Cò quăm lớn trưởng thành dài 102–106 cm, với chiều cao đứng thẳng 100 cm và nặng khoảng 4,2 kg. Trong các lần đo đạc được thì cánh dài 52,3–57 cm, đuôi dài 30 cm, thân 11 cm và mỏ dài 20,8–23,4 cm. Con trưởng thành nói chung có bộ lông xám-nâu tối màu với phần đầu xám và cổ gần đầu trụi lông. Có những vạch đen nằm ở sau đầu và vai. Mỏ màu vàng-nâu, chân màu cam, mắt màu đỏ đậm. Con non có bộ lông đen ngắn, mỏ ngắn hơn và mắt nâu.
Nó có tiếng kêu “a-leurk a-leurk” lớn, thường được nghe lặp đi lặp lại vào lúc hừng đông hoặc hoàng hôn.
Loài này được tìm thấy ở vùng đất thấp, sống trong các vùng ngập nước, đầm lầy cỏ, ruộng lúa, vùng đồng bằng có cây cối rậm rạp, khe nước ẩm và các vũng nước trong rừng khộp đất thấp rụng lá. Nó cũng được tìm thấy dọc theo các con sông rộng.
Chúng có một chế độ ăn uống đa dạng bao gồm động vật không xương sống, động vật giáp xác, động vật lưỡng cư nhỏ và bò sát, và hạt.
Thông thường, chúng làm tổ nằm cách nơi ở của con người ít nhất 4 km dù chúng không có đặc điểm sợ con người hay nhút nhát. Con cái đẻ hai trứng vào đầu mùa mưa, khoảng tháng 6 đến tháng 9.
Một con cò quăm lớn tại khu bảo tồn động vật hoang dã ở Campuchia
Hiện nay, cò quăm lớn được coi là động vật hoang dã Cực kỳ nguy cấp trong Danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN). Quần thể hiện tại được ước tính là 100 cặp, với tổng quần thể (bao gồm cả con trưởng thành và con non) ít hơn 500 cá thể.