ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ

Tác phẩm của E.  Hemingway

Trần Đình Sử

E. Hemingway là nhà văn Mĩ sinh năm 1889 ở bang Illinois, từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới 1 và 2, chiến tranh để lại cho ông chấn thương tinh thần, khiến ông trở thành nhà văn phản chiến. Những năm 50 ông đến Cuba, chứng kiến cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân Cuba vì độc lập, tự do chống lại một thế lực hùng mạnh, lúc ấy cách mạng Cuba chưa thắng lơi, cảm xúc mà viết nên tác phẩm Ông già và biển cả, một tác phẩm mang đầy ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Tác phẩm Ông già và biển cả (1952) của Hemingway được giải thưởng Nobel năm 1954. Khi trao giải thưởng, thư kí Viện hàn lâm Thuỵ Điển, ông Anders Osterling khẳng định: “Ông già và biển cả  kể chuyện ông già Cu Ba vật lộn với một con cá lớn giữa biển Đại Tây dương, đem lại một ấn tượng khó quên. Trong khuôn khổ một câu chuyện đánh cá nhà văn đã phơi bày sinh động số phận của con người. Đó là bài ca về tinh thần phấn đấu, cho dù chẳng thu hoạch được gì vẫn bất khuất kiên cường, là bài ca về sự chiến thắng của tinh thần đạo nghĩa, không sợ hiểm nguy, không sợ thất bại”.

      Nhà văn nhờ sáng tạo được tác phẩm xuất sắc mà bất tử. Ông già và biển cả đã khẳng định chân lí đó. Cho dù năm tháng phôi pha, tác phẩm  chẳng những không phai nhạt, mà ngược lại, qua va đập với thời gian càng trở nên sáng chói rực rỡ, trở thành tác phẩm kinh điển trong kho tàng văn học Mĩ và văn học nhân loại, và cái ông lão Xantiagô không chịu cúi đầu kia đã trở thành biểu tượng của con người kiên trì, bất khuất chống lại số phận rủi ro.

Người ta thường nói tác phẩm Ông già và biển cả không có cốt truyện, nhưng như thế không có nghĩa là truyện không có kịch tính. Ngược lại số phận ông già chứa đầy kịch tính. Lão Xantiagô chỉ là một người đánh cá bình thường trong một làng đánh cá nghèo ở ven biển Cuba. Lão không có gia đình, suốt đời chỉ đánh cá, gia tài của ông vẻn vẹn chỉ có một chiếc thuyền nhỏ và một cánh buồm đã cũ rách đã phải vá víu nhiều chỗ. Ông lão lại già yếu, thậm chí là quá già đối với nghề câu cá đại dương.

Có thể là vận may đã hết, liên tục trong 84 ngày ông lão không câu được con cá nào. Cha mẹ của Manolin, chú bé vẫn thường đi theo giúp đỡ ông ra khơi, đã không cho nó đi nữa, sợ lây phải vận rủi. Nhưng ngày thứ 85 lão vẫn cứ ra khơi một mình, quyết chí đi thật xa để thử vận may. Tinh mơ ông lão đã dong thuyền, mang theo mồi câu, dây nhợ và từ sáng sớm đã buông câu. Khoảng gần trưa, đã có một con cá lớn cắn câu, kéo thuyền đi băng băng, nhưng không biết là cá gì. Ông lão nới sợi dây câu để không làm con cá đau khiến nó vùng vẫy làm đứt dây câu, chờ cho nó đuối sức, nổi lên, ông sẽ giết nó. Không ngờ con cá khoẻ quá, phải đến ngày thứ ba nó mới xuống sức. Đây không chỉ là cuộc vật lộn với con cá, mà còn là cuộc vật lộn với sự già nua, mỏi mệt của tuổi già. Có khi con cá quẫy mạnh làm ông lão ngã sấp mặt, toạc một miếng da ở trán, máu chảy xuống má; rồi bất thần con cá kéo mạnh làm dây câu cứa rách bàn tay phải, chỗ ông phải dùng sức để kéo; đến lượt mình cánh tay trái lại bị chuột rút, tê dại, không cầm được dây nữa, lão phải quàng dây qua lưng, có lót bao tải để kéo sợi dây câu cho đỡ đau, muốn níu con cá lại. Gần hai ngày hai đêm không ngủ, lão đuối hơi dần, mấy lần phải ăn cá sống để lấy sức, còn con cá thì mặc sức kéo thuyền đi miên man, thoạt đầu về hướng Tây bắc, tiếp theo về hướng Đông, rồi đổi sang hướng Bắc, sau chuyển sang Đông, cuối cùng lại về hướng Đông Nam mà hướng trở về cảng là Tây Nam, chứng tỏ con thuyền đã đi xa như thế nào! Đến khi con cá đuối sức thì lão cũng chóng mặt, choáng váng, mắt hoa như chực ngất đi. Lão luôn miệng tự nhủ: “Đầu ơi, hãy tỉnh táo.” Lão dốc chút sức bình sinh để đâm mũi lao vào chỗ hiểm dưới cái vây, nơi trái tim con cá, ấn xuống hai lần làm nó chết ngay, rồi buộc nó vào thuyền của mình, dong buồm trở về. Lão nhìn con cá dài hơn chiếc thuyền mà tưởng như là trong giấc mơ. Sau nhiều ngày rủi ro, lão tìm cách xác định con cá là có thật, tưởng như nhìn vận may của mình đã thành sự thật.

   Dong buồm được một lúc thì đàn cá mập bắt đầu tấn công con cá kiếm. Ông lão đã chiến đấu kiên cường nhưng biết là không có hi vọng. Khi con cá mập đầu tiên xông vào cắn cá kiếm thì lão dùng mũi lao đâm chết, nhưng lão cũng mất luôn mũi lao. Tốp cá thứ hai xông vào thì ông lão buộc dao vào mái chèo để đâm chết một con cá mập lưỡi xẻng, khi đâm vào đầu con cá mập tiếp theo thì mũi dao gẫy. Lão lại dùng chày gỗ để chiến đấu, nhưng chày bị cá đớp. Lão dùng gậy có móc để đâm cá mập. Cuối cùng lão phải dỡ cái cọc bánh lái để chiến đấu, đến khi cái cọc bánh lái gẫy thì bầy cá mập cũng đã ăn hết thịt, con cá kiếm bây giờ chỉ còn trơ bộ xương. Ông lão chỉ còn việc buộc lại bánh lái và cho thuyền trở về cảng. Sự thất bại hoàn toàn không làm lão nhụt chí, lão định trang bị lại vũ khí rồi lại ra khơi.  Khi vào cảng, bộ xương khổng lồ của con cá kiếm – chiến tích và cũng là dấu tích thất bại của ông lão –  nằm bên cạnh các lon bia rỗng, dưới mắt du khách nó chỉ là một thứ rác rưởi, chờ nước thuỷ triều lên mang đi. Còn ông lão lúc này đã nằm duỗi thẳng chân tay, ngủ mê mệt và mơ về sư tử.

   Số phận đầy kịch tính của lão Santiagô thể hiện tư tưởng gì? Nếu hiểu đây là nổi vui buồn cay cực của kiếp người trong cuộc mưu sinh thì chỉ mới động chạm tới một cái gì hoàn toàn ở bề mặt. Nhìn sâu hơn sẽ thấy Ông già và biển cả là câu chuyện thể hiện một chủ đề cổ xưa mà to lớn của văn học: quan hệ con người với thế giới tự nhiên và cuộc vật lộn với số mệnh. Để hiểu được chủ đề này trước hết cần hiểu ý nghĩa biểu tượng của mấy hình tượng cơ bản của tác phẩm. Cá kiếm, đối tượng săn bắt của Santiago, là biểu tượng cho những gì tốt đẹp nhất mà con người hướng tới, tượng trưng cho lí tưởng. Nó cụ thể mà cũng mơ hồ, tưởng như nắm bắt được mà cũng bị vuột đi trong chốc lát. Biển cả là biểu tượng của cuộc đời đầy biến ảo, đổi thay hung dữ không lường hết được. Ông lão biểu tượng không phải chỉ cho bản thân con người cụ thể, mà biểu tượng cho nhân loại, cuộc chiến đấu của ông lão biểu tượng cho cuộc sống vì danh dự và lí tưởng của con người. Bé Manolin biểu tượng cho thế hệ trẻ, cho tương lai, cho thế hệ ngày mai của ông lão. Hiểu như vậy ta dễ dàng thấy rằng tác phẩm ngợi ca tinh thần của con người dám chống lại số phận, không bao giờ chịu buông tay. Trận đấu với con cá trong hai ngày đêm đã chứng tỏ câu nói đầy kiêu hãnh của ông lão: “Mình muốn cho nó thấy một con người có thể làm được gì và khả năng chịu đựng của con người đến đâu.” Khi chiến đấu với bầy cá mập, dù không hi vọng, ông lão vẫn nói: “Con người sinh ra không phải để thất bại”, “Con người có thể bị huỷ diệt chứ không thể bị đánh bại”. Đó là những câu nói đã trở thành nổi tiếng, có tính chìa khoá thể hiện tinh thần của Hemingway mà những ai tiếp xúc với tác phẩm sẽ từ đó mà đi sâu thêm vào tác phẩm.

   Đoạn trích trong sách giáo khoa là đoạn kể về “trận đấu” với con cá kiếm, bao gồm từ chỗ “trận đấu bắt đầu” cho tới “trận đấu kết thúc”và công đoạn “khổ dịch” buộc cá vào thuyền để trở về. Đoạn trích gồm hai phần nhỏ. Một là trận đấu giết con cá kiếm và hai là buộc cá vào thuyền với những cảm xúc của lão trước chiến lợi phẩm.

   Đây là cuộc đấu trí, đấu lực rất ngoạn mục giữa một con cá khổng lồ với một ông già đã yếu. Khi con cá kiệt sức thì ông lão cũng đã mệt lả, hoa mắt, choáng váng, không nhìn rõ con cá, đôi tay rã rời, tưởng chừng như có thể chết được. Con cá dường như luôn luôn nằm ngoài dự đoán của lão. Lão định hai ba vòng nữa thì có được con cá, nhưng phải ba vòng lượn lão mới nhìn thấy đựơc nó. Lão tưởng chỉ hai vòng lượn nữa là có thể phóng lao vào con cá, nhưng thực tế phải đến vòng thứ chín lão mới kéo nó sát vào thuyền để phóng lao, mỗi lần kéo gần vào thuyến thì con cá lại vuột bơi ra xa. Lão nghĩ đến con cá lớn rồi, nhưng khi nhìn thấy nó lão lại không tin vào mắt mình, bởi nó lớn ngoài sức tưởng tượng của lão.

   Đây là cuộc vật lộn mà chỉ có sự cố gắng và bền bỉ mới đem đến thắng lợi. Khi con cá đến gần, “Mình không biết, ông lão nghĩ. Đã đến lúc lão có cảm giác như lão có thể đổ sụp xuống bất cứ lúc nào. Mình không biết. Nhưng mình có thể cố thêm lần nữa.” Trí tuệ, kinh nghiêm và niềm tin giúp lão duy trì sức lực để chiến thắng con cá. Lão tự động viên cái đầu: “Đầu ơi hãy tỉnh táo!”. Lẫo động viên đôi chân: “Hãy đững vững đôi chân kia. Bọn mày chưa bao giờ bại trận!”. Lão cầu Chúa, lão chợp mắt để dưỡng sức, lão uống nước dể giữ sức. Lão khôn khéo không để con cá nổi khùng, làm cho nó mệt, khi kéo con cá đến gần thuyền, lão biết phải đâm vào chỗ nào để nhanh chóng kết liễu con cá. Và lão đã chiến thắng. Lão tự hào: “Ta là lão già mệt mỏi, nhưng ta đã giết chết con cá này, người anh em ta”.

   Nếu như văn học là sự thể hiện khả năng của con người trong cuộc vật lộn để vượt qua cái hữu hạn, hướng tới cái vô hạn của đời sống, thì  hình tượng lão Xantiago là một minh chứng cho chân lí đó. Còn gì hữu hạn hơn là một lão già tuổi cao sức yếu, đã hơn tám chục ngày lăn lộn trên đại dương chiến đấu với vận rủi. Cho dù con cá lớn của ông đã bị lũ cá mập tước đoạt, chứng tỏ khả năng con người có hạn, thì khả năng chiến thắng phía trước của lão vẫn còn, lão vẫn đang rút kinh nghiệm, đang nghĩ về việc cải tiến vũ khí, tự trách về việc “đã đi quá xa”. Bộ xương của cá kiếm vừa là chiến tích đáng tự hào, nhưng cũng vừa là dấu tích của thất bại, nó chỉ còn là rác rưởi chờ nước thuỷ triều cuốn đi dọn sạch. Lão bây giờ chỉ còn nghĩ về phía trước. Đặc sản của con người nằm ở tương lai, còn sức là còn có thể chiến đấu, còn có hi vọng. Cho dù bản thân Hemingway có lúc không chịu đựng nổi sự đau đớn của thể xác và đã tự sát để giải thoát, thì tư tưởng của ông vẫn có tầm khía quát to lớn. Và cuộc thất bại của ông lão trước đàn cá mập không hề để lại niềm bi quan trước cuộc sống. Đó chính là lí do vì sao cậu bé Manolin vẫn yêu quý chăm sóc ông lão, vẫn coi ông lão là “cái đồng hồ sống” của nó, vẫn mong ông chóng khoẻ “vì còn nhiều thứ cháu cần phải học và ông có thể dạy cháu mọi điều”. Quan hệ giữa ông già với Manôlin là quan hệ của ông với hậu thế.

   Ông già và biển cả còn là biểu tượng cho cuộc sống thực đầy tàn khốc, bạo liệt. Thế giới vẫn đẹp với bầu trời, ánh nắng, biển xanh, đàn cá, những con cá nằm trong mơ ước, vẫn có những con người tượng trưng cho lòng tốt như Manolin, nhưng không có gì là dể dãi, ảo tưởng hoặc không tưởng. Cuộc vật lộn vì sự sống thật là khốc liệt, bạo lực của bản năng thật khủng khiếp. Miếng ăn đã đưa lên đến miệng vẫn có thể bị tước đoạt. Ông lão đã tính con cá độ nửa tấn, giá 30 xen một pao, mà rốt cuộc không còn gì cả. Đàn cá mập là biểu tượng của các thế lực tàn bạo, độc ác. Nhưng ông lão chấp nhận cuộc sống đó, chấp nhận cuộc vật lộn đó, và thực tế không có cuộc sống khác. Con người giành sự sống từ cái chết. Ông lão trong cuộc vật lộn luôn luôn ở trong trạng thái giữa sự sống cái chết. “Cứ thêm vài vòng nữa thì mình sẽ đuối sức.Không, mày khoẻ, lão tự nhủ. Mày luôn khoẻ.” Và lão lại vượt lên, vượt qua cái chết. Ở đây không có chỗ cho những người yếu đuối, buông xuôi, dựa dẫm vào kẻ khác, con người cần có sức mạnh, trí tuệ, ý chí, niềm tin vào chính bản thân mình. Có thể đây là đặc điểm tư duy của người Mĩ, nhưng vẫn có ý nghĩa phổ biến đối với nhân loại. Con người phải luôn luôn trau dồi sức mạnh và ý chí mới mong có được chỗ đứng và sự thắng lợi. Thần tượng của ông lão là những con sư tử châu Phi bất kham, những cầu thủ bóng chày đầy sức mạnh như Di Maggio. Người ta nói lão Santiago là điển hình cho nhân vật người đàn ông cứng cỏi của Hêmingway. Sự cứng cỏi còn thể hiện ở chỗ biết dũng cảm đối diện với thất bại của mình, không ngả lòng trước mọi thất bại.

    Nhưng Santiago là một hình tượng đa nghĩa. Đối với ông con cá kiếm là cái đẹp và là người anh em. Đã là cái đẹp và người anh em, giết cá kiếm hoá ra ông là kẻ giết cái đẹp và người anh em hay sao? Khi con cá lật mình bơi ra xa, lão nói: “Mày đang giết tao, cá à, ông lão nghĩ. Nhưng mày có quyền làm thế. Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai.” Một người săn cá mà lại không quan tâm việc ai giết ai. Đấy là ý nghĩ lú lẫn của ông lão hay là một tư tưởng thâm thuý của tác giả? Thế giới đầy mâu thuẫn. Muôn loài trong vũ trụ đắm chìm trong một quan hệ tàn khốc, giết hại lẫn nhau không thể tránh khỏi. Cuộc sát hại lẫn nhau mù quáng này đã duy trì hàng vạn năm, đến như con sứa bé nhỏ, trong suốt như cái bọt nước cũng có những cái xúc tu dài màu tím có độc buông thả trong dòng nước, còn con rùa trông rất hiền lành, nhút nhát thì lại rất thích ăn con sứa ấy mà không sợ trúng độc. Cá kiếm với cái kiếm dài có thể chọc thủng da cá mập, nhưng nó vẫn không phải là kẻ mạnh trên đại dương. Một ông già kiệt sức cũng giết được nó. Trong cuộc đối đầu của hai đối thủ này con cá có quyền chứng tỏ là nó, mà ông lão cũng có quyền chứng tỏ là mình. Ai chứng tỏ được là mình thì là đẹp, đáng được kính trọng. Ông lão có những  khát vọng cao xa hơn sự giết nhau, cho nên không quan tâm ai giết ai. Lão chỉ quan tâm chứng tỏ mình xứng đáng với danh hiệu của một người đánh cá. Một người đánh cá mà hơn tám mươi ngày không bắt được cá liệu có còn là người đánh cá giỏi nữa không? Lí tưởng của lão là sống xứng đáng với chức phận của mình, vì lão sinh ra là để làm người đánh cá, lão phải tự mình chứng minh cho danh dự của mình.  Nhưng nối buồn đau sâu xa nhất của ông lão có thể là, bộ xương cá khổng lồ của con cá huyền thoại, bằng chứng của niềm vinh dự bị người đời xem là rác rưởi, để lẫn với các lon bia rỗng và sẽ bị thuỷ triều cuốn đi. Khát vọng chứng tỏ mình cũng trở nên hư huyễn. Đó cũng là một chủ đề sâu xa của tác phẩm. Người ta thường nói về nguyên lí tảng băng trôi của Hemingway. Chi tiết lời nói vừa dẫn, cùng chi tiết về bộ xương cá đã cho thấy nguyên lí tảng băng trôi của tác phẩm. Tám phần mười nội dung còn ẩn chứa đằng sau các chi tiết ấy.

Về nghệ thuật nét đặc sắc của Hemingway trong tác phẩm này là sáng tạo ra con người như một ý thức về mình. Mọi sự vật, hoạt động khách quan đều được đưa vào ý thức ông lão. Và vì như  vậy việc sử dụng lời nửa trực tiếp, lời độc thoại nội tâm mới có ý nghĩa. Con người ý thức của lão Santiago cho thấy lão đã chiến đấu bằng toàn bộ thân tâm, bằng hữu thức và vô thức. Chỉ nói về lời độc thoại nội tâm mà không nói đến mục đích nghệ thuật của thủ pháp ấy trong việc xây dựng hình tượng con người thì chưa hiểu thi pháp của tác giả. Lời độc thoại nội tâm ở đây chỉ là những chi tiết rời rạc, thiếu trọn vẹn và do đó tác phẩm còn để lại nhiều chỗ trống. Chẳng hạn, khi sắp buộc cá vào thuyền, “Mình muốn ngắm nó, lão nghĩ, muốn chạm và sờ vào mình nó. Con cá là vận may của ta, lão nghĩ. Nhưng đấy không phải là lí do để ta muốn sờ nó.” Vậy lí do đó là gì, không thấy nói. Rồi khi cảm nhận cái chết của con cá “như vị thánh trong đám rước”, lão lại nghĩ: “Đấy là cách duy nhất để giết nó”. Ý nghĩa câu nói ở đây là gì? Biết bao chỗ trống trong tác phẩm đang chờ người đọc giải mã, tạo thành một chiều sâu không bao giờ khám phá hết.

Tác phẩm không giản đơn là có tính tả thực, mà thực là một tác phẩm tượng trưng, một ngụ ngôn hiện đại về cuộc sống. Ông già và biển cả sẽ còn gợi mở cho ta hiểu thêm nhiều vấn đề của cuộc sống hiện đại.

   Có người hiểu tác phẩm dưới góc độ sinh thái học, đã phê phán nhà văn mang tư tưởng nhân loại trung tâm luận, chinh phục thiên nhiên vì lợi ích của con người. Tuy nhiên đọc kĩ ta sẽ thấy quan hệ con người và thiên nhiên trong truyện là quan hệ cộng sinh, hai chiều. Con người không thắng thiên nhiên một chiều, thiên nhiên cũng thắng con người. Con người chiến đấu với thiên nhiên,mà cũng là bạn của thiên nhiên. Hemingway không hề xem thiên nhiên là thù địch.

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải…

Rate this post

Viết một bình luận