Trên thế giới, cá Ngạnh phân bố ở Thái Lan, Philippin, Indonesia, Trung Quốc (Sách đỏ Viêt Nam, 2000). Cá Ngạnh là loại thực phẩm có thành phần dinh dưỡng cao, tỷ lệ thịt cá chiếm đến 69,92 % khối lượng thân cá, trong đó hàm lượng protein là 17,89%, chất béo là 5,20 %, hàm lượng tro là 1,10 % (Zhang và ctv.,2009). Ở Việt Nam, cá Ngạnh thường bắt gặp ở tất cả các hệ thống sông từ miền Bắc (sông Hồng, sông Mã, sông Lam) đến khu vực Nam Trung Bộ. Giới hạn thấp nhất về phía Nam biết được của loài cá này là sông Trà Khúc – Quảng Ngãi (Nguyễn Hữu Dực, 1995).
Theo mô tả của Kottelat và ctv (2000), cá Ngạnh có thân trần, trơn láng. Viền lưng cong không đều, từ mút mõm đến gốc vây lưng vát chéo, sau vây lưng đến vây mỡ thẳng, sau vây mỡ hơi cong lên. Viền bụng cong, nông và đều. Đầu dẹp bằng, thân và đuôi dẹp bên. Mõm tù, lỗ mũi gần mõm hơn mắt, hai lỗ mũi trước và sau phân cách, lỗ mũi sau có râu. Có 4 đôi râu (1 đôi râu mũi, 1 đôi râu hàm và 2 đôi râu cằm), râu hàm kéo dài đến quá gốc vây bụng. Miệng ở dưới, hình vòng cung. Hàm trên dài hơn hàm dưới. Răng hàm dạng lông nhung, cong, thon dài co lại phía sau, răng cửa hàm trên rộng, yếu, hình chữ nhật cong, ngắt quãng ở giữa. Mắt ở 2 bên đầu, có màng mỡ che. Khoảng cách hai mắt rộng. Có một rãnh ở giữa đầu chạy từ chẩm đến hết mắt. Đường bên hoàn toàn, chạy giữa chiều cao thân. Cá có màu xám trên vùng lưng và 1/3 bên trên sườn, 2/3 bên dưới sườn và vùng bụng màu hơi trắng. Vây màu xám, vùng ngoại biên của vây đuôi màu đen, vùng ngoại biên của các vây khác trong suốt. Trong vòng đời, màu sắc có thể thay đổi từ màu bạc đến hơi xám tới màu đồng ở trên lưng, trắng ở dưới bụng.