dongcong.net

 



Tại
sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn?

ĐỌC LỜI CHÚA

• Is 55,10-11: (11) Lời Ta một khi phát ra từ miệng Ta, sẽ không
trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của
Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.

• Rm 8,18-23: (19) Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ
ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.


TIN MỪNG: Mt 13,1-23

Dụ ngôn người gieo giống

(1) Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. (2)
Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền
mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. (3) Người dùng
dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều.

Người nói: «Người gieo giống đi ra gieo giống. (4) Trong khi người
ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn
mất. (5) Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều;
nó mọc ngay, vì đất không sâu; (6) nhưng khi nắng lên, nó liền
bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. (7) Có những hạt rơi
vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. (8) Có những hạt lại
rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt
được sáu chục, hạt được ba chục. (9) Ai có tai thì nghe».

Tại
sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói?

(10)
Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: «Sao Thầy lại dùng dụ ngôn
mà nói với họ?» (11) Người đáp: «Bởi vì anh em được ơn hiểu biết
các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. (12) Ai đã có thì được
cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có
cũng sẽ bị lấy mất. (13) Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói
với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu. (14)
Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia, rằng:
Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng
chẳng thấy; (15) vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai
nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được
mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.

(16)
«Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em
thật có phúc, vì được nghe. (17) Quả thế, Thầy bảo thật anh em,
nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều
anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe,
mà không được nghe.

Giải nghĩa dụ ngôn người gieo giống

(18) «Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống. (19) Hễ ai
nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp
đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên
vệ đường. (20) Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe
Lời và liền vui vẻ đón nhận. (21) Nhưng nó không đâm rễ mà là
kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp
ngã ngay. (22) Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời,
nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến
Lời không sinh hoa kết quả gì. (23) Còn kẻ được gieo trên đất
tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả
và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục».

CHIA
SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.
Dụ ngôn là gì? Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn?

2. Tại sao Lời Chúa sinh hoa kết trái khác nhau giữa người này
với người khác? Tại sao cùng nghe Đức Giêsu, nhưng có kẻ theo
Ngài, có kẻ lại chống đối?

3. Những kẻ theo Ngài và những kẻ chống Ngài, trình độ hiểu biết
của họ thế nào? Tại sao những kẻ hiểu biết rất nhiều về Kinh Thánh
như các kinh sư, luật sĩ lại không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế
và đi đến chỗ giết Ngài?

Suy
tư gợi ý:

1.
Dụ ngôn là gì?

Dụ ngôn là những minh họa bằng hình ảnh quen thuộc để giúp người
ta hiểu được một thực tế khác cao siêu, trừu tượng, đồng thời
nắm được chân lý bao hàm trong ấy. Các dụ ngôn thường có tính
cách vừa tỏ lộ mà cũng vừa che dấu chân lý về Thiên Chúa, về Nước
Trời. Che dấu đối với «những bậc khôn ngoan thông thái» (Mt 11,25a),
những kẻ tự mãn với những gì mình đã biết về Thiên Chúa, cho rằng
sự hiểu biết của mình về Ngài đã viên mãn, trọn vẹn rồi, không
cần phải tìm kiếm hay học hỏi thêm. Còn tỏ lộ cho «những người
bé mọn» (Mt 11,25b), tự cho mình chưa biết nhiều về Thiên Chúa,
cho rằng những hiểu biết của mình còn rất thiếu sót, phiến diện,
hời hợt, cần phải tìm hiểu sâu xa hơn để áp dụng vào đời sống.

Các
dụ ngôn có thể hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo trình
độ tâm linh của người hiểu. Người mới bước vào đời sống tâm linh
sẽ hiểu và áp dụng chúng vào đời sống theo cách đơn sơ của mình.
Nhờ đó họ tiến bộ được một quãng đường. Khi đời sống tâm linh
của họ tiến bộ hơn, họ lại khám phá ra dụ ngôn còn có ý nghĩa
cao xa và thâm sâu hơn. Sau khi kể một dụ ngôn, Đức Giêsu thường
nói: «Ai có tai thì nghe» (Mt 11,15; 13,9; 13,43). Câu này có
nghĩa: ai hiểu được thì hiểu, hiểu cách nào thì tùy tình trạng
hay trình độ tâm linh mỗi người; hoặc ai biết cách nghe thì sẽ
hiểu, ai thật lòng tìm hiểu thì sẽ hiểu (x. Mt 7,7-8).

2. Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn?»

Chắc chắn chúng ta cũng thắc mắc như các tông đồ xưa: «Sao Thầy
lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?» Sao không nói cho rõ sự thật
ra mà lại úp mở bằng dụ ngôn? Câu trả lời của Ngài chẳng làm ta
hết thắc mắc mà còn làm ta thắc mắc hơn: «Bởi vì anh em được ơn
hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có
thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái
đang có cũng sẽ bị lấy mất» (Mt 13,11-12).

a)
Dụ ngôn dấu ẩn chân lý đối với người tự mãn

Như
vậy, những người không được «ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời»
mà họ không hiểu, thì phải chăng họ không có lỗi? – Thật ra họ
có được ơn hiểu biết hay không, điều đó tùy thuộc vào việc họ
có khiêm cung hay không trong những hiểu biết của họ. Những ai
tự hào mình biết tất cả, không cần phải nghe hay học hỏi ai nữa
– chẳng hạn các kinh sư, luật sĩ, biệt phái thời của Ngài – thì
Ngài càng nói rõ, họ càng không chấp nhận, và càng muốn mưu toan
hại Ngài hơn. Thật vậy, họ đã dựa vào những sự thật Ngài nói ra
để kết án tử hình Ngài. Vì thế, chính Đức Giêsu cũng khuyên các
môn đệ đừng nói chân lý với những kẻ không xứng đáng: «Của thánh,
đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày
đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em» (Mt 7,6).

b)
Để hiểu được chân lý phải từ bỏ mình và dấn thân

Những chân lý tôn giáo đều là những chân lý “cho không biếu không”,
người dạy chân lý thường không đòi hỏi một khoản thù lao nào.
Nhưng để hiểu và lãnh hội được, người muốn hiểu phải dám hy sinh
tất cả, không tiếc một điều gì: từ của cải, sức khỏe cho đến mạng
sống, nhất là phải «từ bỏ mình», nghĩa là không đặt nặng «cái
tôi» và cố chấp vào những hiểu biết của mình (x. Mt 13,44-46).
Trong lịch sử Thiền tông Trung Hoa, Đạt-Ma tổ sư chỉ bắt đầu truyền
đạo cho Huệ Khả – về sau trở thành Nhị Tổ – khi ông này dám tự
chặt tay mình để chứng tỏ sự quyết tâm từ bỏ tất cả cho việc tìm
chân lý. Ngoài ra, kẻ tìm đạo còn phải sẵn sàng dẹp bỏ cả những
kiến thức cũ của mình (x. Mt 11,25). Cố chấp vào những hiểu biết
cũ còn thấp kém, thì không thể tiếp nhận những chân lý cao xa,
vượt khỏi trình độ của những hiểu biết cũ. Cũng trong Thiền tông,
Thần Tú tuy kiến thức uyên bác, nhưng vì cố chấp vào những kiến
thức cũ của mình, nên không thể lãnh hội được chân lý của Ngũ
Tổ; trái lại, Huệ Năng, ít học hơn Thần Tú rất nhiều, lại hiểu
được và trở thành Lục Tổ Thiền tông.

Như vậy, để lãnh hội được chân lý về Thiên Chúa, về Nước Trời,
phải có tâm cầu đạo. Ai đã có tâm cầu đạo, thì đã ít nhiều có
đạo tâm rồi, đã hiểu được lẽ đạo là phải «từ bỏ mình», coi nhẹ
«cái tôi» của mình, không tự mãn hay cậy vào những hiểu biết cũ
của mình, và thật sự sống những gì họ biết về Thiên Chúa, cho
dù còn ít ỏi. Nhờ dấn thân sống những hiểu biết dù ít ỏi đó, họ
bắt đầu có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Càng kinh nghiệm về Thiên
Chúa, họ càng có đạo tâm nhiều hơn. Còn kẻ không có tâm cầu đạo,
là kẻ chưa có đạo tâm, nên luôn tự hào về «cái tôi» của mình,
về những điều mình đã học biết về Thiên Chúa, không thể sống đạo
thật sự vì chưa từ bỏ mình, do đó không thể có kinh nghiệm về
Thiên Chúa. Và nếu cứ cậy vào những hiểu biết mà họ tự mãn, họ
sẽ ngày càng hiểu sai về đạo, và xa cách Thiên Chúa, cho dù bên
ngoài họ có vẻ như rất gần Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu «Ai
đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì
ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất» (Mt 13,12).

c) Biết về Thiên Chúa khác với kinh nghiệm về Ngài

Người học biết nhiều về Thiên Chúa khác với người có kinh nghiệm
về Ngài. Biết nhiều về Thiên Chúa giống như người có một bản đồ
thành phố trong tay và thuộc kỹ tấm bản đồ đó, nhưng vì tự mãn
lấy thế làm đủ, nên chưa hề dấn thân ra đi đến thành phố ấy. Còn
người có kinh nghiệm về Ngài giống như người đã thật sự đi trên
những con đường của thành phố, được ngắm tận mắt những cảnh trí
trong thành phố.

Hai
cách tiếp cận ấy rất khác nhau và đi đến những hệ quả khác nhau.
Người hiểu biết nhiều thì hay tự mãn, tự đặt mình trên người khác,
từ đó thích củng cố quyền uy, ham được ca tụng, và Lời Chúa bị
chết ngạt trong họ. Còn người có kinh nghiệm về Thiên Chúa thì
ngày càng giống Thiên Chúa, sống quên mình, phục vụ, khiêm nhu,
và Lời Chúa sinh hoa kết trái trong họ. Nhìn lại lịch sử, ta thấy
các kinh sư Do Thái đều là những bậc thầy về tôn giáo, rất thông
thạo những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế. Nhưng mỉa mai thay khi
Đấng Cứu Thế đến, họ không nhận ra Ngài, thậm chí còn giết Ngài
nữa. Lý thuyết về Đấng Cứu Thế mà họ rất tinh thông, trong thực
tế, chẳng ích lợi gì cho họ mà còn cản trở họ nhận ra Ngài. Chính
vì họ quá tự mãn, cố chấp vào lý thuyết ấy, dùng nó như một phương
tiện để thăng tiến bản thân trong tôn giáo hơn là để dấn thân
sống theo nó. Còn các môn đệ và một số dân chúng, chẳng biết nhiều
về Đấng Cứu Thế, nhưng lạ thay, khi Ngài đến, họ nhận ra Ngài,
theo Ngài, và được cứu rỗi, chính vì họ khiêm tốn, đơn sơ và chân
thành. Họ là người được Thiên Chúa chúc phúc.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Lời Đức Giêsu gieo vào lòng mọi người nhưng lại sinh
hoa kết trái khác nhau. Nơi người khiêm nhường, dám từ bỏ mình,
dám dấn thân sống theo Lời Ngài, thì Lời Ngài sinh hoa kết quả
bội phần. Còn kẻ tự hào tự mãn về những hiểu biết của mình về
Lời Ngài, thường không chịu sống theo Lời ấy. Lời Chúa trong họ
bị ngạt bởi chính «cái tôi» của họ, bởi lòng ham uy danh và quyền
lợi của họ, bởi chính những hiểu biết mà họ tự cho là đã quá đủ.
Xin Cha cho con biết khiêm nhường, biết từ bỏ mình, để lòng con
trở thành một thửa đất tốt thuận lợi cho Lời Chúa sinh hoa kết
trái như Cha mong ước. (JK)

Nguyễn
Chính Kết

 

Close
Window

 

 

Rate this post

Viết một bình luận