Mỗi quốc gia trên thế giới đều mang trong mình những bản sắc riêng để thể hiện sự tự tôn dân tộc, đồng thời chứng mình sự độc lập, tự chủ về lãnh thổ. Việt Nam trải qua hàng nghìn năm phát triển đã luôn tạo cho mình những dấu ấn lịch sử riêng, đặc biệt là sự ra đời của Quốc hiệu.
Vậy Quốc hiệu là gì? Ý nghĩa của việc sử dụng Quốc hiệu là thế nào? Qua bài viết dưới đây để tìm hiểu vấn đề này.
Quốc hiệu là gì?
Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một quốc gia. Đối với các dân tộc, việc đặt quốc hiệu, tên nước gắn liền với một sự kiện lịch sử nào đó có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc, đây cũng là một trong những phương thức khẳng định một quốc gia có lãnh thổ riêng, trong đó có số lượng dân cư nhất định và có nền độc lập, chủ quyền riêng biệt.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trải qua nhiều lần đổi tên nước, mỗi lần thay đổi đều gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu một thời kì phát triển mới của đất nước.
Ngoài ra còn chứng minh, khẳng định một lần nữa về nền độc lập, là một quốc gia có lãnh thổ, sông núi riêng, phong tục tập quán và nền pháp luật riêng biệt.
Việt Nam ta đã trải qua nhiều lần đổi tên trong lịch sử như: Tên nước Văn Lang do 18 đời vua Hùng dựng nước và giữ nước, nước Âu Lạc do vua An Dương Vương trị vì. Đến thế kỉ VI, Lý Bí đánh thắng quân Lương, đổi tên nước là Vạn Xuân; Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh đổi tên nước là Đại Cồ Việt.
Lý Công Uẩn lên làm vua, lấy tên nước là Đại Việt; Lê Lợi cùng với quân dân sau 10 năm chiến đấu, lật đổ được ách nô dịch của triều đại nhà Minh, giành được quyền độc lập, tự chủ cho dân tộc, khôi phục lại tên nước Đại Việt; Gia Long thắng được triều đại Tây Sơn, đặt quyền cai trị lên cả nước, đặt quốc hiệu Việt Nam, với tư cách là một quốc gia thống nhất.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1945 nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi, đổi tên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài việc giải thích Quốc hiệu là gì? chúng tôi còn chia sẻ các thông tin hữu ích có liên quan đến quốc hiệu trong nội dung bài viết này, do đó, Quý độc giả đừng bỏ lỡ.
Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào?
Trải qua quá trình nghiên cứu và nhiều nhận định cho rằng quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời nhà nguyễn, do chính sử nước ta lẫn Trung Quốc đều ghi nhận điều này.
Năm 1802, sau khi lên ngôi hoàng đế, vua Gia Long đã phái hai sứ đoàn sang Trung Quốc, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt quốc hiệu nước là Nam Việt.
Sau khi lên nối ngôi Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Đại Nam (1838), cái tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam quang phục hội (1912); Phan Chu Trinh viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội (năm 1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (năm 1941)…
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Đại. Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam. Ngày 19-8-1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó.
Ý nghĩa quốc hiệu trong văn bản
Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao; biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc.
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn, nước ta từng có những quốc hiệu như Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt… Từ ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định đổi thành quốc hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cho đến ngày nay.
Thật ra, ngoài những văn bản của cơ quan Đảng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có quy định riêng, thì các văn bản do Nhà nước ban hành hoặc một số văn bản hành chính thông thường do công dân soạn thảo cũng cần ghi quốc hiệu, bởi lẽ: Xét về tính chính trị, quốc hiệu hiện nay khẳng định Nhà nước Việt Nam có hình thức chính thể là cộng hòa XHCN, có chế độ chính trị dân chủ XHCN và là nhà nước đơn nhất, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Đặc biệt, dòng tiêu ngữ đi kèm “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” khẳng định mục tiêu có tính bản chất trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa cộng sản – chế độ chính trị mà toàn Đảng, toàn dân ta hướng đến; là thành quả, khát khao mà nhiều thế hệ nhân dân đã đổ mồ hôi, hy sinh xương máu để xây dựng qua trường kỳ lịch sử, nên ghi nhận quốc hiệu là thể hiện lòng yêu nước của mỗi công dân.
Về tính pháp lý, quốc hiệu nước ta đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992. Cụ thể hóa Hiến pháp, tại Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP và Thông tư số 01/2011/TT-BNV về hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản cũng đã quy định quốc hiệu trở thành một trong các thành phần của văn bản. Vì vậy, việc ghi quốc hiệu còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng, là sự tôn trọng Hiến pháp và pháp luật.
Do đó, nếu thiếu quốc hiệu, văn bản không chỉ thiếu tính trang trọng mà đối với những văn bản quản lý nhà nước còn trở thành bất hợp pháp.
Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về Quốc hiệu là gì? Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ trực tiếp.