Nghệ thuật tạo hình
-
pdf
-
119
trang
MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: KIẾN THỨC CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH
1.1. Nguồn gốc ra đời và sự phát triển của Nghệ thuật tạo hình
1.2. Vai trò của Nghệ thuật tạo hình trong cuộc sống
CHƢƠNG 2: CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT VÀ KIẾN THỨC
CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH
2.1. Hội họa
2.2. Đồ họa
2.3. Điêu khắc
2.4. Luật xa gần
2.5. Tỷ lệ người
CHƢƠNG 3: KỸ NĂNG TẠO HÌNH
3.1. Vẽ theo mẫu
3.2. Vẽ trang trí
3.3. Bố cục tranh
3.4. Nặn
CHƢƠNG 4: THỰC HÀNH TẠO HÌNH
4.1. Thực hành vẽ theo mẫu
4.2. Thực hành trang trí ở nhóm trẻ và lớp mẫu giáo
4.3. Thực hành vẽ tranh đề tài
4.4. Thực hành nặn mẫu vật đơn giản
CHƢƠNG 5. TÌM HIỂU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
TẠO HÌNH, TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM
5.1. Tác giả, tác phẩm nghệ thuật tạo hình Việt Nam
5.1.1. Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (1892-1984).
5.1.2. Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1854).
5.1.3. Họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910-1994).
5.1.4. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung (1912-1977).
5.1.5. Họa sĩ Bùi Xuân Phái (1920-1988).
5.1.6. Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1922-2016).
5.1.7. Họa sĩ Nguyễn Sáng (1923-1988).
5.2. Tranh dân gian Việt Nam
CHƢƠNG 6: THỰC HÀNH PHÂN TÍCH TÁC PHẨM NGHỆ
THUẬT TẠO HÌNH VÀ TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM
6.1. Phân tích các tác phẩm nghệ thuật tạo hình Việt Nam tiêu biểu
6.2. Phân tích tranh dân gian Việt Nam tiêu biểu
* Tài liệu tham khảo
1
3
3
21
22
22
33
39
44
48
55
55
64
71
79
86
86
67
88
89
90
90
90
92
95
98
100
102
104
107
111
111
113
119
LỜI NÓI ĐẦU
Nghệ thuật tạo hình là một trong những nội dung không thể thiếu trong
quá trình tổ chức dạy trẻ hoạt động tạo hình. Nếu dạy – học các môn học khác là
khó thì dạy nghệ thuật càng khó hơn, cần phải mang tính nghệ thuật cao. Song
không phải là không dạy được, vì học nghệ thuật tạo hình đem lại niềm vui cho
con người, làm cho con người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp có ở trong mình,
xung quanh mình, gần gũi và đáng yêu. Nhưng tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình
như thế nào? Học phần nghệ thuật tạo hình sẽ giúp cho sinh viên hiểu thêm về
các loại hình nghệ thuật tạo hình, tìm hiểu một số tác giả, tác phẩm nghệ thuật
tạo hình và tranh dân gian Việt Nam; nắm bắt cụ thể kiến thức và kỹ năng tạo
hình như: vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, bố cục tranh và nặn. Đặc biệt là được thể
hiện kỹ năng thực hành tạo hình cơ bản.
Bài giảng chia thành 6 chương:
Chương 1. Kiến thức chung về nghệ thuật tạo hình;
Chương 2. Các loại hình nghệ thuật và kiến thức cơ bản về NTTH;
Chương 3. Kỹ năng tạo hình;
Chương 4. Thực hành tạo hình;
Chương 5. Tìm hiểu tác giả, tác phẩm NTTH và tranh dân gian VN;
Chương 6. Phân tích tác phẩm NTTH và tranh dân gian VN tiêu biểu.
Hiểu về Nghệ thuật tạo hình và các kiến thức cơ bản tạo hình ra sao? Học
tốt hay bình thường? điều đó tùy thuộc vào ý thức học tập của mỗi người. Mong
muốn mọi người luôn tâm niệm rằng: mình đang được học môn nghệ thuật tạo
hình, môn học mà các em rất thích, song ít có điều kiện để tìm hiểu, tiếp xúc. Sự
hào hứng học tạo hình của học sinh là nguồn động viên lớn, tạo điều kiện cho
chúng ta dạy Nghệ thuật tạo hình tốt hơn nhằm đáp ứng lòng mong đợi của học
sinh, của xã hội…
Đây là cuốn bài giảng được biên soạn lần đầu, trên cơ sở lựa chọn các nội
dung tinh nhất từ các tài liệu tham khảo cộng với vốn hiểu biết, nghiên cứu và
giảng dạy môn Nghệ thuật tạo hình của tác giả, mặc dù đã rất cố gắng, song do
khả năng và tư liệu tham khảo còn hạn chế nên chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của đồng
nghiệp và sinh viên để bài giảng được hoàn thiện hơn!
2
CHƢƠNG I
KIẾN THỨC CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH
1.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT
TẠO HÌNH
1.1.1. Khái niệm về Nghệ thuật tạo hình
Nghệ thuật tạo hình (hội họa, đồ họa, điêu khắc) là loại hình nghệ thuật mà
người nghệ sỹ thể hiện tác phẩm của mình bằng ngôn ngữ tạo hình, thể loại, chất
liệu để diễn tả lại hình tượng con người, sự vật, cảnh vật ở hiện thực khách quan
bằng cách cảm, cách nhìn, cách hiểu và cách thể hiện thông qua tư duy thẩm mỹ
của mình để hoàn thành tác phẩm nghệ thuật.
1.1.2. Nguồn gốc ra đời và sự phát triển của Nghệ thuật tạo hình
1.1.1.1. Nguồn gốc ra đời
Nghệ thuật tạo hình là một trong những lĩnh vực nghệ thuật có nguồn gốc ra
đời sớm nhất, được thể hiện qua các di chỉ thời nguyên thủy để lại như: các công
cụ bằng đá, đồ gốm, đồ trang sức, hình khắc mặt người, các con thú, lá cây trên
vách đá, hang đá,…
Từ xa xưa khi xã hội loài người là nguyên thuỷ thì đã có những biểu hiện về
đời sống nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói riêng. Từ những di chỉ còn để lại
trong các hang động đã cho nhân loại thấy được phần nào về cuộc sống, sinh hoạt
tinh thần của loài người lúc bấy giờ. Từ khi cuộc sống con người đang ở một trình
độ xã hội lạc hậu nguyên thuỷ thì loài người đã có những nhu cầu thẩm mỹ nhất
định. Có thể nói, nghệ thuật trang trí xuất hiện sớm nhất so với các lĩnh vực khác,
bằng chứng cho thấy từ những đồ vật, công cụ lao động bằng đá thô sơ đã có
những thể hiện trang trí phong phú theo ý thức thẩm mỹ của họ lúc bấy giờ.
* Ở Việt Nam
Hình khắc ở trên hang Đồng Nội và hình khắc trên đất, đá ở Thái Nguyên
Ngày nay, nghệ thuật phát triển đạt đến trình độ văn minh hiện đại thì chúng
ta vẫn cảm nhận được các yếu tố mỹ thuật từ cách đây vài nghìn năm nhưng vẫn
3
không mấy thay đổi về nguyên tắc trang trí. Di sản văn hoá đồ đồng của Việt Nam
đã để lại các loại trống đồng đặc sắc với sự thể hiện những sinh hoạt, tập tục văn
hoá tinh thần của người Việt cổ.
Tượng người thổi khèn trên cán muôi ở Việt Khê – Hải Phòng
Tượng người trên cán dao ở Đông Sơn – Thanh Hóa
Trồng đồng và hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ
4
Hoa văn trang trí trên mặt trống đồng Ngọc Lũ
Thời đại đồng thau gồm có 4 giai đoạn:
* Phùng Nguyên: Khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II (TCN)
* Đồng Đậu: Khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II (TCN)
* Gò Mun: Khoảng nửa sau thiên niên kỷ II (TCN)
* Đông Sơn: Từ thế kỷ VIII (TCN) đến thế kỷ II (SCN).
* Trên Thế giới
Các di chỉ để lại như các hình vẽ trong các hang động tiêu biểu như hang Anta-mi-ra ở Tây Ban Nha và hang Lát-xcô ở Pháp,…. đã cho nhân loại thấy được
cuộc sống xã hội của con người phương Tây thời xưa cho đến nay.
Hình vẽ bò rừng trong hang An-ta-mi-ra ở Tây Ban Nha
5
Hình vẽ trong hang Lát-xcô ở Pháp
Nhiều chuẩn mực về cái đẹp cho đến ngày nay con người vẫn còn áp dụng
phù hợp. Chẳng hạn chuẩn mực về vẻ đẹp của cơ thể con người như Tượng thần
Vệ Nữ thành Milo (Venus de Milo) là một bức tượng Hy Lạp cổ đại và là một tác
phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ đại nổi tiếng nhất. Tượng được điêu khắc trên chất liệu
cẩm thạch, hơi lớn hơn người thật với chiều cao 2,03 m. Đây là một tỷ lệ mà nhân
loại cho là tỷ lệ „„Vàng‟‟ để dánh giá vẻ đẹp cơ thể người phụ nữ trong mọi thời
đại.
Tượng Thần Vệ Nữ thành Milo (Venus de Milo)
6
1.1.1.2. Sự phát triển của Mỹ thuật
* Mỹ thuật thời Cổ đại
– Ai Cập cổ đại:
Nghệ thuật Ai Cập luôn hướng tới sự vĩnh hằng, sự trường tồn. Điều này thể
hiện trong kiến trúc, điêu khắc và bích họa. Các tác phẩm nghệ thuật của Ai Cập
được làm bằng chất liệu bền vững và chúng tồn tại cho đến tận ngày nay. Quan
niệm, lòng tin và sự bất diệt của linh hồn đã chi phối mạnh mẽ tới nghệ thuật tạo
hình và tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ.
Nghệ thuật Ai Cập mang nặng tính tôn giáo. Thông qua các phần còn lại ta
thấy các nghệ sỹ Ai Cập đã rất ưu tiên đề tài tôn giáo, tín ngưỡng. Bị ảnh hưởng
của thần thoại, tôn giáo họ đã sáng tác ra nhiều hình tượng thần bí, siêu thực như
hình tượng các vị thần đầu thú mình người, tượng nhân sư đầu người mình sư tử…
Chính đặc điểm thứ nhất đã nảy sinh đặc điểm thứ hai. Những ước lệ tạo hình cổ
đã chi phối nghệ thuật Ai Cập trong hai lĩnh vực điêu khắc (phù điêu) và bích họa.
Các hình tượng phù điêu và bích họa Ai Cập đều được thể hiện nhìn chính
diện nghiêm trang, ngay ngắn hoặc sự kết hợp của đầu mặt nghiêng, thân thẳng
chân nghiêng. Hai bàn chân nhìn nghiêng và được nhìn từ phía ngón cái là đặc
điểm đặc biệt trong các hình tượng phù điêu và bích họa Ai Cập. Sở dĩ người Ai
Cập tạo hình như vậy vì họ quan niệm về sự toàn vẹn của hình tượng. Họ muốn
trên một hình tượng nhưng có thể nhìn thấy nhân vật ở tất cả các hướng. Mặt khác
các hướng chọn để diễn tả phải là hướng mà các đặc điểm thể hiện rõ đặc trưng
nhất. Ví dụ con mắt nhìn nghiêng không cho thấy rõ “mắt” bằng con mắt nhìn
thẳng; bàn chân nhìn từ phía ngón cái và nghiêng có đặc điểm hơn… Như vậy
người Ai Cập đã rất khéo chọn lựa và khéo sắp xếp. Nhìn thoáng qua ta thấy hình
vẽ Ai Cập có dạng vặn ra nhiều chi tiết tưởng như không hợp lý phải nghiên cứu
mới thấy sự sáng tạo và tài năng của người Ai Cập khi tạo hình. Như vậy mới có
cái nhìn đúng đắn về giá trị của nghệ thuật Ai Cập.
Kim Tự Tháp – Là công trình kiến trúc tiêu biểu của Ai Cập
7
Trong nghệ thuật Ai Cập, các loại hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc và
bích họa luôn gắn bó với nhau. Nghệ thuật Ai Cập là nghệ thuật tổng hợp. Trong
đó kiến trúc phát triển sớm nhất và mạnh nhất. Điêu khắc và tranh vẽ gắn với kiến
trúc. Tất cả đều thống nhất phong cách và hòa hợp trong một tổng thể hoàn chỉnh.
– Hy Lạp cổ đại:
Qua ba loại hình nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và tranh của Hy Lạp cổ đại ta
có thể thấy rõ đặc điểm đặc trưng nhất của nghệ thuật Hy Lạp. Đó là một nền nghệ
thuật gắn liền với thần thoại. Mà thần thoại Hy Lạp vừa giải thích, mô phỏng tự
nhiên, xã hội vừa là những trang viết huyền thoại về lịch sử Hy Lạp. Quan niệm
thần nhân đồng hình đã dẫn đến đặc điểm cho nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Tính chất
tôn giáo, thần thoại bọc lộ ở nội dung, đề tài. Nhưng qua các hình tượng nhân vật
các tác giả lại muốn ca ngợi vẻ đẹp của con người, một vẻ đẹp hoàn thiện về cả
ngoại hình và nội tâm. Các nghệ sỹ Hy Lạp đã bỏ được công thức chi phối trong
nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu, những ước lệ tạo hình cơ sở để tiến tới một nền
nghệ thuật hiện thực giàu tính nhân văn. Các loại hình nghệ thuật tạo hình đều phát
triển và có thành tựu cao, để lại nhân loại nhiều tác phẩm vô giá. Đó là nền móng,
là cơ sở cho nghệ thuật tạo hình châu Âu sau này.
Đền Pác-tê-nông – Là công trình kiến trúc tiêu biểu của Hy Lạp
– La Mã cổ đại:
Trong mỹ thuật La Mã hai loại hình nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phát
triển mạnh hơn hội hoạ. Kiến trúc La Mã phát triển nhiều thể loại phong phú, đáp
ứng nhu cầu về mặt vật chất và tinh thần cho cuộc sống của người La Mã. Kích
thước của chúng thường là to lớn, đồ sộ. Có sự ảnh hưởng của kiến trúc Hy Lạp
qua các hình thức cột được sử dụng. Kiến trúc La Mã đặc biệt thành công trong
việc ghép các tảng đá hình cái nêm để tạo nên các vòm mái, vòng cung. Vật liệu sử
dụng có thể là gạch, hoặc kết hợp gạch và đá. Kiến trúc thường đi song đôi với
điêu khắc cả ở thể loại tượng tròn cũng như chạm nổi. Đôi khi chúng còn gắn bó
8
với nhau thành một tổng thể, một tác phẩm hoàn chỉnh: cái này làm tôn ý nghĩa và
vẻ đẹp của cái kia lên rất nhiều.
Qua sự phát triển của mỹ thuật La Mã, ta thấy được cái đẹp mang tính chất
hoành tráng, cao cả của La Mã. Khác hẳn với vẻ đẹp thanh lịch tao nhã, nhẹ nhàng
của nghệ thuật Hy lạp. Điêu khắc La Mã đặc biệt sáng tạo trong thể loại tượng
chân dung và những phù điêu mang tính lịch sử. Tính chất lịch sử và nhân văn
được bọc lộ rõ ràng.
Mỹ thuật Hy Lạp và La Mã xứng đáng là những nền mỹ thuật đi tiên phong
tìm tòi, để diễn tả hiện thực thông qua các đề tài thần thoại, tôn giáo… Đây chính
là cơ sở phát triển mỹ thuật trong các giai đoạn sau, kể từ thời Phục hưng.
Đấu trường Cô-li-dê – Là công trình kiến trúc tiêu biểu của La Mã
* Mỹ thuật thời Phục hưng
– Mỹ thuật thời Trung cổ:
Kế thừa các phong cách nghệ thuật của các nền nghệ thuật lớn trước đó. Thời
Trung cổ còn một phong cách nghệ thuật tồn tại nữa. Đó là nghệ thuật của đế quốc
Bi-dăng-xơ là mảnh đất nằm giữa vịnh Sừng vàng (Golden Horn) và biển
Marmara. Từ năm 330 Hoàng đế Công-xang-ti-nôp chọn Bi-dăng-xơ làm thủ đô
của đế quốc Đông La Mã. Trong các công trình kiến trúc đáng chú ý là nhà thờ
Xô-phi-a (360-l354). Trong 10 thế kỷ nhà thờ thánh Xô-phi-a được xây dựng lại 6
lần. Công trình được xem là lớn nhất Thiên chúa giáo (đến thế kỷ XV) Công trình
được xây dựng là sự kết hợp thể thức kiến trúc mặt bằng chữ nhật của La Mã và
mặt bằng chữ thập Hy Lạp. Đặc biệt là những nóc tròn các kiến trúc sư cho dát
bằng các kim loại quý như vàng, để tăng thêm phần sáng cho “ngôi nhà của chúa”,
9
đã tạo nét riêng biệt và sáng tạo cho kiến trúc Bi-dăng-tanh. Đồng thời cũng đánh
dấu sự tiến bộ của kỹ thuật xây cất kiến trúc thời kỳ này so với thời La Mã cổ đại.
Cùng với sự phục hồi của kiến trúc, điêu khắc cũng khục hồi trở lại từ thế kỷ
XI. Lúc đầu chỉ là những phù điêu trang trí với đề tài hoa lá. Do quy định nghiêm
ngặt của giáo hội nên hình tượng người không được đề cập tới trong nghệ thuật tạo
hình. Theo quan niệm tôn giáo, kẻ nào làm việc tạo ra con người giống Chúa trời
sẽ bị trị tội. Sau này khi không bị cản trở bởi những tư tưởng cực đoan đó nghệ
thuật tạo hình mới có điều kiện phát triển, trong nghệ thuật Gô-tích hình tượng
điêu khắc được sử dụng rộng rải. Tượng người diễn tả các vị thánh và đề tài phát
xét cuối cùng chiếm phần lớn diện tích trang trí kiến trúc như ở cổng phía nam của
nhà thờ Sác-tơ-rơ (Chatres) ở Pháp. Cổng này còn được gọi là cổng “Ngày phán
xét cuối cùng và lòng từ bi” (1215-1240).
Điêu khắc Gô-tích phát triển từ phù điêu hình tượng nổi từ thấp đến cao dần,
và cuối cùng là tượng tròn. Tính khoa học trong hình tượng điêu khắc cũng ngày
một nâng cao. Tỷ lệ cân đối hơn, hoàn thiện hơn. Trong nghệ thuật Bi-dăng-tanh
hầu như không sử dụng hình tượng điêu khắc mà chủ yếu là diện trang trí bằng các
hoạ tiết phong phú và lộng lẫy về hình, màu sắc. Các môtíp như hoa hồng, hoa cẩm
chướng, lá nho… được sử dụng nhiều. Hoa văn động vật không được người Bidăng-tanh chú trọng.
Nhà thờ Thánh Xô-phi-a – Là công trình kiến trúc tiêu biểu thời Trung cổ
Cùng với phong cách kiến trúc lại có những thể loại tranh phù hợp. Với phong
cách Rô-măng khi nghệ thuật mới được phục hồi trở lại sau một thời gian hạn chế
tàn lụi, thể loại tranh được phát triển là trang khuôn khổ nhỏ, với chức năng minh
hoạ cho sách kinh thánh, hay còn gọi là các bức tiểu hoạ. Thể loại này có màu sắc
đơn giản. Ngôn ngữ đặc trưng là nét. Bố cục rất đơn giản, súc tích và dễ hiểu đồng
10
thời bọc lộ nội dung sâu sắc. Vì làm chức năng minh hoạ nên nội dung chính của
thể loại này là nội dung tôn giáo.
Vì kiến trúc Gô-tích, các nhà thờ có nhiều khoảng trống, phù hợp với loại
tranh ghép kính màu, thể loại này đã tạo hiệu quả trang trí cao. Khi ánh sáng mặt
trời chiếu qua các lớp kính tạo ra một lớp ánh sáng huyền ảo, gợi không khí huyền
bí thiêng liêng trong nhà thờ. Thời Gô-tích chủ yếu là tranh thờ, tranh thánh. Đề tài
chính là tranh vẽ các vị thánh, chúa, Đức mẹ, Chúa hài đồng… Có thể tranh đơn,
nhưng cũng có thể bày nhiều bức tranh đơn ghép lại thành bức tranh tượng bình
thường (bức bình phong về tranh thánh) bày ngang trước bàn thờ chúa. Yếu tố màu
sắc cũng được chú trọng, các màu xanh, đỏ, vàng rất được yêu thích. Có thể nhận
định một cách chính xác rằng nghệ thuật thời trung cổ đã tạo ra một biển người
phù hợp với lí tưởng tôn giáo, niềm tin tôn giáo, ít chất hiện thực nhưng giàu tính
siêu hình thần bí và biểu hiện cảm xúc, tình cảm tôn giáo: “kiểu người mộ đạo kinh
thánh”.
– Mỹ thuật thời Phục hưng:
* Nghệ thuật kiến trúc
Thời Trung cổ, kiến trúc Bigăngtanh chiếm lĩnh hầu hết các thành thị lớn của
ý như Ra-ven-nơ, Vơ-ni-dơ, Phờ-lô-răng-xoa… phần còn lại của bán đảo chịu ảnh
hưởng của kiến trúc Rô măng, Gô tích. Thời tiền Phục hưng, nhà kiến trúc thiên tài
Brunenlếtky (1377-1446) đã cho ra đời kiến trúc Phục hưng bằng “nhà thờ Thánh
Mẫu Mang và hoa”, mà đỉnh nóc nhà thờ là một khối tròn đa diện. Những công
trình xây dựng sau như đền Pít-ti, nhà thờ Tháng Lô-răng, đền Rít-các-đi với nhà
kiến trúc lớn An-béc-ti (1391-1472) là thành tựu quan trọng của kiến trúc thời kỳ
Phục hưng và đại Phục hưng Ý.
* Nghệ thuật điêu khắc
Đại diện tiêu biểu cho điêu khắc thời tiền Phục hưng đó là Giacôpôđelakecxia
(1374 – l438) tác giả mộ I.Ta-li-a ở nhà thờ Lút-cơ. Tiếp theo ông là nhà điêu khắc
nổi tiếng Ghi-béc-ti (1378- l456), người trúng tuyển cuộc thi làm cửa tây lễ đường
Phơ-lô-răng-xơ. ông đã bỏ ra 40 năm trời, từ khi mới 25 tuổi đến lúc 74 tuổi mới
hoàn thành công trình này. Người đời sau xem cánh cửa này là “cửa Thiên đàng”.
Người có thể so sánh với Ghi-bec-ti là Đô-na-ten-lô (1386-1466) với tác phẩm
tuyệt vời, tượng nhà tiên tri Đavit, Nữ thánh May đơ len, Thánh Goóc-giơ…
Điêu khắc giai đoạn đại Phục hưng bằng thiên tài Mi-ken-lăng-giơ (14751564), ông vừa là nhà điêu khắc, vừa là hoạ sỹ, vừa là kiến trúc sư, thi sĩ. Tác
phẩm nổi tiếng của ông như: quần tượng Pi-ét-ta (Maria-khóc con), tượng tròn Đavít (cao 5,5m), tranh trên đền Xtin-nơ mãi mãi là niềm tự hào của nước Ý.
11
Mi-ken-lăng-giơ (1501-1504) – Đa-vít – Tượng đá cẩm thạch
* Nghệ thuật hội hoạ:
Các hoạ sỹ tiền Phục hưng còn hơn cả các nhà điêu khắc trên con đường phấn
đấu nhiều mặt để đi đến cho tả thực hơn về người, cảnh vật, màu sắc, không khí…
Trong buổi đầu tiền Phục hưng hai hoạ sỹ nổi bật ở Phờ-lô-răng-xơ là
Madayxiô và Pharaănggiơlicô.
Hoạ sỹ Ma-dắc-xi-ô (1401-l428) với các tác phẩm: “Món nợ Thánh Pie”, “A
đam và E va bị đuổi khỏi vườn địa đàng” v.v… là bài học, là mục tiêu phấn đấu.
Hoạ sỹ Phơ-răng-giơ-lic-ô (1378-1455) với những tác phẩm đầy vẻ chân thật,
hấp dẫn mạnh mẽ được mọi người ca ngợi hết lòng. Cùng với hai tên tuổi trên, sau
này xuất hiện Pau-lô U-xen-lô (1397-1475), Bô-ti-xen-li (1445-1510) với những
tác phẩm nghiên cứu về cảnh, màu sắc, ánh sáng trong diễn đạt những đề tài kinh
thánh.
12
Lê-ô-na đờ Vanh-xi(1495-1498) – Bữa tiệc cuối cùng – Tranh tường
Thời đại Phục hưng không có phát minh gì mới trong nghệ thuật tạo hình, cơ
sở khoa học của hình họa căn bản đã được xây dựng trong thời tiền Phục hưng
song chưa có một thời nào của lịch sử nhân loại đã sinh ra những thiên tài mỹ thuật
vĩ đại như thời Phục hưng Ý.
Ra-pha-en (1505) – Đức Mẹ đồng trinh và Chúa hài đồng – Sơn dầu
13
Nói đến mỹ thuật thời đại Phục hưng phải kể đến Lê-ô-na đơ Vanh-xi. Mi-kelăng-giơ, Ra-pha-en… Thực ra không phải chỉ bấy nhiêu mà còn nhiều hoạ sỹ
không kém phần lớn lao, về mặt nào đó có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sau. Đó là
Ti-dia-nô-vê-sen-li (Tisiên), Tanh-tô-rê, Cô-re-giơ, Rô-být-ti… Như đã nói trên,
thời đại Phục hưng với trung tâm nghệ thuật là thủ đô Rô ma nhưng thực ra phải kể
đến khi Giáo hoàng Gnynlơ đệ nhị cho thiết kế và xây dựng giáo đô Vaticăng thì
các nghệ sỹ mới đổ về Rô ma ngày càng nhiều, tạo nên những tác phẩm bất hủ.
– Mỹ thuật Châu Âu:
* Trường phái Dã thú
Theo Từ điển thuật ngữ mỹ thuật: “Trường phái Dã thú là trường phái hội hoạ
có cách dùng màu nguyên chất, chói lọi và sự đơn giản về hình cũng như về luật xa
gần. Trường phái Dã thú mang tính tiên phong trong nền nghệ thuật châu Âu nửa
đầu thế kỷ XX”.
Ma-tít-xơ (1905) – Thiếu nữ và chiếc mũ – Sơn dầu 80,6 x 59,7cm
Các hoạ sỹ Dã thú cho rằng nghệ thuật là phải thể hiện những cảm xúc mạnh
mẽ trước tự nhiên. Phương tiện để thể hiện cảm xúc đó là màu sắc. Đề tài không
quan trọng. Nét và hình của hội hoạ Dã thú thường sử dụng bút pháp phóng đại,
cường điệu trong những biến dạng của hình thể. Tranh Dã thú rút ngắn chiều sâu
không gian và giản lược các mô típ, làm cho tranh mang hiệu quả trang trí nhiều
hơn mô tả thực. Luật xa gần, sáng tối, không được các hoạ sỹ Dã thú chú trọng nên
tranh của họ trông đơn giản, hiền lành, trong sáng giống tranh trẻ con. Ma-tít-xơ
14
cho rằng: Hiện thực cuộc sống đã quá phức tạp. Hoạ sỹ phải làm thế nào để hiên
thực ấy trong tranh của mình được đơn giản và dễ hiểu. Có hai đối tượng nhìn sự
vật và các hiện tượng đơn giản nhất. Một là trẻ con và hai là người nguyên thuỷ.
Họ chủ trương hãy nhìn bằng con mắt trẻ thơ. Họ hướng về nghệ thuật nguyên
thuỷ, đưa các yếu tố biểu hiện của nghệ thuật nguyên thuỷ vào đề tài hiện đại. Tất
cả những điều đó lý giải vì sao tranh của các hoạ sỹ Dã thú lại được nhận xét là có
màu sắc như “ảo ảnh”, như “điên dại”, đầy vẻ “huyền ảo”. Đó là sự do sáng tác.
Tranh Dã thú có nét vẻ ngộ nghĩnh, ngây thơ như tranh vẽ thiếu nhi…
Hội hoạ Dã thú thực sự là một sự đổi mới trong nghệ thuật tạo hình. Nghệ
thuật không phải chỉ mô tả hiệc thực mà nghệ thuật là sự biểu hiện cảm xúc của tác
giả trước cuộc sống.
* Trường phái Lập thể
Trường phái Lập thể (Cubisme) là một trường phái hội hoạ hiện đại trong đó
các vật thể được thể hiện như được tạo nên bằng các hình hình học. Nghệ thuật
Lập thể ra đời ở Pa-ri (Pháp). Nối tiếp khuynh hướng Dã thú, năm 1907. Nó tồn
tại đến năm 1914.
Pi-cát-xô (1907) – Những cô gái A-vi-nhông – Sơn dầu 2,43 x 2,53m
Thành viên của nhóm Lập thể là các hoạ sỹ Pháp, đứng đầu là Pi-cát-xô
(Picasso 1881-1973).Nếu Ma-tít-xơ và các hoạ sỹ Dã thú say sưa với cường độ và
15
độ sâu huyền bí trong tranh Van-gốc và Gô-ganh thì có một số hoạ sỹ lại thích thú
với sự tìm tòi, nghiên cứu về hình thể của Xê-dan. Họ đi theo hướng mà Xê-dan đã
chỉ ra: “Thiên nhiên tồn tại ở chiều sâu hơn là bề mặt… Hãy quy tất cả thành khối
trụ, khối cầu, khối chóp và đặt tất cả dưới phép thấu thị” (Xê-dan). Sự “phát minh”
này của Xê-dan đã gợi ý để các hoạ sỹ đẩy cao hơn việc nghiên cứu về hình thể
của các sự vật. Các hoạ sỹ theo trường phái này tin rằng họ sẽ đưa lại cho người
xem những hình thể mới cơ bản và bản chất của sự vật, thoát khỏi ngoại hình vốn
có và được hiện ra dưới con mắt nhìn.
* Trường phái Trừu tượng
Nghệ thuật Trừu tượng là trào lưu hội hoạ có từ những năm 1910-1914. Đó là
nghệ thuật không thể hiện đối tượng một cách hiện thực, như mắt mọi người nhìn
thấy mà biểu thị những ý nghĩ, cảm xúc của người nghệ sỹ về một số mặt nào đó
của đối tượng. Trong nghệ thuật tạo hình, trừu tượng là sự phát huy yếu tố biểu đạt
của đường nét, màu sắc, hình khối để thể hiện những ý tưởng tạo hình, hay những
cảm xúc về màu sắc, hình…
Kan-đin-xki (1925) Màu vàng, màu đỏ, màu xanh – Sơn dầu 127 x 200cm
Có rất nhiều kiểu trừu tượng như trừu tượng hình học, trừu tượng biểu hiện,
trừu tượng sáng tạo… Hội hoạ Trừu tượng như là sự kết hợp của Lập thể hay Dã
thú: lập thể về hình và dã thú về màu sắc. Nghệ thuật Trừu tượng cũng xuất hiện ở
nhiều nước như Pháp, Đức, hà Lan và Nga. Sau này nghệ thuật Trừu tượng trở
16
thành một trường phái nghệ thuật lan tràn khắp các nước tư bản châu Âu, châu Á,
châu Mỹ. Thời kỳ phát triển mạnh nhất là khoảng giữa thế kỷ XX. Nghệ thuật
Trừu tượng có thể coi là hệ quả tất yếu của nghệ thuật Lập thể. Khi Lập thể có
chiều hướng xa sút một số hoạ sỹ Lập thể đã chuyển sang vẽ Trừu tượng. Hai hoạ
sỹ có sự chuyển hướng đầu tiên là Rô-be Đờ-lô-nay (Robert Delaunay 1885-1941)
và Phrăng Kúp-ka (Frank Kupka 1871-1957).
Kan-đin-xki trở thành hoạ sỹ Trừu tượng và nhà lý luận Trừu tượng đầu tiên.
Trong các bức tranh sáng tác từ 1910 của Kan-đin-xki ta thấy ba yếu tố ngôn ngữ
hội hoạ được ông sử dụng triệt để, đó là hình, màu sắc và bố cục.
Ngày nay, nghệ thuật Trừu tượng được chấp nhận, nhưng ở bước đầu hình
thành, không phải ai cũng hiểu tranh của Kan-đin-xki. Bởi đó là một cái mới trong
nghệ thuật tạo hình, cái mới đó không thể cảm nhận từ cái nhìn mà chỉ có thể nhận
biết nó bằng lý trí, bằng những quan niệm thẩm mỹ mới thế kỷ XX.
* Trường phái Siêu thực
Siêu thực là điều vượt quá hiện thực, mang lại sự lạ lùng, thậm chí là kỳ dị.
Nghệ thuật Siêu thực là một trào lưu văn học và nghệ thuật ở thế kỷ XX nó cố
diễn tả tiềm thức bằng cách trình bày các vật thể và sự việc như là nhìn thấy trong
giấc mơ.
Từ năm 1924, 1925, Đa-li bắt đầu đi vào phong cách Siêu thực. Tranh của Đali có màu sắc tươi sáng. Các hình tượng trong tranh được sắp xếp theo một lô-gích,
một trật tự của riêng hoạ sỹ. Trật tự ấy mang màu sắc triết lý, tư duy trừu tượng.
Tuy vậy có nhiều tác phẩm bọc lộ một cách sâu sắc các ý tưởng của hoạ sỹ và đơn
giản về hình tượng giúp người xem có thể cảm nhậ được ý đồ chủ quan của nghệ
sỹ. Tác phẩm Sự dai dẳng của ký ức vẽ năm 1931 là môt trong những tác phẩm
thành công của ông. Trong bức tranh này, Đa-li đã diễn tả bầu trời xanh, biển,
những dãy núi màu vàng sáng chạy đậm ra biển, mặt đất đậm. Trên nền thực đó,
hoạ sỹ “vắt” ở trên một cành cây khô, một chiếc bục và hình kỳ dị ba mặt đồng hồ
như được làm bằng chất dẻo. Ta có thể liên tưởng khái niệm ký ức, thời gian với
ba mặt đồng hồ trên. Ngoài ra ta còn thấy trên bục có một vật kỳ lạ màu đỏ, có
nhiều con kiến đang vây quanh. Vật này trông giống như một chiếc đồng hồ quả
quýt. Nhưng nhũng con kiến đen, mọng được diễn tả cẩn thận, kỹ càng, gợi cảm
giác gì thì người xem khó cảm nhận được. Đó là thế giới Siêu thực của Đa-li, mà
có lẽ tác giả là người hiểu sâu sắc nhất. Đôi khi Đa-li lại tìm thấy cảm hứng từ các
tác phẩm của bậc thầy trước như từ tranh: “Tiếng chuông chiều” của hoạ sỹ Pháp:
Giăng Phrăng-xoa Mi-lê (Jean Francois Miller). Đa-li đã vẽ Tiếng chuông chiều
theo phong cách Siêu thực. Với phong cách Siêu thực, tranh của ông lại mang đến
cho chúng ta một cảm xúc thẩm mỹ khác.
17
Tác phẩm Đứa trẻ đang xem sự ra đời của con người mới (1943) của Đa-li đã
cho ta thấy tầm triết lý cao siêu, trí tưởng tượng phong phú của hoạ sỹ. Ta thấy một
quả trứng khổng lồ đang nứt làm đôi. Từ vết nứt đó chảy ra một giọt máu đỏ. Một
con người đang vùng đạp để được sinh ra. Vỏ trứng mềm, dẻo gợi cho ta về Trái
Đất với các lục địa diễn tả bằng màu vàng. Góc bên trái là người mẹ và một đứa bé
khoả thân, thể hiện rất kỹ, tỷ mỉ. Toàn bộ bức tranh trong hoà sắc vàng, ấm áp.
Đa-li gọi tranh của mình là “những tấm ảnh trong mơ vẽ bằng tay”. Ông muốn
chứng minh rằng thế giới thực chứa đựng nhiều sự phi lý và nghệ thuật phải làm
những cái đó. Tuy vậy, có thể thấy rằng Đa-li đã tạo được cho tranh của mình một
cách biểu hiện mới lạ. Cho dù có những tác phẩm khó lý giải vì đó là những hình
ảnh không có thực. Nhưng thế mới là nghệ thuật: càng khó càng gây sự say mê, sự
thu hút muốn tìm hiểu. Nhà văn Pháp An-be Ca-muy (Albert Camus) đã viết về
nghệ thuật Siêu thực như sau: “Thật là một cuộc nổi loạn thực sự, một sự bất phục
tùng hoàn toàn… chủ nghĩa Siêu thực muốn lên án tất cả và muốn mọi cái phải làm
lại từ đầu”. Cuộc “nổi loạn” đó đã tạo ra những giá trị nhất định và mở đường cho
nhiều hoạ sỹ đi trên con đường đó và sáng tạo.
Đa-li (1943) – Đứa trẻ đang xem sự ra đời của con người mới – Sơn dầu
18
Đa-li, bằng tranh của mình đã muốn dẫn chúng ta từ thế giới hiện thực đến thế
giới tâm linh mà ta chưa tiếp cận được. Phong cách của ông được nhiều hoạ sỹ tiếp
nhận và đi theo.
– Mỹ thuật Châu Á:
* Mỹ thuật Trung Quốc
Trung Quốc là một trung tâm văn minh của thế giới cổ đại. Về mặt mỹ thuật,
Trung Quốc có nhiều thành tựu to lớn, nhất là lĩnh vực hội họa. Tranh của họ mang
tinh thần triết lý cao siêu, mang tâm trạng sâu sắc của người vẽ và có nhiều ý nghĩa
tượng trưng. Vì thế mà nó mang đậm tính dân tộc, tính Á Đông và có ảnh hưởng
đến nhiều nước xung quanh như Triều Tiên, Nhật Bản… trong một số lĩnh vực
nhất định. Nền mỹ thuật đó phát triển liên tục hơn 4000 năm lịch sử, đóng góp vào
kho tàng mỹ thuật thế giới một phong cách độc đáo, rực rỡ muôn màu và những
tác phẩm vô giá. Các nghệ sỹ hiện đại Trung Quốc đã tiếp thu tinh thần đó, kết hợp
với phong cách phương Tây để tạo ra một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc mà
vẫn mang theo tinh thần, hơi thở của cuộc sống hiện đại.
Tử Cấm Thành – Công trình kiến trúc tiêu biểu của Trung Quốc
* Mỹ thuật Ấn Độ
Xã hội Ấn Độ chia thành nhiều giai cấp, nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột
tàn nhẫn, đạo Phật ra đời không phân biệt giai cấp, tuyên truyền từ bi bác ái, nên
được nhiều người ngưỡng mộ, tạo nên thời kỳ thịnh hành của Phật giáo từ thế kỷ 3
19
đến thế kỷ thứ 7. Đạo Bà-la-môn cải biến thành Ấn Độ giáo, trở thành quan trọng
nhất về mặt tín ngưỡng cũng như về mặt văn hoá chiếm 85% dân số.
Ấn Độ giáo, căn bản dựa trên sự sùng bái ba vị thần chính: Baraman, VíchNu,
Si va và các thần hoá thân khác như: Ra Ma, Savarati, Látkơmi, Pácvati. Nghệ
thuật Ấn Độ giáo có những tác phẩm được liệt vào hạng tuyệt tác của Mỹ thuật thế
giới như điêu khắc ở đền Enlora, êlêphăngta và Mavalipuram.
Tượng Mahêxamuốcti, tượng nữ thần Damunra có thể sánh với tượng Thiên
vương Mylasa và Vê-nuýt Hy Lạp. Một trong những trung tâm quan trọng của
nghệ thuật Ấn Độ giáo là Malipuram gần thành phố Mađôra ngày nay. Những di
tích mỹ thuật nổi tiếng này thuộc về thời vua Palava ở thế kỷ thứ VI. Tác phẩm nổi
tiếng “Sự xuống thế của sông Hằng” với cách diễn tả thế giới loài vật đầy sinh
động và tình cảm.
Kiến trúc Ấn Độ là một trong những nền kiến trúc lớn nhất của thế giới. Do
ảnh hưởng của tôn giáo (3 tôn giáo). Vì vậy ở kiến trúc Ấn Độ cũng có ba thể loại:
– Kiến trúc Ấn Độ giáo (Kiến trúc Cung đình)
– Kiến trúc Phật giáo (Kiến trúc chùa Hang)
– Kiến trúc Hồi giáo (Kiến trúc ngoài trời)
Thành Tát-ma-han, công trình kiến trúc tiêu biểu của Ấn Độ
* Mỹ thuật Nhật Bản
Nhật Bản là một đất nước bao gồm hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ cách biệt với
các dân tộc văn minh trên các lục địa Á-Âu. Vì vậy đến đầu thế kỷ thứ VI S.CN,
người Nhật vẫn ở trong tình trạng lạc hậu, về mỹ thuật không có gì đáng kể. Giữa
thể kỷ VI, vua Cao Ly gửi tặng bang chúa Damôtô, thủ lĩnh đầu tiên của Thiên
20