Top 15 đặc sản ngon nổi tiếng Yên Bái bạn nên thử qua

Yên Bái là một tỉnh ở vùng núi phía Bắc, không chỉ được biết đến với phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp, có thể điểm mặt một vài nơi như hang Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thủy Tiên (Yên Bình), hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò, di tích cách mạng, đền thờ Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ… khi đến Yên Bái bạn còn được thưởng thức những món ăn đã trở thành đặc sản, mang đậm bản sắc văn hóa của người dân và đặc biệt là những dân tộc thiểu số nơi đây. Hãy cùng điểm qua mười món ăn đặc sản Yên Bái nhất định phải thử khi đến mảnh đất núi non điệp trùng này nhé!

ĐẶC SẢN NỔI TIẾNG CỦA YÊN BÁI – Hương Vị Quê Nhà

Top 15 đặc sản nổi tiếng ngon nổi tiếng ở Yên Bái

1. Thịt trâu gác căn phòng nhà bếp

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không điểm mặt món ăn này trong list những đặc sản nổi tiếng của vùng quê Yên Bái. Đây là món ăn mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống người dân tộc bản địa miền núi, cụ thể là người Thái đen ở Nghĩa Lộ, Yên Bái. Để làm được những miếng thịt trâu gác căn phòng nhà bếp ngon nhất, người ta phải lựa chọn những thớ thịt chắc nạc từ những con trâu được thả rông trên đồi.

Quy trình tiến độ tẩm ướp gia vị cũng rất được xem trọng, vừa tạo mùi vị đặc trưng vừa giúp át bớt mùi khói khi ăn, đặc biệt quan trọng không thể quên loại gia vị tên gọi là mắc khén, một loại hạt tiêu rừng của người dân Tây Bắc. Trong những ngày ngày đông giá rét gió rét, được ngồi quanh căn phòng nhà bếp lửa cùng nhau thưởng thức những miếng thịt vương vương mùi khói, nêm tròn mùi vị, dai dai bùi bùi của thịt thì còn gì bằng.

Thịt trâu gác bếp

Thịt trâu gác bếp Thịt trâu gác căn phòng nhà bếp

Thịt trâu gác căn phòng nhà bếp

Thịt trâu gác bếp xé nhỏ ăn cùng tương ớt

Thịt trâu gác bếp xé nhỏ ăn cùng tương ớt Thịt trâu gác căn phòng nhà bếp xé nhỏ ăn cùng tương ớt

2. Nếp Tú lệ

Thịt trâu gác căn phòng nhà bếp xé nhỏ ăn cùng tương ớt

Không phải tự nhiên mà người ta coi nếp Tú Lệ là loại gạo đặc sản nổi tiếng của huyện vùng cao Văn Chấn, Yên Bái. Nhắc đến Tú Lệ người ta sẽ nghĩ ngay đến thứ gạo tiếng lành đồn xa, một thứ gạo cho cơm thơm dẻo, thậm chí là khi mới gặt về, người ta cũng sẽ có thể cảm nhận được mùi thơm lan tỏa ra từ những hạt gạo tròn mẩy, trắng trong ấy.

Đến Yên Bái và ghé thăm miền đất Tú Lệ, bạn nhớ là điểm nghỉ chân bên sườn núi, nơi những cây lúa mang tinh túy đất trời trổ bông và thưởng thức những chén cơm nếp đượm hương Tây Bắc nhé.

Nếp Tú Lệ

Nếp Tú Lệ Nếp Tú Lệ

Nếp Tú Lệ

Xôi ngũ sắc từ nguyên liệu nếp Tú Lệ

Xôi ngũ sắc từ nguyên liệu nếp Tú Lệ Xôi ngũ sắc từ nguyên liệu nếp Tú Lệ

3. Mật ong nhãn Văn Chấn

Xôi ngũ sắc từ nguyên liệu nếp Tú Lệ

Đến với Văn Chấn – Yên Bái, người ta còn được thưởng thức mật ong rừng hoa nhãn. Cuối thời điểm tháng tư hoa nhãn nở rộ, cả đất trời như chung thú vui với loài ong chăm chỉ bay đi tìm mật ngọt.

Với diện tích quy hoạnh hàng nghìn ha trồng nhãn, Văn Chấn, Nghĩa Lộ là nơi đến lý tưởng cho du khách muốn thưởng thức mùi vị đong đầy của mật ong rừng nơi đây.

Mật ong nhãn

Mật ong nhãn Mật ong nhãn

Mật ong nhãn

Mật ong đã thành phẩm

Mật ong đã thành phẩm Mật ong đã thành phẩm

4. Lạp xưởng Yên Bái

Mật ong đã thành phẩm

Cùng với thịt trâu gác căn phòng nhà bếp, lạp xưởng Yên Bái cũng là một món ăn truyền thống có tiếng ở vùng đất này. Để làm ra những xâu lạp xưởng ngon nhất, người thực lúc này cũng rất cần tay nghề. Nói như vậy sẽ không thực sự vì, lạp xưởng cần có nhiều giai đoạn khác nhau, từ việc tuyển chọn nguyên liệu, nêm nếm gia vị sao cho hài hòa mà vẫn giữ được nét đặc trưng, đặc biệt quan trọng là phải ghi nhận khoảng chừng thời gian nêm ra làm sao là đủ và giai đoạn hun trên căn phòng nhà bếp, không được để lửa quá to hay quá nhỏ…

Người dân miền núi thường dùng những cây củi mang tinh dầu như cây quế để hun căn phòng nhà bếp, món lạp xưởng sẽ thêm mùi vị, nếu đến với nơi đây nhớ là thưởng thức món ăn đặc sản nổi tiếng cầu kì này nhé.

Lạp xưởng đặc sản Yên Bái

Lạp xưởng đặc sản Yên Bái Lạp xưởng đặc sản nổi tiếng Yên Bái

Lạp xưởng đặc sản nổi tiếng Yên Bái

Lạp xưởng gác bếp

Lạp xưởng gác bếp Lạp xưởng gác căn phòng nhà bếp

5. Bánh chưng đen Mường Lò

Lạp xưởng gác căn phòng nhà bếp

Bánh chưng xanh ngày Tết hẳn không còn xa lạ với nhiều người, nhưng khi nói đến bánh chưng đen thì không mấy người đã được thưởng thức. Món ăn này cũng được làm từ gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn. Tuy nhiên điều tạo nên sự vẻ đặc biệt quan trọng của nó đấy là các giai đoạn để tạo nên sự. Ngay từ khi lựa chọn nguyên liệu, người dân nơi đây phải lựa những tàu lá dong vừa phải, đủ gói, gạo nếp phải là gạo nếp thơm Tú Lệ, đỗ xanh hạt mẩy và thịt lợn ba chỉ nêm nếm đủ hạt tiêu, gia vị.

Để làm cho chiếc bánh có màu đen đặc trưng, người ta phải ngâm nó trong nước tro vừng, hoặc nước vỏ cây núc nác. Một chiếc bánh thơm ngậy, thích mắt sẽ là món quà xứng danh cho sức lực bạn ném ra để đến với mảnh đất nền yêu thương này.

Bánh chưng đen

Bánh chưng đen Bánh chưng đen

Bánh chưng đen

Bánh chưng đen Mường Lò

Bánh chưng đen Mường Lò Bánh chưng đen Mường Lò

6. Măng sặt

Bánh chưng đen Mường Lò

Trước đó, cây măng sặt mọc tự nhiên trên vùng đồi của huyện Trạm Tấu, huyện Văn Chấn nhưng nhiều nhất là ở thị xã Nghĩa Lộ. Trước đó, măng sặt không có nhiều do mọc tự nhiên không có sự chăm sóc. Nhưng khi nhận thấy nhu cầu nhà hàng của người dân và nhiều du khách ở những nơi khác đến với những huyện vùng cao của tỉnh Yên Bái rất ưa thích món măng sặt thì người Dao, Thái đã biết quy hoạch những vùng có măng trên các vùng đồi núi già thành vùng riêng, được chăm sóc nên măng cũng phát triển tốt hơn, mập hơn và ngon hơn.

Măng sặt không phải trồng ở vùng nào thì cũng ngon. Có lẽ Yên Bái là mảnh đất nền có thổ nhưỡng và khí hậu phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cây măng. Chẳng thế mà măng sặt Yên Bái đã trở thành món ăn được nhiều thực khách sành ăn bình chọn là món măng ngon và hấp dẫn nhất.

Những ngọn măng sặt non, trắng nõn, mềm vàng cũng là một đặc sản nổi tiếng của núi rằng Tây Bắc, cụ thể là miền quê Yên Bái. Vào mùa măng măng mọc rộ, mọi người lại vui mừng lên rừng hái những đọt măng tươi ngon nhất. Măng non tiện dụng bóc, vị ngọt và không bị he, khi luộc thơm dậy lên mùi vị của núi rừng.

Măng sặt cả vỏ

Măng sặt cả vỏ Măng sặt cả vỏ

Măng sặt cả vỏ

Măng sặt bóc nõn

Măng sặt bóc nõn Măng sặt bóc nõn

7. Muồm muỗm rang Mường Lò

Măng sặt bóc nõn

Những ai đó đã từng đến vùng đất Mường Lò và thưởng thức món muồm muỗm rang giòn thơm ngậy hẳn sẽ không quên được khoảnh khắc tuyệt vời ấy. Muồm muỗm thường có nhiều vào mùa lúa chín, những con muỗm béo mũm được rang giòn, thêm chút gia vị, ăn kèm muối ớt hay lá chanh, người ta cũng sẽ có thể rim liu riu lửa với nước măng chua, chỉ thế thôi cũng đủ níu chân bao thực khách rồi.

Có rất vô số cách để chế biến món ăn ngon từ muồm muỗm. Song muồm muỗm rang giòn vẫn là đặc sản nổi tiếng được người dân nơi đây ưa chuộng nhất. Để sở hữu món đặc sản nổi tiếng muồm muỗm rang giòn thơm ngon, trước tiên phải sơ chế muồm muỗm. “Vặt cánh, bẻ chân, ngắt đầu, rút ruột” là 4 khâu cơ bản để tạo nên hình hài một chú muồm muỗm trên bàn nhậu. Phần sót lại của muồm muỗm sau lúc được làm sạch trông cứ kỳ kỳ, nần nẫn chẳng khác gì cái kén của tằm dâu. Xong khâu “làm lông”, muồm muỗm được rửa sạch, để ráo nước rồi cho vào chảo.

Đầu tiên, muồm muỗm được om với nước măng chua (hoặc giấm gạo) trên căn phòng nhà bếp lửa liu riu. Cạn nước, cho ngay mỡ (hoặc dầu ăn) vào, quần đảo đều tay trên căn phòng nhà bếp to lửa; khi nào nghe tiếng nổ lách tách tức là muồm muỗm đã chín giòn, cho bột canh (hoặc nước mắm, hạt nêm…) vừa đủ cùng với mì chính, một chút ớt tươi và quần đảo nhanh tay; cuối cùng, cho lá chanh thái chỉ nhỏ vào, quần đảo đều chín tới lá chanh là bắc chảo ra được. Muồm muỗm rang chín có màu vàng sậm, rất thơm.

Muồm muỗm răng giòn

Muồm muỗm răng giòn Muồm muỗm răng giòn

Muồm muỗm răng giòn

Muồm muỗm sống

Muồm muỗm sống Muồm muỗm sống

8. Chè tuyết suối Giàng

Muồm muỗm sống

Với những du khách đã từng đến thăm mảnh đất nền Suối Giàng hẳn sẽ không còn quên được hình ảnh những cây chè đại thụ ngút ngàn. Chè ở đây có mùi vị đặc trưng như mang cả những gì tinh túy nhất của núi rừng Tây Bắc. Những búp chè non mơn mởn được người dân hái về có white color xám nên gọi với cái tên vô thanh tú – chè tuyết Suối Giàng.

Chè ngon không chỉ bởi những búp chè tươi non như vậy mà nó còn đặc trưng bởi bàn tay sơ chế, chế biến, pha trà thủ công của người dân tộc bản địa miền núi. Một túi chè san tuyết Suối Giàng chắc chắn sẽ là một món quà ý nghĩa dành tặng người thân khi chúng ta có dịp ghé thăm mảnh đất nền này đấy.

Chè tuyết xanh mướt

Chè tuyết xanh mướt Chè tuyết xanh mướt

Chè tuyết xanh mướt

Người dân đang thu hái chè tuyết

Người dân đang thu hái chè tuyết Người dân đang thu hái chè tuyết

9. Quả táo mèo

Người dân đang thu hái chè tuyết

Táo mèo được trồng ở nhiều tỉnh vùng Tây Bắc như Yên Bái, Tỉnh Lào Cai, Sơn La… Nhưng có lẽ nổi tiếng nhất, có mùi vị đặc trưng nhất là táo mèo ở Yên Bái, nơi có khí hậu mát mẻ, ở độ cao trên 1.000m, táo mèo đã trở thành một “đặc sản nổi tiếng” của vùng đất này.

Luôn gắn liền với mảnh đất nền Yên Bái đấy là loại quả mang tên sơn tra hay còn gọi là quả táo mèo hoặc chua chát. Quả này còn có vị chua và thêm vị chát, sau lúc ăn sẽ lưu lại vị ngọt dịu, chua thanh. Quả chua chát thường được làm mứt táo mèo, ô mai chua chát. Loại quả này ngoài công dụng thực phẩm nó còn tồn tại nhiều tác dụng tốt trong đông y.

Khách du lịch về Yên Bái cũng trở thành thu hút bởi những bình rượu táo mèo, có thể gọi là “mỹ tửu” của vùng sơn cước, một loại rượu rất dân dã và độc đáo. Một chút men say chếnh choáng với vang Sơn Tra, ngất ngây trong nồng nàn hương rượu táo rừng do đồng bào chưng cất hay đơn giản chỉ là cái cảm giác thèm, nhớ một miếng táo mèo trắng ngần trộn cùng muối ớt nơi quán cóc ven đường…Chỉ chừng ấy cũng đủ gợi nhớ trong ta về quả Sơn Tra của vùng cao Yên Bái, để mùa qua mùa lại háo hức tìm về…

Táo mèo Yên Bái

Táo mèo Yên Bái Táo mèo Yên Bái

Táo mèo Yên Bái

Cây táo mèo sai trĩu quả

Cây táo mèo sai trĩu quả Cây táo mèo sai trĩu quả

10. Rau dớn

Cây táo mèo sai trĩu quả

Một loại đặc sản nổi tiếng có ở vùng Yên Bái đấy là cây rau dớn. Rau dớn, (đồng bào dân tộc bản địa Thái gọi là phác pút) thuộc họ quyết, to thêm cây dương xỉ, có cành dài, lá nhỏ xòe trên đầu cây như tán một chiếc ô rộng lớn. Rau dớn không có ở đồng bằng, chỉ có ở vùng núi – nơi bờ suối, bờ khe, dưới các tán rừng thấp nơi có nhiệt độ ướt cao. Khi đối chiếu với nhiều tộc người, rau dớn là “vua” loại rau, nó chẳng những giúp cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ buổi tiệc hằng ngày mà còn là một món đặc sản nổi tiếng để mời khách trong các tiệc tùng, lễ hội. Mỗi lần tổ chức tiệc tùng, lễ hội của gia đình hay cộng đồng, người ta tranh thủ vào rừng hái rau dớn để chế biến thức ăn. Vì loại rau này nhanh bị dập nát nên người ta hái đến đâu ăn đến đó, bảo đảm rau luôn tươi xanh, chất lượng sản phẩm và dịch vụ.

Đây là món rau tiện dụng chế biến nhất, có thể xào, luộc, nấu canh, muối chua, làm nộm… Người ta hái rau dớn tươi về, chọn phần mềm tươi non, rửa sạch bùn đất, bụi bờ, sau đó trụng sơ qua nước sôi và vớt ra để ráo. Dầu thực vật là loại thích hợp nhất để xào rau dớn. Ngoài ra rau dớn còn chế biến được những món ăn độc đáo khác ví như: rau xôi, rau dớn xào cùng nước măng chua, lá đu đủ, cà rãnh hay rau dớn luộc… Có thể với những vị khách muốn ăn dớn rừng với mùi vị nguyên thuỷ của nó thì chỉ việc nhặt những ngọn non tơ mỡ màng, rửa sạch cho vào nồi nước thật sôi, khi vừa chín tới vớt ra cho rau không bị nhừ. Đĩa rau luộc chấm với chén nước mắm thật ngon, cho thêm vài ánh tỏi giã dập, vài lát ớt là cũng đủ hấp dẫn.

Rau dớn xào

Rau dớn xào Rau dớn xào

Rau dớn xào

Rau dớn Yên Bái

Rau dớn Yên Bái Rau dớn Yên Bái

11. Ruốc tôm Mường Lò

Rau dớn Yên Bái

Từ nguyên liệu tôm nõm, thịt lợn thăn, dầu thực vật và các loại gia vị của vùng Mường Lò cùng với kinh nghiệm truyền thống của đồng bào Tây-bắc đã tạo nên mùi vị đặc trưng của sản phẩm ruốc Tôm. Món này khi ăn kèm với sôi ngũ sắc, cơm lam các bạn sẽ thật ấn tượng bởi sự đậm đà của ruốc tôm hoà quyện với mùi vị dẻo thơm của nếp Tú Lệ.

Ruốc tôm là một món ăn tưởng như rất đơn giản và tiện dụng làm nhưng không phải ai tuân theo công thức đó cũng ngon. Mỗi người, mỗi vùng miền đều phải sở hữu những bí quyết riêng tạo nên sự khác biệt trong mùi vị của từng món ăn. Ghé thăm miền Tây Yên Bái, nơi có những bàn tay khéo léo đã chế biến món ăn này từ những nguyên liệu hết sức gần gũi để mang lại đầy đủ vị ngon đến với những người thưởng thức.

Nguyên liệu để làm món ruốc tôm gồm: Tôm nõn (tôm suối) bóc vỏ, thịt lợn (nạc vai), dầu thực vật, gia vị. Tôm chọn con mình mẩy, to đều, rửa sạch bóc vỏ, bỏ chỉ đen trên sống lưng và phần đầu tôm. Cho tôm vào cối giã nhỏ. Thịt lợn băm nhỏ. Sau đó cho dầu vào chảo rang thịt chín kỹ rồi cho tôm giã nhỏ vào quần đảo đều, cho gia vị thêm vài giọt nước mắm cho ruốc tôm thêm đậm đà. Khi rang để lửa thật nhỏ, liu riu để tôm và thịt chín đều đến khi vừa khô là được. Sau lúc sao khô để nguội là có thể ăn được.

Ruốc tôm đã được chưng

Ruốc tôm đã được chưng Ruốc tôm đã được chưng

Ruốc tôm đã được chưng

Ruốc tôm đóng hộp

Ruốc tôm đóng hộp Ruốc tôm đóng hộp

12. Rêu suối Mường Lò

Ruốc tôm đóng hộp

Sau lúc làm sạch rêu, người Thái thường trộn hạt sẻn, hạt dổi, hạt mắc khén (những thứ hạt tiêu rừng thú vị) cùng ớt, tỏi, gừng, củ xả, lá chanh, rồi thêm ít thịt mỡ. Dùng lá dong được rửa sạch để gói rêu và gia vị, buộc lạt tre túm hai đầu, bẻ quặt hai mép lá lại thành cái hình khum khum treo trên một thanh nẹp tre. Đem tất cả vùi vào trong tro ấm. Không than, không lửa, cũng không hơ khói. Bao giờ lá dong cháy tý tách, thì lôi thanh tre ra, hơ cả gói rêu nướng trên than hoa.

Lá rong cháy tới trường trong cùng, mỡ và nước xanh thơm mát của rêu suối rỉ ra, thì bày ra đĩa. Khi ăn, mở gói lá dong ra, mùi mắc khén, hạt sẻn và mấy chục thứ gia vị cùng ngạt ngào, riêng có rêu vẫn mát lịm, thanh tao. Món rêu nướng (khay/”cay pho”) vừa quyến rũ với thẩm mỹ thứ thiệt của gia vị nhà hàng Thái, lại vừa giữ được cái mát lành, thơm thảo, dịu dàng của vị rêu suối. Món “cay pỉnh” còn thú vị hơn: đem nguyên liệu rêu và gia vị gói bằng lá lốt hoặc lá chanh. Kẹp các gói nhỏ trên thanh tre tươi trẻ đôi, nướng giòn. Rêu chín, cho vào rán với mỡ lợn.

Rêu suối nhiều, nhưng rêu ngon thì ít. Và cái mùa rêu ăn được, ăn thứ thiệt được lại càng ngắn ngủi. Nên bà con vùng cao (những nơi có tục ăn rêu) quý rêu lắm. Khách quý đến chơi nhà thì mới có thể đãi rêu khô trên gác căn phòng nhà bếp. Rêu thường được tổ chức ăn vào bữa cơm tối, khi đại gia đình đông đủ. Cô dâu Thái thường coi dành túm rêu nướng cho mẹ chồng những mong tròn vẹn hơn cái đạo dâu con.

Rêu được rửa sạch sẽ

Rêu được rửa sạch sẽ Rêu được rửa thật sạch

Rêu được rửa thật sạch

Rêu suối Yên Bái

Rêu suối Yên Bái Rêu suối Yên Bái

13. Măng vầu cuốn thịt

Rêu suối Yên Bái

Măng vầu thuộc họ tre, thân nhỏ không có gai. Mọc ở rừng hoặc trên núi. Thường niên, cứ đến tháng mười hai, khi mưa xuân lây phây, từ dưới lớp lá hoại mục, măng bắt đầu đội đất nhú lên, lộ hai tai nhỏ xíu xanh thẫm. Măng vầu ngon nhất vào tháng 12 đến khoảng chừng vào giữa tháng 3, những củ măng to, tròn và rất ngọt. Theo kinh nghiệm của người dân, khi nào có sấm thì măng đắng nhiều hơn, sẽ khó ăn lắm. Hầu như ở khắp các góc chợ miền núi đều phải sở hữu thứ đặc sản nổi tiếng này.

Món măng vầu cuốn thịt không cầu kỳ, phức tạp, chỉ việc mớ rau răm, một quả trứng, thịt ba chỉ và các loại gia vị như muối, bột ngọt… Quy trình tiến độ đầu tiên là chọn củ to luộc trên căn phòng nhà bếp khoảng chừng ba đến năm tiếng cho đỡ he và tiện dụng gọt. Sau lúc bỏ hết lớp vỏ già bên phía ngoài, người ta dùng tay bóc nhẹ lấy lớp lá non. Quy trình tiến độ này cũng cần được sự khéo léo, nếu lỡ tay để lá bị rách nát, khi cuốn thịt tiện dụng bị bung ra ngoài. Còn phần củ, dùng dao gọt xung quanh, dài khoảng chừng tám đến mười phân. Nên gọt thật mỏng để tránh bị dai khi ăn.

Phần nhân thịt thường được sử dụng thịt ba chỉ vì có cả mỡ lẫn nạc, măng cần có nhiều mỡ để tăng vị thơm ngon. Rau răm băm thật nhỏ, trộn đều với thịt đã xay nhuyễn và trứng, thêm một chút muối và bột nêm. Không để nhân thịt nhiều muối, như vậy măng sẽ đắng hơn, nhất là lúc chấm cùng gia vị sẽ không còn còn thơm và đúng chất. Xong khâu sẵn sàng chuẩn bị thì bắt tay vào cuốn. Những lớp lá non cuốn nhân thịt được xếp trên cùng vì tiện dụng chín. Nên lọc lấy thịt, còn bì để mặt đáy nồi, như vậy sẽ làm măng có nhiều mỡ và không bị cháy. Khi nồi nóng lên, cho thêm một chút nước vào và luôn giữ ngọn lửa vừa phải, đun đến khi măng mềm và chín là có thể lấy ra.

Măng vầu tươi

Măng vầu tươi Măng vầu tươi

Măng vầu tươi

Măng vầu cuốn thịt

Măng vầu cuốn thịt Măng vầu cuốn thịt

14. Xôi trứng kiến Mù Cang Chải

Măng vầu cuốn thịt

Xôi thì ở nhiều vùng miền bà con đều biết phương pháp nấu. Nhưng có điều hay, mỗi nơi bà con đều phải sở hữu sự kết hợp rất thú vị. Nếu Kon Tum bà con có món xôi măng độc đáo thì bà con vùng Tây Bắc có xôi ngũ sắc ấn tượng. Chưa dừng lại ở đó, bà con người Tày, người Dao, người Thái ở tỉnh Yên Bái lại sở hữu cách kết hợp khá lạ, đó là kết hợp giữa xôi và trứng kiến để thành món xôi trứng kiến rất lôi cuốn. Nói thêm là, từ món trứng kiến, bà con các dân tộc bản địa vùng cao Yên Bái còn khéo chế trở thành những món ăn khác, rất độc đáo và tẩm bổ – nhưng xin hẹn ở những lần sau sẽ để cập.

Linh hồn của món xôi trứng kiến đó đấy là trứng kiến đen và gạo nếp nương của Mù Cang Chải. Khi tiết trời sang xuân ấm áp là lúc loài kiến ở Mù Cang Chải sinh sôi và phát triển mạnh. Đây là thời điểm vàng để bà con có thể lấy trứng kiến về làm xôi. Để lấy được nguyên liệu trứng kiến thì phải lấy vào những ngày nắng ráo nếu không trứng kiến thấm nước mưa sẽ ăn không ngon.

Công đoạn làm xôi trứng kiến

Công đoạn làm xôi trứng kiến Quy trình tiến độ làm xôi trứng kiến

Quy trình tiến độ làm xôi trứng kiến

Xôi trứng kiến

Xôi trứng kiến Xôi trứng kiến

15. Bọ xít chiên giòn

Xôi trứng kiến

Năm nào thì cũng vậy, cứ vào tháng tư khi mùa hoa nhãn nở rộ, trên những chùm hoa phủ đầy phấn trắng xuất hiện nhiều chú bọ xít bám dày. Khi đó, người dân khu vực Văn Chấn, Nghĩa Lộ lại bắt đầu sẵn sàng chuẩn bị chăm sóc cho mùa quả ngọt mới và lại sở hữu thêm một món ngon trên mâm – món bọ xít chiên giòn.

Người dân nơi đây chế biến bọ xít khá đơn giản. Để bọ xít không còn mùi hôi, người ta đem bọ xít ngâm xuống nước vài giờ cho tới lúc bọ xít đã chết, bọt khí từ bọ xít bốc lên phủ kín mặt nước, bấy giờ người ta vớt ra, rửa sạch để ráo nước rồi đem sao vàng.

Bọ xít khi đã được sao vàng không còn mùi hăng hắc đặc trưng nữa mà có mùi rất thơm. Lúc này đem vặt bỏ đầu, cánh, rút ruột rồi đem chiên với dầu hoặc mỡ. Điều đặc biệt quan trọng là không phải ướp bọ xít với gia vị gì, kể cả mắm, muối, mì chính. Khi ăn, đổ dầu sống lưng chảo, rồi xúc bọ xít vào rá sắt, nhúng vào dầu sôi một lát, rồi nhấc ra đĩa là xong. Gia vị duy nhất ăn với bọ xít là lá chanh thái chỉ và một chút nước cốt chanh. Bản thân con bọ xít đã mang đủ các vị cay, mặn, ngọt, bùi…

Bọ xít chiên giòn

Bọ xít chiên giòn Bọ xít chiên giòn

Bọ xít chiên giòn

Một công đoạn chiên giòn bọ xít

Một công đoạn chiên giòn bọ xít Một giai đoạn chiên giòn bọ xít

Một giai đoạn chiên giòn bọ xít

Trên đây, mình giới thiệu những món đặc sản nổi tiếng Yên Bái nức tiếng của miền quê Yên Bái, đều là những món ăn vô cùng hấp dẫn đúng không ạ nào, khi tới thăm mảnh đất nền này bạn nhớ là dành riêng cho mình thời gian để thưởng thức nhé.

 

Rate this post

Viết một bình luận