấp

 

sở tri

 ấy. Nhờ 

không chấp

 trước 

sở tri

 ấy, 

nội tâm

 được 

tịch tịnh

. Ngài 

như thật

 

tuệ tri

 sự 

tập khởi

 sự diệt trừcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của chúng. Nhờ 

tuệ tri

 như vậy, này các Tỷ-kheo, 

Như Lai

 

được giải thoát

 

hoàn toàn

, không có 

chấp thủ

 31. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, 

tịch tịnh

, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, 

tế nhị

, chỉ những người có trí mới có thể 

nhận biết

. Những pháp ấy 

Như Lai

 

tự chứng

 tri, 

giác ngộ

 và 

tuyên thuyết

, và chính những pháp ấy những ai 

như thật

 chân chánh 

tán thán

 

Như Lai

 mới nói đến. 

 

Kết luận

 32. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 33. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự cảm thọcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 34. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 

vô biên

 với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

 

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 35. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

. Khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 36. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh với hai luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 37. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

đề xướng

 nhiều 

ý kiến

 sai khác với mười tám luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 38. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 có tưởng 

sau khi chết

 với mười sáu luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

 

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 39. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô tưởng

luậnsau khi chết, chấp 

bản ngã

 không có tưởng 

sau khi chết

 với tám luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 40. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Phi Hữu

 tưởng Phi 

Vô tưởng

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

 

sau khi chết

 với tám luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 41. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Đoạn diệt luận

chấp trước

 sự 

đoạn diệt

, tiêu mất, hủy hoại của loài 

hữu tình

 với bảy luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 42. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hiện tại

 

Niết Bàn

 luận, 

chấp trước

 sự 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 với năm luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 43. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về tương lai, 

chấp kiến

 về tương lai, 

y cứ

 về tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

, xuyên tạccủa những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 44. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

luận bàn

 về tương lai, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều sở kiếnsai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấy là 

kinh nghiệm

 

cá nhân

, là sự không biết, không thấy, sự 

cảm thọ

 của những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự 

kích thích

dao động

xuyên tạc

 của những vị bị 

tham ái

 

chi phối

 45. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 46. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác với bốn luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 47. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 

vô biên

 với bốn luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 48. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

. Khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 là do sự xúc chạm (của các căn). 

 49. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh với hai luận chấp. Chủ trương ấy phát khởido sự xúc chạm (của các căn). 

 50. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

y chỉ

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

đề xướng

 nhiều 

ý kiến

 sai khác với mười tám luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 51. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 có tưởng 

sau khi chết

 với mười sáu luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 52. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô tưởng

luậnsau khi chết, chấp 

bản ngã

 không có tưởng 

sau khi chết

 với tám luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 53. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

 

sau khi chết

 với tám luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 54. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Đoạn diệt luận

chấp trước

 sự 

đoạn diệt

, tiêu mất, hủy hoại của loài 

hữu tình

 với bảy luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 55. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hiện tại

 

Niết bàn

 luận, 

chấp trước

 sự 

hiện tại

 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 với năm luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 56. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về tương lai, 

chấp kiến

 về tương lai, 

y cứ

 về tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 57. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

luận bàn

 về tương lai, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều sở kiếnsai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấy 

phát khởi

 do sự xúc chạm (của các căn). 

 58. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn với bốn luận chấp. Những vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 59. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

, là thường còn đối với một hạng 

hữu tình

 và 

vô thường

 đối với một hạng 

hữu tình

 khác với bốn luận chấp. Những vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 60. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu biên Vô biên luận

, chấp 

thế giới

 là 

hữu biên

 

vô biên

 với bốn luận chấp. Những vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 61. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Ngụy biện luận

. Khi bị hỏi 

vấn đề

 này hay 

vấn đề

 khác dùng những lời 

ngụy biện

 trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Những vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 62. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương 

Vô nhân

 luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 do 

vô nhân

 sanh với hai luận chấp. Các vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 63. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

y chỉ

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

đề xướng

 nhiều 

ý kiến

 sai khác với mười tám luận chấp. Những vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 64. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu tưởng luận

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 có tưởng 

sau khi chết

 với mười sáu luận chấp. Các vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 65. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô tưởng

luậnsau khi chết, chấp 

bản ngã

 không có tưởng 

sau khi chết

 với tám luận chấp. Các vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 66. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Phi Hữu

 tưởng Phi 

Vô tưởng

 

sau khi chết

, chấp 

bản ngã

 

phi hữu

 tưởng phi 

vô tưởng

 

sau khi chết

 với tám luận chấp. Các vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 67. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Đoạn diệt luận

chấp trước

 sự 

đoạn diệt

, tiêu mất, hủy hoại của loài 

hữu tình

 với bảy luận chấp. Các vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương, trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 68. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hiện tại

 

Niết Bàn

 luận, 

chấp trước

 hiên tại 

Niết Bàn

 của loài 

hữu tình

 với năm luận chấp. Các vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 69. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về tương lai, 

chấp kiến

 về tương lai, 

y cứ

 về tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Các vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 70. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, 

luận bàn

 về tương lai, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

y cứ

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều sở kiếnsai khác với sáu mươi hai luận chấp. Những vị này không có thể 

cảm thọ

 những chủ trương trên, 

nếu không

 có 

cảm xúc

 71. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp 

bản ngã

 và 

thế giới

 là thường còn với bốn luận chấp; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần 

Vô thường

 luận; những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương 

Ngụy biện luận

; những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương 

Vô nhân

 luận; những Sa-môn, Bà-la-môn, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Hữu tưởng luận

 

sau khi chết

, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Vô tưởng luận

 

sau khi chết

; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Phi Hữutưởng Phi 

Vô tưởng

 

sau khi chết

; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

Đoạn diệt luận

; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương 

hiện tại

 

Niết Bàn

 luận; những Sa-môn, Bà-la-môn 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ; những Sa-môn, Bà-la-môn 

luận bàn

 về tương lai, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

y cứ

 vào 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Tất cả những vị này có những 

cảm thọ

 (những chủ trương trên) do sự xúc chạm qua 

sáu xúc

 xứ. Do duyên với những 

cảm thọ

 mà 

tham ái

 

phát khởi

; do duyên 

tham ái

, thủ 

phát khởi

; do duyên thủ, hữu 

phát khởi

; do duyên hữu, sanh 

phát khởi

, do 

duyên sanh

, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não 

phát khởi

. Này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo 

như thật

 biết sự 

tập khởi

, sự 

diệt trừ

, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự 

xuất ly

 của 

sáu chỗ

 

xuất xứ

, vị ấy sẽ có một sự 

hiểu biết

 vượt ra ngoài những điều trên. 

 72. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn nào 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, hay 

luận bàn

 về tương lai, hay 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

y cứ

 vào 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác tất cả những vị này đều bị bao trùm bởi lưới của sáu mươi hai luận chấp này, dầu chúng nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây. 

 Này các Tỷ-kheo, cũng 

ví như

 người đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ có mắt sít sao. Người ấy nghĩ: “Những con cá lớn ở trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây”. Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào, 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ, hay 

luận bàn

 về tương lai, hay 

luận bàn

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

chấp kiến

 về 

quá khứ

 tối sơ và tương lai, 

đề xướng

 nhiều 

sở kiến

 sai khác, tất cả những vị này đều bị bao phủ trong lưới của sáu mươi hai luận chấp này; dầu có nhảy vọt lên, những vị này vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây. 

 73. Này các Tỷ-kheo, thân của 

Như Lai

 còn 

tồn tại

, nhưng cái khiến đưa đến đời sốngkhác đã bị 

chấm dứt

. Khi thân của vị này còn 

tồn tại

 thời 

chư Thiên

 và 

loài Người

 còn có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại 

mạng chung

, thời 

chư Thiên

 và 

loài Người

 không thể thấy được. 

 Này các Tỷ-kheo, như nhánh có một chùm, xoài bị chặt đứt, tất cả trái xoài dính với nhánh ấy đều bị chung một số phận với nhánh kia. Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, thân của 

Như Lai

 còn 

tồn tại

, nhưng cái khiến đưa đến 

một đời

 sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân của vị này còn 

tồn tại

 thời 

chư Thiên

 và 

loài Người

 có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại 

mạng chung

 thời 

chư Thiên

 và 

loài Người

 không thể thấy được. 

 74. Khi nghe nói vậy, 

đại đức

 Ananda 

bạch đức Thế Tôn

:

 – 

Kỳ diệu

 thay, bạch Thế Tôn! 

Hy hữu

 thay, bạch Thế Tôn! 

Pháp môn

 này gọi là gì, bạch Thế Tôn?

 – Này Ananda, 

pháp môn

 này gọi là “Lợi Võng”, hãy như 

vậy mà

 phụng trì; gọi là “Pháp Võng”, hãy như 

vậy mà

 phụng trì; gọi là “Phạm Võng”, hãy như 

vậy mà

 phụng trì; gọi là “Kiếm Võng”, hãy như 

vậy mà

 phụng trì; gọi là “Vô thượng Chiến thắng”, hãy như 

vậy mà

 phụng trì.

 

Thế Tôn

 thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy 

hoan hỷ

 

tín thọ

 lời 

Thế Tôn

 dạy. Trong khi kinh này được 

truyền thuyết

, một ngàn 

thế giới

 đều 

rung động

.

 

Hòa thượng

 Thích 

Minh Châu

 dịch Việt 
Trích: 

(Brahmajàla sutta)

29. Này các Tỷ-kheo có những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ,vềtối sơ,vềtối sơ,nhiềusai khác, với mười tám luận chấp. Vàtheo gì, căngì, những Sa-môn, Bà-la-môn ấyvề phíatối sơ,vềtối sơ,vềtối sơ,ra nhiềusai khác với mười tám luận chấp?30. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp rằng: “Bản ngã vềlà thường còn” với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấpvàlà thường còn với bốn luận chấp?31. Này các Tỷ-kheo, nhờ nhiệt tâm, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm; khi tâm, vị ấy nhớ được nhiều, như, hai đời,, bốn đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời,trăm đời,ngàn đời,trăm ngàn đời, nhớ rằng: Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,như thế này,như thế này,như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống tên như thế này, giòng họ như thế này,như thế này,như thế này,như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi tôi được sanh tại chỗ này”. Như vậy người ấy nhớ nhiều đời, với nhữngvà những. Người ấy nói rằng: “Bản ngã vàlà thường trú,như đảnh núi, như trụ đá; còn những loạikia thời, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy? Vì rằng tôi do nhờ nhiệt tâm, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh… còn những loạikia thì, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú”.Này các Tỷ-kheo đó làthứ nhất,theo đó, cănđó, một số những vị Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằngvàlà thường còn.32.thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môngì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằngvàlà thường còn?Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm, khi tâm, vị ấy nhớ được nhiều, như một, hai, ba, mười; nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,như thế này,như thế này,như thế này… còn những loạikia, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ hai,theo đó, cănđó, một số những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận và chấp rằng,vàthường còn.33.thứ ba, những Sa-môn hay Bà-la-môn,gì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và cho rừngvàlà thường còn?Này các Tỷ-kheo, ở đời này có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, vị ấy nhớ được nhiều, như mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi thành kiếphoại kiếp, năm mươi; nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,như thế này,khổ thọnhư thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Từ chỗ ấy, chết đi, tôi lại được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này,như thế này,như thế này,khổ thọnhư thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi, tôi được sanh tại chỗ này”. Như vậy người ấy nhớ nhiều đờivới nhữngvà những. Người ấy nói: “Bản ngã vàlà thường trú,như đảnh núi, như trụ đá; còn những loạikia thì, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy? Vì rằng tôi nhờ nhiệt tâm… nên tâmnhư vậy. Khi tâmnhư vậy, tôi nhớ được nhiều, như mười… bốn mươihoại kiếp”. Nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi sống với tên như thế này… tôi được sanh tại chỗ này”. Như vậy người ấy nhớ nhiều đờivới những với nhữngvà những. Người ấy nói: “Bản ngã vàlà thường trú,như đảnh núi, trụ đá… còn những loạikia thì, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ ba,theo đó, cănđó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấpvàthường còn.34.thứ tư, những Sa-môn, Bà-la-môngì, căn cứ gì, chủ trương Thường trú luận, và chấpvàthường còn?Này các Tỷ-kheo, ở đời có Sa-môn hay Bà-la-môn, là nhà, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻ của, và sựtheo thẩm sát, vị nàynhư thế này: “Bản ngã vàlà thường trú,như đảnh núi, như trụ đá, còn những loạikia thời, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường còn”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ tư,theo đó, cănđó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấpvàlà thường còn.35. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này, chủ trương Thường trú luận, chấpvàlà thường còn, với bốn luận chấp. Nếu có những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương Thường trú luận, chấp rằng: “Bản ngã vàlà thường còn”, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.36. Này các Tỷ-kheo,như thế này: “Nhữngấy,như vậy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.biết như vậy, Ngài lại biết hơn thế nữa, và Ngài không chấpsở tri ấy. Nhờtrướcấy,chứng được. Ngài như thậtbiết sự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờ biết vậy, này các Tỷ-kheo,, không có37. Nhữngấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấy,đã thắng tri,và; và chính những pháp ấy, những aichân chánhmới nói đến.Tụng phẩm thứ hai1. Này các Tỷ-kheo, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạngkhác, với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy,gì, căn cứ gì chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạngkhác, với bốn luận chấp?2. Này các Tỷ-kheo, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau mộtrất lâu,này chuyển hoại. Trong khichuyển hoại,phần lớn sanh qua cõi Abhassara (). Ở tại đấy, những loạinày do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếutrên, sống trong sự, và sống như vậy mộtkhá dài.3. Này các Tỷ-kheo, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau mộtrất lâu,này chuyển thành. Trong khinày chuyển thành,được, nhưng trống không. Lúc bấy giờ, một, hoặcđã tận, hayđã tận,Âm thiên, sanh quatrống rỗng ấy. Vị ấy ở tại đấy, do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếutrên, sống trong sự, và sống như vậy trong mộtkhá dài.4. Vị này, tại chỗ ấy, sau khi sống lâunhư vậy, khởi ý chán nản, khôngvà có kỳ vọng: “Mong sao có các loàikhác, cũng đến tại chỗ này!” Lúc bấy giờ, các loàikhác, hoặcđã tận, hayđã tận, bịvà từÂm thiên, sanh quađể làm bạn vớitình kia. Những loạiở đấy cũng do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếutrên, sống trong sự, và sống như vậy, trong mộtkhá dài.5. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo,tình đầu tiên sanh qua nghĩ rằng: “Ta là, Biến nhãn, Thượng tôn,chủ,chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấngcácđã và sẽ sanh. Những loàiấy do chính ta sanh ra. Tại sao vậy? Vì chính do ta khởi niệm: Mong sao các loàikhác cũng đến tại chỗ này – Chính docủa ta mà những loàiấy đến tại chỗ này”. Các loàiđến sau cũng nghĩ như thế này: “Vị ấy là, đấng, Biến nhãn, Thượng tôn,chủ,chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấngcácđã và sẽ sanh.do vịnày. Vì sao vậy? Vì ta đã thấy vị này sanh trước ở đây rồi. Cònthì sanh sau”6. Này các Tỷ-kheo,tình sanh ra đầu tiên ấy sống được lâu hơn,hơn và được nhiềuhơn. Còn các loàisanh sau thì sống ngắn hơn,íthơn và được ít quyền hơn. Này các Tỷ-kheo,này xảy ra. Một trong các loàiấy, sau khithân kia lạiđến cõi này. Khi đến cõi này, vị ấy. Sau khitừ bỏgia đình,, vị ấy, nhờ nhiệt tâm, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, vị ấy nhớ tớiấy, chớ không nhớấy. Vị ấy nói rằng: “Vị kia là, đấng, Biến nhãn, Thượng tôn,chủ,chủ, Đại tôn, Chúa tể mị định mạng, đấngcácđã và sẽ sanh.do vịấy. Vị ấy là, thường trú, không bị, thường trú như vậy. Còndo vịấyđến tại chỗ này.là, không, yểu thọ và chịu sự biến dịch”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ nhất,theo đó, cănđó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạngkhác.7.thứ hai, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì, chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvà thế giớilà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạng hữu tìnhkhác?Này các Tỷ-kheo, có những hạnggọi là Khiddàpadosikà (bị nhiễm hoặc bởi). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu, nên bị. Do, cácấychúng.8. Này các Tỷ-kheo,này xảy ra. Một trong các loàikia khi thác sanhtừ bỏấy, lại sanh đến chỗ này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy. Sau khi, vị ấy nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, vị ấy nhớ đếnấy, chớ không nhớấy.9. Vị ấy nói rằng: “Nhữngkhông bị nhiễm hoặc bởi, chúng sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu. Vì sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu, nên không bị. Nhờ không, nên nhữngấy khôngcủa chúng, sống, thường trú, không bị, thường trú như vậy. Cònđã bị nhiễm hoặc bởi, sống lâu ngày mê say trong hý tiếu. Vìsống lâu ngày mê say trong hý tiếu, nên bị. Donày, sống, không, yểu thọ, chịu sựvàđến tại chỗ này”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ hai,theo đó, cănđó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạng, vàđối với một hạngkhác.10.thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì, chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvà thế giớilà thường còn với một hạng, vàđối với một hạngkhác?Này các Tỷ-kheo, có những hạnggọi là Manopadosikà (bị nhiễm hoặc bởi). Chúng sống lâu ngày nung nấu bởi sựlẫn nhau. Vì sống lâu ngày nung nấu bởi sựlẫn nhau,của chúng oán ghét lẫn nhau. Vìoán ghét lẫn nhau, nên thân chúng, tâm chúng. Các hạngấynày của chúng.11. Này các Tỷ-kheo,này xảy ra. Một trong cáctình kia, khi thác sanhtừ bỏấy, lại sanh đến cõi này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy. Sau khi, vị ấy nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, vị ấy nhớ đếnấy, nhưng không nhớấy.12. Vị ấy nói rằng: “Những vịkhông bị nhiễm hoặc bởi, chúng sống lâu ngày không nung nấu bởi sựlẫn nhau. Vì sống lâu ngày không nung nấu bởi sựlẫn nhau,của chúng không oán ghét nhau. Vìchúng không oán ghét nhau, nên thân chúng không, tâm chúng không. Những hàngấy khôngcủa chúng, sống, thường trú, không bị, thường trú như vậy mãi mãi”. Cònbị nhiễm hoặc bởi, sống lâu ngày nung nấu bởi sựlẫn nhau, nên tâm tríchúng ta oán ghét lẫn nhau. Vìoán ghét lẫn nhau, nên thân mệt mỏivà tâmthân này, sốngkhông, yểu thọ, chịu sựvàđến tại chỗ này”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ ba,theo đó, cănđó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạngkhác.13.thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvà thế giớilà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạng hữu tìnhkhác.Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn, hay Bà-la-môn là nhà, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻcủavà sựtheo thẩm sát, vị nàynhư thế này: “Cái gọi là mắt, là tai, là mũi, là lưỡi, là thân, cáiấy, không, không thường trú, bị. Cái gọi là tâm, là ý, là thức, cáiấy là thường còn,, thường trú, không bịnhư vậy mãi mãi”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ tư,theo đó, cănđó, một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạng, vàđối với một hạngkhác.14. Này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấpvàlà thường còn, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.15. Này các Tỷ-kheo,biết rằng: “Nhữngấy,như vậy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy, Ngài lạihơn thế nữa, và Ngàisở triấy. Nhờấy,được. Ngàibiết sự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờ biết vậy, này các Tỷ-kheo,, không cóNhững pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấy, những aichân chánhmới nói đến.16. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấplàvới bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì, chủ trương, chấplàvới bốn luận chấp?17. Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, vị ấy sống ởvớilà. Vị ấy nói rằng: “Thế giới này là, có một đường vòng chung quanh. Vì sao vậy? Vì tôi, nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, tôi sống vớilà. Do đó tôi biết rằngnày là, có một đường vòng chung quanh”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ nhất,theo đó, cănđó, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấplàvà18.thứ hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì, chủ trương, chấplàvà vô biên?Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn, nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, vị ấy sống ởvớilà. Vị ấy nói: “Thế giới này là, không có giới hạn”. Những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là, có một đường vòng xung quanh”, những vị ấy nói không đúngnày là, không có. Tại sao vậy? Vì tôi nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, tôi sống vớilà. Do đó tôi biết: “Thế giới này là, không có giới hạn”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ hai,như vậy, căn cứ như vậy, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấplà19.thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì, chủ trương, chấplàvô biên?Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, vị ấy sống ởvớilàvề phía trên, phía dưới vàlàvề phía bề ngang. Vị ấy nói: “Thế giới này làvà vô biên”. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này là, có một đường vòng, thì những vị ấy nói không đúng sự thật”. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này làkhông cóthì những vị ấy nói không đúngnày vừa là, vừa là. Tại sao vậy? Vì rằng, tôi nhờ, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Khi tâm, tôi sống ởvớilàvề phía trên, phía dưới, vàlàvề phía bề ngang. Do vậy tôi biết: “Thế giới này vừa làvừa là vô biên”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ ba,như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấplà20.thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì, chủ trương, chấplàvô biên?Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻcủavà sựtheo thẩm sát, vị này tuyên bốnhư sau: “Thế giới này không phải là, cũng không phải là. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này làcóxung quanh”, những vị ấy nói không đúng. Lại những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này làkhông có giới hạn” những vị ấy cũng nói không đúng. Lại những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói: “Thế giới này vừa làvừa là vô biên”, những vị ấy cũng nói không đúngnày cũng không phải là, cũng không phải là21. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trươngvới bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương, chấplà, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.22. Này các Tỷ-kheo,như thế này: “Nhữngấy,như vậy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy. Ngài lạihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngài như thậttuệ, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờvậy, này các Tỷ-kheo,, không cóNhững pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người trí mới có thể. Những pháp ấytri,và; và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.23. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương. Khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy,gì, căn cứ gì, chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn với bốn luận chấp?24. Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn khôngbiết “Đây là thiện” khôngbiết “Đây là bất thiện”. Vị ấy nghĩ: Tôi khôngbiết: “Đây là thiện”, khôngbiết: “Đây là bất thiện” và nếu tôi: “Đây là thiện” hoặc tôi: “Đây là bất thiện”, thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi . Nếu dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể bị. Nếu tôithì tôi bị. Nếu tôi bịsẽ thành mộtcho tôi – Như vậy, vì sợ, vì, nên vị ấy không: “Đây là thiện”, cũng không: “Đây là bất thiện”. Khi hỏi đếnnày haykhác, vị ấy dùng lờitrườn uốn như con lươn: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói làphải như thế”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ nhất,như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn.25.thứ hai, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn?Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, khôngbiết “Đây là thiện”, khôngbiết “Đây là bất thiện”. Vị ấy nghĩ: Tôi khôngbiết: “Đây là thiện”, khôngbiết: “Đây là bất thiện”. Vì tôi khôngbiết: “Đây là thiện”, khôngbiết “Đây là bất thiện”. Và nếu tôi: “Đây là thiện” hoặc tôi: “Đây là bất thiện”, thời dục, tham, sân hoặc hận, khởi lên nơi tôi. Nếu dục, tham, sân hoặc hận khởi lên nơi tôi, như vậy tôi có thể. Nếu tôi, thì tôi bị. Nếu tôi bị, thời thành mộtcho tôiNhư vậy, vì sợ, vì, nên vị ấy không: “Đây là thiện”, cũng không: “Đây là bất thiện”. Khi bị hỏi đếnnày haykhác, vị ấy dùng lờitrườn uốn như con lươn: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói làphải như thế”. Này các Tỷ-kheo, đó làthứ hai,như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, khi bị hỏi đếnnày haykhác, dùng những lờitrườn uốn như con lươn.26.thứ ba, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn?Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn khôngbiết “Đây là thiện”, khôngbiết “Đây là bất thiện”. Vị ấy nghĩ: Tôi khôngbiết: “Đây là thiện”, khôngbiết: “Đây là bất thiện”. Vì tôi khôngbiết “Đây là thiện”, khôngbiết “Đây là bất thiện” và nếu tôi: “Đây là thiện” hoặc: “Đây là bất thiện”, có những Sa-môn, Bà-la-môn,, nghị luận, biện bácnhư chia chẻ sợi tóc, những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiếnvớicủa chúng, chúng có thể đọ tài, chất vấn và cật nạn tôi. Nếu chúng đọ tài, chất vấn, cật nạn tôi, tôi cóđược cho chúng. Nếu tôiđáp được cho chúng, thì tôi bị. Nếu tôi bịthời thành mộtcho tôi – Như vậy, vì sợ bị, vì, nên vị ấy không: “Đây là thiện”, cũng không. “Đây là bất thiện”. Khi bị hỏi đếnnày haykhác, vị ấy dùng lờitrườn uốn như con lươn: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói làphải như thế”. – Này các Tỷ-kheo, đó làthứ ba,như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn.27.thứ tư, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn?Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn, Bà-la-môn. Vị này, vì, khi bị hỏinay haykhác, liền dùng những lờitrườn uốn như con lươn: “Anh hỏi tôi cógiới khác hay không?” Nếu tôi nghĩ “Cógiới khác”, tôi có thểvới anh: “Cógiới khác”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói làphải như thế. Nếu anh hỏi tôi: “Không cógiới khác phải không?” Nếu tôi nghĩ: “Không cógiới khác”, tôi có thểvới anh: “Không cógiới khác”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói làphải như thế. Nếu anh hỏi tôi “Không có một thếgiới khác phải không?” (… như trên… ) “Cũng có và cũng không cógiới khác?” “Cũng không có và cũngcógiới khác?”, “Có loạihóa sanh?”, “Không có loạihóa sanh?” “Cũng có và cũng không có loại hữu tìnhhóa sanh?” “Cũng không có và cũngcó loạihóa sanh?”, “Có kết quảcủa các nghiệp thiện và ác?”, “Không có kết quảcủa những nghiệp thiện và ác?”, “Cũng có và cũng không có kết quảcủa những nghiệp thiện và ác?”, “Cũng không có và cũngcó kết quảcủa những nghiệp thiện và ác?”, “Như Lai cósau khi chết?”, “Như Lai không cósau khi chết?”, “Như Lai có và không cósau khi chết?”, “Như Lai không có và cũngcósau khi chết?”. Anh hỏi tôi như vậy. Nếu tôi nghĩ : “Như Lai không có và cũngcósau khi chết”. Tôi có thể: “Như Lai không có và cũngcósau khi chết”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói làphải như thế.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ tư,như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn.28. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương. Khi bị hỏinày haykhác, dùng những lờitrườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương, khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn, chúng sẽ chấp cả bốn luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.29. Này các Tỷ-kheo,như thế này : “Nhữngấy,như vậy,như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy. Ngài lạihơn thế nữa. Và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờvậy, này các Tỷ-kheo,, không cóNhững pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấyđãtri,và. Và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.30. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận, chấpvàdosanh với hai luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn ấy,gì, căn cứ gì, chủ trươngluận, chấpvàdo vô nhânsanh?31. Này các Tỷ-kheo, có nhữnggọi là. Khi một tưởng niệm khởi lên, thờiấythâncủa mình. Này các Tỷ-kheo,này xẩy ra. Một trong loàiấy, khithânấy của mình, lại sanh đến cõi này. Khi đến tại chỗ này, vị ấy. Sau khi, vị ấy nhờ nhiệt tâm, nhờ, nhờ, nhờ không, nhờ chánh, nên tâm. Vị ấy nhớ đến khi tưởng niệm phát sanh, chớ không nhớ xa hơnnữa. Vị ấy nói : “Bản ngã vàdosanh. Tại sao vậy? Vì rằng tôi trước kia không có, nay tôi có. Từ nơikhông có, tôiloài hữu tình”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ nhất,như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận, chấpvàdo vô nhânsanh.32.thứ hai, những Sa-môn, Bà-la-môn,gì, căn cứ gì, chủ trươngluận, chấpvàdosanh?Này các Tỷ-kheo, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn là nhà, là nhà thẩm sát. Do sự chia chẻcủavà sựtheo thẩm sát, vị ấy: “Bản ngã vàsanh”.Này các Tỷ-kheo, đó làthứ hai,như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận, chấpvàdosanh.33. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận, chấpvàdosanh với hai luận chấp. Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trươngluận, chấpvàdosanh, chúng sẽ chấp cả hai luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.34. Này các Tỷ-kheo,như thế này : “Nhữngấy,như vậy,như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy, Ngài lạihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờnhư vậy, này các Tỷ-kheo,, không có. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấyđãtri,và. Và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.35. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-mônvềtối sơ,vềtối sơ,vềtối sơ,nhiềusai khác với mười tám luận chấp trên. Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn hoặc Bà-la-mônvềtối sơ,vềtối sơ,vềtối sơ,nhiềusai khác, chúng sẽ chấp cả mười tám luận chấp trên hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.36. Này các Tỷ-kheo,như thế này : “Nhữngấy,như vậy,như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy. Ngài lạihơn thế nữa. Và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờvậy, này các Tỷ-kheo,, không cóNhững pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấyđãtri,và. Và chính những pháp ấy, những aichân chánhmới nói đến.37. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-mônvề tương lai, chấp kiếnvề tương lai,về tương lai,nhiềusai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Và những vị Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì,về tương lai,về tương lai,về tương lainhiềusai khác với bốn mươi bốn luận chấp?38. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấpcó tưởngvới mười sáu luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì, chủ trương, với mười sáu luận chấp?Những vị này chủ trương : “Bản ngã có sắc, không có bệnh,có tưởng”. Chúng chủ trương : “Bản ngã có sắc và cũng không có sắc …”, “Bản ngã cũng không có sắc và cũngcó sắc …”, “Bản ngã là…”, “Bản ngã là…”, “Bản ngã làvà vô biên”, “Bản ngã cũngbiên và cũngbiên …”, “Bản ngã là nhất tưởng …”, “Bản ngã là dị tưởng …”. “Bản ngã là thiểu tưởng …”, “Bản ngã làtưởng …”, “Bản ngã là thuần lạc …”, “Bản ngã là thuần khổ …”, “Bản ngã là khổ lạc”. Chúng chủ trương : “Bản ngã là không khổ khônglạc, không có bệnh,có tưởng”.39. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương, chấpcó tưởngvới mười sáu luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn này chủ trương, chúng sẽ chấp cả mười sáu luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.40. Này các Tỷ-kheo,như thế này : “Nhữngấy,như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy, Ngài lạihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờ không chấptrướcấy,được. Ngàisự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờvậy, này các Tỷ-kheo,, không có. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấyđãtri,và. Và chính những pháp ấy, những aichân chánhmới nói đến.Tụng phẩm thứ ba1. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương, chấpkhông có tưởngvới tám luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì, chủ trương, chấpkhông có tưởngvới tám luận chấp?2. Những vị này chủ trương : “Bản ngã có sắc, không có bệnh,không có tưởng”, “Bảncó sắc …”, “Bản ngã có sắc và cũng không có sắc …”, “Bảncó sắc và cũngcó sắc …”, “Là…”, “Là…”, “Làvà…”. Các vị này chấplàbiên và phi, không có bệnh,không có tưởng.3. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn này chủ trương, chấpkhông có tưởngvới tám luận chấp. – Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương, chấpkhông có tưởng, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.4. Này các Tỷ-kheo.như thế này : “Nhữngấy,như vậy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy. Ngài lạihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngài như thậttuệ, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờvậy, này các Tỷ-kheo,, không cóNhững pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấytri,và; và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.5. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấptưởng phivới tám luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì, chủ trương, chấptưởng phivới tám luận chấp?6. Những vị này chấp: “Bản ngã có sắc, không có bệnh,tưởng phi… “, “Bản ngã là… “, “Bản ngã có sắc và cũng không có sắc… “, “Bản ngã làsắc và cũng phi… “, “Bản ngã là… “, “Bản ngã là… “, “Bản ngã làvà… “.7. Những vị này chấp rằng.làbiên và cũng phi, không có bệnh,tưởng phi, với tám luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, chủ trươngtưởng phi, chúng sẽ chấp cả tám luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.8. Này các Tỷ-kheo,như thế này: “Nhữngấy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy. Ngàihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờvậy, này các Tỷ-kheo,, không có. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấytri,và; và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.9. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trươngsự, sự tiêu thất, sự hủy hoại của loàivới bảy luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì,sự, sự tiêu thất, sự hủy hoại của loàivới bảy luận chấp?10. Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hoặc Bà-la-môn chủ trươngvà: “Vìnày có sắc, dohợp thành, dosanh ra, khi thân hoại bị hủy nátkhông còn nữa, nênnày như thếđoạn diệt”. Như vậy một số người chủ trương sự, sự tiêu thất và sự hủy hoại của loài11. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cónhư ông nói. Tôi không nói bản ngãấy không có, nhưngấy như thế không bị. Lại còn mộtkhác có thiên tánh, có sắc, thuộc, ăn các đồ ăn. Bản ngãấy ông không biết, ông không thấy.ấy tôi biết, tôi thấy.ấy khi thân hoại, bị hủy nátkhông còn nữa, nênấy như thếđoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự, tiêu thất và hủy hoại của loài12. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế không bị. Lại còn mộtkhác có thiên tánh, có sắc, do ý tạo thành, mọitay chân lớn nhỏ đều đầy đủ, không khuyết một căn nào.ấy ông không biết, ông không thấy.ấy tôi biết, tôi thấy.ấy khi thân hoại bị hủy nát,, sau khi chếtkhông còn nữa, nênấy như thếđoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự, tiêu thất và hủy hoại của loài13. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế không bị. Lại còn mộtkhác vượt ngoài tất cả sắc tưởng,các tưởng chống đối, khôngcác dị tưởng, nhận hiểulà. Bản ngãấy ông không biết, ông không thấy.ấy tôi biết, tôi thấy.ấy khi thân hoại, bị hủy nátkhông còn nữa, nênấy như thếđoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự, tiêu thất và hủy hoại của loài14. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế không bị. Lại còn mộtkhác vượt ngoài tất cả, nhận hiểu: Thức làấy ông không biết, ông không thấy.ấy tôi biết, tôi thấy.ấy khi thân hoại, bị hủy nát,không còn nữa, nênấy như thếđoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự, tiêu thất và hủy hoại của loài15. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế không bị. Lại còn mộtkhác vượt ngoài tất cả, nhận hiểu: không cóấy ông không biết, ông không thấy.ấy tôi biết, tôi thấy.ấy khi thân hoại bị hủy nát,không còn nữa, nênấy như thếđoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự, tiêu thất và hủy hoại của loài16. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế không bị. Lại còn mộtkhác vượt ngoài tất cả, nhận hiểu: Đây là, đây là mỹ diệu.ấy ông không biết, ông không thấy.ấy tôi biết, tôi thấy.ấy khi thân hoại, bị hủy nátkhông còn nữa, nênấy như thếđoạn diệt”. Như vậy có một số người chủ trương sự, tiêu thất và hủy hoại của loài17. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy, chủ trươngsự, tiêu thất, hủy hoại của loàivới bảy luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trươngsự, tiêu thất, hủy hoại của loài, chúng chấp cả bảy luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.18. Này các Tỷ-kheo.như thế này: “Nhữngấy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.. Như vậy, Ngài tuệ ti hơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờnhư vậy, này các Tỷ-kheo,, không có. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấytri,và: và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.19. Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngNiết Bànluận,sựcủa loàivới năm luận chấp. Và những Sa-môn, Bà-la-môn này,gì, căn cứ gì, chủ trươngNiết bànluận,của loàivới năm luận chấp?20. Này các Tỷ-kheo, có Sa-môn hay Bà-la-môn chủ trương và: “Khi nàonày tận hưởng,năm món, như thếấycủa loài hữu tình”.21. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế, không phải. Vì cớ sao? Vì rằng tính củavà, khổ,. Vì tánh của chúng là, nên ưu, bi, khổ, muộn, não phát sanh. Khi nàoấy ly các, ly cácvàvàonày có tầm, có tứ, có hỷ và có lạc, dosanh. Như thế,ấyNiết Bàn”. Như vậy có người chủ trươnghiện tạiNiết Bàn của loài22. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế, không phải. Vì cớ sao? Vì ở đâyấy có tầm, có tứ nên gọi là thô tháo. Khi nàoấy có tầm và tứ,và. Thiền địnhnàyyên tỉnh, trícảnh, không tầm, không tứ,do định sanh. Như thế,ấyNiết Bàn”. Như vậy có người chủ trươngcủa loài23. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế, không phải. Vì cớ sao? Vì ở đâycó hỷ và bị kích động nên gọi là thô tháo. Khi nàoấy không tham hỷ, trú xã,, thân hưởng lạc mà các bậc thánh gọi là Hỷ niệm lạc trú -và. Như thế,ấyNiết Bàn”. Như vậy, có người chủ trươngcủa loài24. Một vị khác lại nói: “Này ông, thật cóấy như ông nói. Tôi không nóiấy không có. Nhưngấy như thế, không phải. Vì cớ sao? Vì ở đây tâmnên gọi là thô tháo. Khi nàoấy xả lạc và xả khổ,hỷ và ưu về trước,vàvào. Thiền này không khổ, không lạc, xả niệm. Như thế,ấyNiết Bàn”. Như vậy có người chủ trươnghiện tạiNiết Bàn của loài25. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy chủ trươngNiết-bàn luận,sựcủa loàivới năm luận chấp. Này các Tỷ-kheo, nếu có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trươngNiết-bàn luận,của loài, những vị này sẽ chấp cả năm luận chấp trên, hay một trong năm luận chấp trên,không còn một luận chấp nào khác nữa.26. Này các Tỷ-kheo,như thế này: “Nhữngấy,như vậy sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy. Ngàihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisự, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờnhư vậy, này các Tỷ-kheo,không có. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấytri,và; và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.27. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấyvề tương lai, chấp kiếnvề tương lai,về tương lai, sẽnhiềusai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,về tương lai,về tương lai,về tương lai,nhiềusai khác. Chúng sẽ chấp bốn mươi bốn luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài rakhông có luận chấp nào khác nữa.28. Này các Tỷ-kheo,như thế này: “Nhữngấy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhững định mạng như vậy”.như vậy. Ngàihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisư, sựcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờnhư vậy, này các Tỷ-kheo,, không có29. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn ấyvềtối sơ vàvề tương lai,vềtối sơ và tương lai,về quá khứtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,nhiềusai khác với sáu mươi hai luận chấp. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào,vềtối sơ,về tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,nhiềusai khác. Những vị ấy sẽ chấp sáu mươi hai luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên,không có luận chấp nào khác nữa.30. Này các Tỷ-kheo,như thế này: “Nhữngấy,như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽnhữngnhư vậy”.như vậy. Ngàihơn thế nữa, và Ngàiấy. Nhờtrướcấy,được. Ngàisựsự diệt trừcủa các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sựcủa chúng. Nhờnhư vậy, này các Tỷ-kheo,, không có31. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông,, chỉ những người có trí mới có thể. Những pháp ấytri,và, và chính những pháp ấy những aichân chánhmới nói đến.32. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, chấpvàlà thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị33. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạngkhác với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sự cảm thọcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị34. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấplàvới bốn luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị35. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương. Khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị36. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trươngluận, chấpvàdosanh với hai luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị37. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ,vềtối sơ,vềtối sơ,nhiềusai khác với mười tám luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị38. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấpcó tưởngvới mười sáu luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị39. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluậnsau khi chết, chấpkhông có tưởngvới tám luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị40. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngtưởng Phi, chấptưởng phivới tám luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị41. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngsự, tiêu mất, hủy hoại của loàivới bảy luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị42. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận,sựcủa loàivới năm luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị43. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,về tương lai,về tương lai,về tương lai,nhiềusai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sự, xuyên tạccủa những vị bị44. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ,về tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,nhiều sở kiếnsai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấy là, là sự không biết, không thấy, sựcủa những Sa-môn, Bà-la-môn, là sựcủa những vị bị45. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấpvàlà thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).46. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvàlà thường còn đối với một hạngvàđối với một hạngkhác với bốn luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).47. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấplàvới bốn luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).48. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương. Khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Chủ trương ấylà do sự xúc chạm (của các căn).49. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trươngluận, chấpvàdosanh với hai luận chấp. Chủ trương ấy phát khởido sự xúc chạm (của các căn).50. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ,vềtối sơ,vềtối sơ,nhiềusai khác với mười tám luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).51. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấpcó tưởngvới mười sáu luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).52. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluậnsau khi chết, chấpkhông có tưởngvới tám luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).53. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấptưởng phivới tám luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).54. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngsự, tiêu mất, hủy hoại của loàivới bảy luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).55. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận,sựcủa loàivới năm luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).56. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,về tương lai,về tương lai,về tương lai,nhiềusai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).57. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ,về tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,nhiều sở kiếnsai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấydo sự xúc chạm (của các căn).58. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấpvàlà thường còn với bốn luận chấp. Những vị này không có thểnhững chủ trương trên,có59. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận, chấpvà, là thường còn đối với một hạngvàđối với một hạngkhác với bốn luận chấp. Những vị này không có thểnhững chủ trương trên,có60. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấplàvới bốn luận chấp. Những vị này không có thểnhững chủ trương trên,có61. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương. Khi bị hỏinày haykhác dùng những lờitrườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Những vị này không có thểnhững chủ trương trên,có62. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trươngluận, chấpvàdosanh với hai luận chấp. Các vị này không có thểnhững chủ trương trên,có63. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ,vềtối sơ,vềtối sơ,nhiềusai khác với mười tám luận chấp. Những vị này không có thểnhững chủ trương trên,có64. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, chấpcó tưởngvới mười sáu luận chấp. Các vị này không có thểnhững chủ trương trên,có65. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluậnsau khi chết, chấpkhông có tưởngvới tám luận chấp. Các vị này không có thểnhững chủ trương trên,có66. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngtưởng Phi, chấptưởng phivới tám luận chấp. Các vị này không có thểnhững chủ trương trên,có67. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngsự, tiêu mất, hủy hoại của loàivới bảy luận chấp. Các vị này không có thểnhững chủ trương, trên,có68. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận,hiên tạicủa loàivới năm luận chấp. Các vị này không có thểnhững chủ trương trên,có69. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,về tương lai,về tương lai,về tương lai,nhiềusai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Các vị này không có thểnhững chủ trương trên,có70. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ,về tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,nhiều sở kiếnsai khác với sáu mươi hai luận chấp. Những vị này không có thểnhững chủ trương trên,có71. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấpvàlà thường còn với bốn luận chấp; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phầnluận; những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương; những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trươngluận; những Sa-môn, Bà-la-môn,vềtối sơ, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Phi Hữutưởng Phi; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương; những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trươngluận; những Sa-môn, Bà-la-mônvềtối sơ; những Sa-môn, Bà-la-mônvề tương lai,vềtối sơ và tương lai,vàotối sơ và tương lai,nhiềusai khác với sáu mươi hai luận chấp. Tất cả những vị này có những(những chủ trương trên) do sự xúc chạm quaxứ. Do duyên với nhữngmà; do duyên, thủ; do duyên thủ, hữu; do duyên hữu, sanh, do, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheobiết sự, sự, vị ngọt, sự nguy hiểm và sựcủa, vị ấy sẽ có một sựvượt ra ngoài những điều trên.72. Này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn nàovềtối sơ, hayvề tương lai, hayvềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,vàotối sơ và tương lai,nhiềusai khác tất cả những vị này đều bị bao trùm bởi lưới của sáu mươi hai luận chấp này, dầu chúng nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây.Này các Tỷ-kheo, cũngngười đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ có mắt sít sao. Người ấy nghĩ: “Những con cá lớn ở trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây”. Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào,vềtối sơ, hayvề tương lai, hayvềtối sơ và tương lai,vềtối sơ và tương lai,nhiềusai khác, tất cả những vị này đều bị bao phủ trong lưới của sáu mươi hai luận chấp này; dầu có nhảy vọt lên, những vị này vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây.73. Này các Tỷ-kheo, thân củacòn, nhưng cái khiến đưa đến đời sốngkhác đã bị. Khi thân của vị này cònthờivàcòn có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại, thờivàkhông thể thấy được.Này các Tỷ-kheo, như nhánh có một chùm, xoài bị chặt đứt, tất cả trái xoài dính với nhánh ấy đều bị chung một số phận với nhánh kia. Cũng như vậy này các Tỷ-kheo, thân củacòn, nhưng cái khiến đưa đếnsống khác đã bị chặt đứt. Khi thân của vị này cònthờivàcó thể thấy thân ấy. Khi thân hoạithờivàkhông thể thấy được.74. Khi nghe nói vậy,Anandathay, bạch Thế Tôn!thay, bạch Thế Tôn!này gọi là gì, bạch Thế Tôn?- Này Ananda,này gọi là “Lợi Võng”, hãy nhưphụng trì; gọi là “Pháp Võng”, hãy nhưphụng trì; gọi là “Phạm Võng”, hãy nhưphụng trì; gọi là “Kiếm Võng”, hãy nhưphụng trì; gọi là “Vô thượng Chiến thắng”, hãy nhưphụng trì.thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấylờidạy. Trong khi kinh này được, một ngànđềuThíchdịch ViệtTrích: Đại Tạng Kinh Việt Nam

Rate this post

Viết một bình luận