Đáp án chi tiết, giải thích dễ hiểu nhất cho câu hỏi: “Trào phúng là gì?” cùng với kiến thức tham khảo do Top Tài Liệu biên soạn là tài liệu cực hay và bổ ích giúp các bạn học sinh ôn tập và tích luỹ thêm kiến thức bộ về trào phúng
Trả lời câu hỏi: Trào phúng là gì?
+ Trào phúng (tiếng Pháp : satire) là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước,… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng… những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội.
Cùng Top Tài Liệu tìm hiểu thêm Một số bài văn mẫu về nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm “hạnh phúc của một tang gia” các bạn nhé!
Kiến thức mở rộng về Một số bài văn mẫu về nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm “hạnh phúc của một tang gia”
Một số bài văn mẫu – Bài văn mẫu 1
Với đặc điểm là một tiểu thuyết hoạt kê, tác phẩm Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng đã miêu tả thật sống động bao nhiêu cảnh đời và con người mang tính hài hước, giễu cợt. Không chỉ một cuộc đời của nhân vật chính – Xuân Tóc Đỏ- đáng cười, mà hầu như tất cả các nhân vật, các tình huống, chi tiết truyện đều đáng cười, đáng phê phán. Chương XV của tác phẩm – với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia – miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hoá rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 – 45 của thế kỉ XX. Mỗi tình huống truyện, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cuời. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn….
Đọc tên chương – Nguyên văn trong tác phẩm là: Hạnh phúc của một tang gia – một cái đám ma gương mẫu… chúng ta không khỏi bật cười bởi cách thông báo hóm hỉnh của nhà văn. Nội dung sự việc là một việc đau đớn, bất hạnh. Vậy mà “tang gia” lại có ”hạnh phúc”! Việc tang là nghi lễ thiêng liêng, cần trang trọng, vậy mà, ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình như gia đình cụ cố Hồng lại hỗn độn, pha trộn tuỳ tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào hạnh phúc, nào tang gia, nào văn minh, gương mẫu, cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy! Cái sự đùa vui ấy mở màn cho vở hài kịch mà trên sân khấu hiện thật rõ hai trạng huống nực cuời: đám tang nhưng không phải là đám tang, nó là một đám…. rước. Con người nhưng không phải là con người mà là… những hình nhân dị dạng, những quái vật.
Sau thời gian bối rối theo lẽ thường tình của một nhà có việc tang, khi ba người quan trọng nhất – ông Cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, tây, tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo… ”Kèn ta, kèn tây, lèn tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên”. Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng “thì thầm” về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói “thì thào” của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, “than thở” việc “vợ béo, chồng gầy”.
Vậy đấy, trên cái sân khấu hài hước, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người và việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn. Đám rước mà như “ở hội chợ”. Đám tang hay đám rước? Bởi vì, như tác giả kể: “Đám cứ đi” rồi lại “Đám cứ đi”. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: “Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cuời sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”.
Chương 15 – Hạnh phúc của một tang gia là một trong những màn hài kịch đặc sắc nhất của tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Để dàn dựng một màn hài kịch cười, trước hết phải phát hiện ra một mâu thuẫn trào phúng. Tiếng cười có muôn hình vạn trạng, tuy nhiên bao giờ nó cũng bật ra trước một mâu thuẫn trào phúng được phóng đại lên. Mâu thuẫn trào phúng trong chương 15 được gợi lên ngay từ cái nhan đề của nó. Tang gia mà lại hạnh phúc! Nhà có người chết mà lại vui! Tang gia quả có bối rối nhưng đó là cái bối rối sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám rước, một ngày hội. Người chết là cụ cố tổ. Cụ mất đi để lại một gia tài lớn. Nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: chỉ chia gia tài cho con cháu khi cụ đã qua đời. Thật là sốt ruột, vì cụ cứ sống mãi. Con cái, dâu rể đều chờ đợi cái chết của cụ như chờ đợi một hạnh phúc vậy. Và hạnh phúc đã đến.
Đặc sắc của đoạn trích là đã diễn tả được chung quanh hạnh phúc chung của tang gia, mỗi thành viên trong gia đình lại có một hạnh phúc riêng không ai giống ai, gắn liền với tính cách riêng của mỗi người và mỗi nhân vật lại có một mâu thuẫn trào phúng. Chẳng hạn, cụ cố Hồng. Vì là cụ cố nên luôn đóng vai già yếu, tuy tuổi cụ mới ngoài 50. Xưa nay, cụ mới đóng trò già yếu trong nhà, nay nhờ có đám tang cụ được diễn trò già yếu trước hàng nghìn người. “Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mà mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai. Lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi chà! Trông kìa! Con trai lớn đã già đến thế kia kìa!”
Vợ chồng Văn Minh thì chắc chắn sẽ được chia một gia tài kha khá, chỉ còn phải lo mời luật sư đến chứng kiến cái chết của cụ cố tổ để cái chúc thư kia đi vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa. Đây cũng là dịp để tiệm may âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mốt trang phục táp bạo nhất có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn, vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.
Cô Tuyết thì sung sướng vì được mặc bộ y phục Ngây thơ hở cả nách và nửa vú viền đen, đội cái mũ mấn xinh xinh…. Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt. Ông Phán mọc sừng lại hả hê vì đã được cụ cố Hồng hứa chia thêm cho vài nghìn đồng. Chính cụ cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu lại to đến như thế. Cậu Tú Tân mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà vẫn chưa được dùng đến. Xuân Tóc Đỏ càng được vênh vang hơn vì nhờ nó mà cụ Cố mới lăn đùng ra chết. (Nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô Hoàng Hôn, cháu gái của cụ, và cắm sừng vào đầu ông Phán, cháu rể cụ).
Là cố vấn của báo Gõ Mõ, Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám tang vì đã bổ sung vào sự long trọng sáu chiếc xe chở sư cụ chùa bà Banh, đại diện hội Phật Giáo, báo Gõ Mõ cùng với những vòng hoa đồ sộ… Hạnh phúc còn lan ra cả ngoài gia đình người chết. Cảnh sát Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ cố Hồng được dịp khoe khoang sự oai vệ và danh giá của mình, những bội tinh và râu ria… Hàng phố thì vui quá vì mấy khi được xem đám ma to như thể là hội chợ.
Một trong những nét đặc sắc của chương truyện là tả đám đông ồn ào. Láo nháo, nhặng xị. Dường như có ý thức khi vận dụng kĩ thuật điện ảnh, tác giả lùi xa quay toàn cảnh đám tang đang nghiêm chỉnh đi theo quan tài người chết đến tận huyệt với cái điệp khúc đám cứ đi…. Có khi lại dí sát ống kính quay cận cảnh để thấy đây không phải là một đám ma mà là một đám rước, đám hội hết sức vui vẻ. Đám cứ đi nhưng không ai nghĩ đến việc đưa đám. Đến đây không phải để khoe những bộ ngực đầy huân, huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về những chuyện vợ con, chuyện sắm một cái áo, cái tủ…. Còn bọn thanh niên thì chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma. Màn kịch kết thúc bằng chi tiết hài hước chó đểu. Ông Phán mọc sừng dúi vào tay Xuân 5 đồng thanh toán tiền thuê Xuân tố cáo cái nhục mọc sừng của ông ta.
Số Đỏ là một cuốn tiểu thuyết dùng hình thức giễu nhại, lật tẩy tính chất bịp bợm của những tầng lớp gọi là thượng lưu, trí thức của Hà Nội xưa. Tất cả là một cuộc diễn trò lớn: MỘT CUỘC BÁO HIẾU LINH ĐÌNH NHẤT CỦA MỘT GIA ĐÌNH ĐẠI BẤT HIẾU.
Một số bài văn mẫu – Bài văn mẫu 2
Vũ Trọng Phụng được tôn vinh là “ ông vua phóng sự đất Bắc” và mỗi tác phẩm của ông được ví như một quả bom ném vào cái xã hội lố lăng, ô trọc của Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Tiêu biểu cho nghệ thuật trào lộng, châm biếm sâu cay của ông có thể kể đến tiểu thuyết “ Số đỏ” – cuốn tiểu thuyết mà mỗi chương truyện sinh động, sắc sảo, nhạy bén như một thiên phóng sự. Đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” ( thuộc chương XV của tác phảm “Số đỏ”) là đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trong tác phẩm này.
“ Nghệ thuật trào phúng” là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án, vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Trong đoạn trích, nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua cách xây dựng mâu thuẫn trào phúng, tình huống trào phúng, mô tả chân dung trào phúng, cảnh trào phúng và giọng điệu, ngôn từ.
Mâu thuẫn trào phúng được thể hiện trước hết ở nhan đề chứa đựng nghịch lí: “ Hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thỏa mãn, thoải mái về tinh thần khi được đáp ứng một nhu cầu nào đó trong cuộc sống. “ Tang gia” là gia đình có tang, có người thân mất đi, nghĩa là có sự mất mát về người. Theo Vũ Trọng Phụng, tang gia tuy có mất mát về người ( cụ cố Tổ) song bù lại nó đem lại rất nhiều lợi lộc về tiền bạc và danh tiếng. Cách lí giải này sẽ là lời hé mở về mở bản chất của tầng lớp thượng lưu trong xã hội: chỉ quan tâm đến danh lợi mà bất chấp đạo lí tình nghĩa. Không dừng lại ở nhan đề, mâu thuẫn trào phúng sẽ được triển khai trong toàn bộ chương truyện và được tăng dần về mức độ, phóng đại niềm hạnh phúc. Ban đầu là niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình, sau đó là hạnh phúc được tràn ra cả ngoài xã hội. Cái chết cụ cố Tổ ban phát niềm hạnh phúc cho tất cả các thành viên trong và ngoài gia đình.
Tình huống trào phúng được lựa chọn là một tình huống đạo đức: tác giả dùng cái chết của người thân làm phép thử độ sáng của đạo hiếu trong gia đình, dùng cái chết đồng loại làm phép thử độ sáng của tình người và tính người. Để triển khai tình huống, Vũ Trọng Phụng đã tập hợp và miêu tả những tâm trạng, hành vi, cách ứng xử, thái độ hoàn toàn trái với chuẩn mực đạo đứ thông thường. Đó là tang gia song không ai nghĩ đến người chết và việc báo hiếu. Mỗi người đều có mối quan tâm riêng nhưng đều hướng đến hai chữ danh lợi thu được từ cái chết ấy. Đó là tang gia song không ai đau buồn, thương tiếc. Nếu có đau buồn, thương tiếc cũng chỉ là cái mặt nạ, là màn kịch được dựng lên để che đậy những nhu cầu, mưu đồ, toan tính. Ẩn sau lớp mạt nạ là niềm vui thực sự của cả người thân trong gia đình và những người ngoài gia đình. Niềm vui ấy khiến đám tang có xu hướng trở thành đám hội tưng bừng, náo nhiệt.
Trong nghệ thuật biếm họa, chỉ với đôi ba nét, người họa sĩ tóm được thần thái của đối tượng trào phúng, lột tả được mâu thuẫn, phơi bày được bản chất của con người xấu xa để tạo tiếng cười đấy chất trí tuệ, có sức công phá lớn. Lần lượt các chân dung biếm họa hiện lên dưới ngòi bút như có thần của Vũ Trọng Phụng.
Đó là cụ cố Hồng – con trai cả của người chết.Với vị trí này, trách nhiệm của ông là lo ma chay của cha mình cho chu tất nhưng những hành động cụ thể của ông lại hoàn toàn trái ngược. Ông nằm dài, hút thuốc phiện và mơ màng theo khói thuốc. Ông nghĩ đến việc cưới chạy cho cô con gái Tuyết nhưng lại đùn đẩy việc cưới xin cho vợ. Cái danh mà ông mơ ước và tô vẽ là gia thế của một gia đình nề nếp, gia phong, danh gia vọng tộc. Vì thế ông đã tỏ ra già cả dù chưa đến 60 để được gọi là “ cụ Cố”. Ông sẵn sàng mùa hè mặc áo bông, trả nhầm tiền xe để chứng minh mình lẩm cẩm; luôn gắt gỏng để chứng tỏ mình già cả, ốm yếu. Nghĩ đến cái chết của bố mình, ông sung sướng đến độ đê mê nên “ đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!” và khen “ một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế”… Tấm lòng của người con trơ như khúc gỗ, vô cảm trước cái chết của người cha. Vai trò và tình cảm của một đứa con trong ông đã chết bởi ông chỉ nghĩ đến cái gậy mà thôi!
Ông Văn Minh là đứa cháu đích tôn, là “ nhà cải cách xã hội” danh giá thì sung sướng tột đỉnh vì “ Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Mọi hành động của ông đều đối lập với trách nhiệm và tình cảm của một người cháu. Ông mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội để đảm bảo tính pháp lí của chúc thư. Ông còn nghĩ đến cách đối xử với Xuân Tóc Đỏ mà thực chất là tìm cách bịt miệng vì Xuân Tóc Đỏ biết những bí mật tày đình của ông. Ông quan niệm tội bôi nhọ danh dự của người thân trong gia đình là tội nhỏ và tội làm chết người thân trong gia đình mới là cái ơn lớn. Để trả cái ơn to lớn ấy, ông đã dùng hạnh phúc trăm năm của cô em gái lá ngọc cành vàng để trả ơn cho một kẻ vô học. Ở ông tồn tại sự mâu thuẫn giữa cái bên ngoài là vẻ mặt “đăm đăm chiêu chiêu” của cái bối rối lo lắng rất hợp thời trang nhà có tang với cái bên trong là việc nghĩ cách đối xử với người đã mang đến cái “ ơn to” cho gia đình.
Cô Tuyết, cô cháu gái giữ gìn nửa chữ trinh, mới chỉ hư hỏng được một nửa. Mặt cô phảng phất vẻ buồn lãng mạn vì nhớ nhung nhân tình chứ không phải xót thương ông nội. Đám tang mang đến niềm hạnh phúc cho cô vì cô được mặc bộ y phục “ Ngây thơ” để chứng tỏ phẩm giá mới chỉ đánh mất nửa chữ trinh. Bộ y phục nửa kín nửa hở làm cho các ông tai to mặt lớn bạn của cụ cố Hồng cảm động thực sự, còn hơn cả “ những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”.
Cậu tú Tân thì “cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sang mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Ông nội chết là dịp để cậu trỏ tài đạo diễn, chụp ảnh trong dịp đám tang. Cậu tỏ ra là một tài tử chụp ảnh, những chiếc máy ảnh được chuẩn bị từ lâu nay sẽ có dịp dung đến. Cậu và bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mộ khác nhau để chụp ảnh ở những khoảnh khác nhau. Cậu đạo diễn mọi người gục đầu, cong lưng, khóc rồi đóng kịch xót thương cho đúng không khí đám tang.
Ông Phán mọc sừng là con rể của cụ cố Hồng. Ông sung sướng vì “ không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông lại đến như thế’, nó có giá đến “ vài nghìn đòng” Đông Dương. Ông trù tính ngay một cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ để nhân cái số vốn ấy lên. Là một diễn viên đại tài, ông Phán đã hoàn thành xuất sắc màn kịch vờ tỏ ra khóc thương. Trong đám tang ông vợ, ông mặc cái khăn trắng to tướng, áo thụng trắng lòe xòe và khóc mãi không thôi. Ngay cả Xuân Tóc Đỏ- kẻ chuyên đi lừa đảo người khác cũng bị ông lừa. Tưởng ràng ông khóc đến lả oặt người đi nên đã đưa tay ra đỡ, nhưng đến khi ông Phán dúi vào tay tờ 5 đồng gấp tư hắn mới hiểu ra bộ mặt thật tham lam đến mức tình người khô héo, trái tim vô cảm và thậm chí là việc bán rẻ cả danh dự bản thân. Ngay trước mặt cha vợ, trước linh hồn ông vợ, ông ta vẫn thản nhiên hoàn thành công việc thanh toán tiền để chuẩn bị chuyển nốt sang công việc toan tính khác.
Không chỉ khắc học chân dung châm biếm cá nhân, tác giả còn khắc họa hình tượng đám đông. Những tốp người đó là nhóm các vị quan chức cao cấp thì long trọng gắn lên ngực đủ các thứ huy chương: “ Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh,..: đủ các thứ màu sắc và kiểu râu ria trên cằm “ hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hoăc rầm rạm, loăn quoăn..”. Các vị đi cạnh linh cữu bị kích động, bởi “ làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Nhóm đông đảo nhất gồm toàn “ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm với nhau, chê bai nhau, ghen tuông hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn râu của những người đi đưa ma”.
Đám tang là cơ hội để tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, gái trai thỏa mãn cái sung sướng, hạnh phúc của mình
Cảnh trào phúng là những cảnh tượng trái với lẽ thông thường, tập trung rất nhiều điều trái với thuần phong mĩ tục được phóng đại lên để gây cười. Cảnh đưa tang là một cảnh trào phúng vì bề ngoài là đám tang nhưng thực chất lại mang tính chất đám hội, đám rước. Được tổ chức pha tạp, đám tang có cả âm thanh thuộc về nghi thức tang lễ và âm thanh không thuộc nghi thức tang lễ song cảm giác chung là nhốn nháo, ầm ĩ. Âm thanh thuộc tang lễ đó là tiếng kèn pha tạp, lẫn lộn cả kèn ta, tàu và Tây; tiếng khóc “ Hứt!..Hứt!.. Hứt!.” của Phán mọc sừng- một thứ âm thanh lạ lùng sẽ khiến người khác bật cười vì ngạc nhiên.Thực chất đây là hành vi ngụy trang che đậy cho mục đích thực sự của ông. Âm thanh không thuộc tang lễ là tiếng cãi cọ, chê trách nhau của đám người trong nhà. Tiếng cái cọ này sẽ phơi bày những mâu thuẫn ngấm ngầm dù luôn được dàn xếp trong vẻ ngoài êm đẹp. Đó còn là tiếng trêu chọc, đùa cợt thô lỗ, tục tĩu của đám “ giai thanh gái lịch” càng bộc lộ rõ sự tồi tệ, vô liêm xỉ tầng lớp thượng lưu
Hình ảnh trong đám tang có hình ảnh thuộc nghi lễ và không liên quan đến tang lễ song đều tạo ấn tượng về sự phô trương đầy kệch cỡm. Hình ảnh thuộc nghi lễ thông thường là vòng hoa, câu đối và người đưa tang nhưng nó xuất hiện với số lượng khổng lồ là 300 vòng hoa, 300 câu đối và mấy trăm người đi đưa. Nó cho thấy sức ảnh hưởng và mối quan hệ rộng rãi của gia đinh. Đó còn là y phục tang lễ tân thời do tiệm may Âu hóa thiết kế đã biến đám tang thành một cuộc trình diễn mốt để quảng cáo sản phẩm với mục đích kinh doanh. Hình ảnh thuộc nghi lễ là kiệu bát cống, lợn quay đi lọng; bộ y phục “ Ngây thơ” của cô Tuyết cùng những huân chương của các bạn cụ Cố. Một hình ảnh ấn tượng nhất với người đọc chính là tờ 5 đồng được gấp tư, thể hiện sự chuẩn bị chu đáo để hoàn thiện phần còn lại của bản hợp đồng. Nó cho thấy bản chất bỉ ổi và cũng là lời kết đầy chua chát về một xã hội vì tiền, chạy theo đồng tiền mà quên đi tình nghĩa.
Giọng điệu mỉa mai, chua chát là giọng điệu bao trùm chương truyện. Có những câu văn tưởng như là giọng trần thuật khách quan bình thản “ Đám cứ đi” nhưng khi nhắc đến hai lần nó đã mang ý nghĩa mỉa mai châm biếm đám ma thật to, thiên hạ tha hồ ngắm thật kĩ cái giả dối, vô nhân đạo của đám người ấy. “ Đám cứ đi” nghĩa là sự vô liêm sỉ không khép lại mà kéo dài tưởng như vô tận, nó kéo theo cái xác chết đến tận huyệt miệng. Về ngôn từ, tác giả đã sử dụng những kết hợp từ độc đáo trong các câu văn để tạo nên tiếng cười hài hước như “ vẻ buồn lãng mạn đúng mốt”, “chưa đánh mất cả chữ trinh”; những so sánh gây cười như “ Tuyết như bị kim châm vào lòng vì không thấy bạn giai đâu cả”
Tất cả những đặc điểm trên đã góp phần làm nên giá trị của nghệ thuật trào phúng Võ Trọng Phụng. Bằng tiếng cười mang ý nghĩa dả kích phê phán, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của xã hội thượng lưu tư sản thành thị đương thời. Đó là một xã hội băng hoại đạo đức, khô héo tình người, chạy theo lối sống văn minh rởm, vô cùng đồi bại, lố lăng. Đằng sau tiếng cười không phải niềm vui mà là nỗi đau đời, là khao khát đổi thay, muốn chôn vùi xã hội ấy. Qua đó thể hiện tấm lòng tốt đẹp, mong muốn con người tránh được sự suy đồi về đạo đức do xã hội bất lương tác động. Quan trọng hơn cả, nghệ thuật tào phúng đã thể hiện tài năng, phong cách riêng của Vũ Trọng Phụng.
Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng sắc bén đến lạnh lùng. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của xã hội thượng lưu thành thị buổi Âu hóa dưới chế độ thực dân nửa phong kiến cứ hiện lên rõ mồn một, trên đó nổi lên hai sự thực khắc nghiệt: sự tàn nhẫn, vô nhân đạo và sự giả dối, bịp bợm. Vũ Trọng Phụng đã đứng về phía nhân dân mà phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945
Một số bài văn mẫu – Bài văn mẫu 3
Số đỏ là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc “Âu hóa” kệch cỡm.
Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. “Ông vua phóng sự đất Bắc” liền cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”, “Vỡ đê’’ và “Cơm thầy cơm cô”. Tác phẩm của ông được đánh giá là “vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam từ khi có chữ quốc ngữ”. Trong đó, “Số đỏ” với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, nó được coi là một kiệt tác bất hủ trong văn chương đương thời. Vũ Trọng Phụng đả kích cực kì cay độc với xã hội trường giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống “Âu hóa” văn minh rởm, hết sức đồi bại và lố lăng đương thời. “Số đỏ” chỉ dài độ 200 trang nhưng nhung nhúc những hạng người xấu xa, đê tiện như mẹ Tây, ma cà bông, giới cảnh sát, nhà chùa, đám du học, có cả nghệ sĩ, y học, giới báo chí… Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên bố: “Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, xã hội chó đểu…’’. Chương XV với cái tiêu nhan đề: “Hạnh phúc của một tang gia” đã đem đến cho người đọc bao thú vị như được mục kích một màn hài kịch trong bộ “Tấn trò đời” của xã hội thực dân phong kiến.
Nhan đề chương XV là một nghịch lí đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Cái gia đình tam đại đồng đường này, khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã làm cho lũ con cháu “sung sướng lắm!”.
Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những cặn bã, những quái thai của cái xã hội dở ta dở tây buổi ấy.
Cha chết, ông chết “bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích”. Đây là dịp hiếm có để khoe của, khoe giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…”. Niềm vui tràn ngập: “tang gia ai cũng vui vẻ cả”.
Người con trai cả – cụ cố Hồng – hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 cáu gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng” đến cái giờ phút hạnh phúc “hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để cho thiên hạ phải trầm trồ: “một cái đám ma như thể, một cái gậy như thế” … rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: “úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa…”. Con trai đã “báo hiếu” cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.
Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng. Văn Minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có một “mảnh bằng nào cả” về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò “Âu hóa” nhằm “phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp”. Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì “cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách “chống gậy”, “gục đầu, “cong lưng”, “lau mắt”, như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y “luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng” như một tên hề!
Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt ké, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát “một đám ma gương mẫu” nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoảng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù “theo cái lối Ta, Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu…”. Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kỳ sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
“Có bao đám khách” quý phái và “sang trọng” đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là “giai thanh gái lịch”, là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan.. Họ không đến đưa tang mà là để “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau. Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ “ngực đầy những huy chương” của “nước mẹ” hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả “Số đỏ” đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe “tài” khoe “đức” ấy “đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăng quăng…”. Người đọc phải bấm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân.
Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp “phục bút” khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ “Ngây thơ” đi mời trầu và thuốc lá quan khách với “vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Cô vô cùng sung sướng khi thấy “anh Xuân” đã đến bên “liếc mắt đưa tình… để tỏ ý cảm ơn”. Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với sáu chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn… đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: “Ấy, giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên “danh giá nhất tất cả”.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán “mọc sừng” vốn đã nhờ “đôi sừng hươu” ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: “Hứt! Hứt! Hứt…” để báo hiếu vẫn không quên giữ chữ “tín” với ân nhân. Ông ta đã “dúi vào tay” Xuân “một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư”. Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra sòng phẳng và kín đáo quá! Xuân và ông Phán “mọc sừng” như một cặp bài trùng, hai diễn viên siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch “đám ma gương mẫu”. Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn “thượng lưu”, đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người “chó đểu” trong cái xã hội “chó đểu” là như thế đó!
Tóm lại, qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả “Số đỏ” là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó; Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả!
Tiếng cười trong “Số đỏ” là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc “Âu hóa” kệch cỡm.