Bộ
Giáo Luật
The
Code of Canon Law
Bản
dịch việt ngữ của:
Ðức
Ông Nguyễn Văn Phương, Linh
Mục Phan Tấn Thành, Linh
Mục Vũ Văn Thiện, Linh
Mục Mai Ðức Vinh
Prepared
for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Quyển
IV:
Nhiệm
Vụ Thánh Hóa Của Giáo Hội
Phần
II: Các Việc Phụng Tự Khác
Thiên
5:
Lời
Khấn Và Lời Thề
Chương
I: Lời Khấn
Ðiều
1191: (1) Lời khấn là lời hứa cách ý thức và thong
dong đối với Thiên Chúa, về một điều thiện tốt hơn và
có thể thi hành được. Xét vì thuộc về đức thờ
phượng, lời khấn buộc phải được chu toàn.
(2)
Nếu không bị luật cấm, mọi người biết xử dụng trí khôn
đều có năng cách tuyên khấn.
(3)
Lời khấn bị thúc đẩy vì sợ hãi trầm trọng và bất công,
hay bởi lường gạt, thì bị vô hiệu do chính pháp luật.
Ðiều
1192: (1) Lời khấn là công, nếu được Bề Trên hợp
pháp chấp nhận nhân danh Giáo Hội; đối lại, là lời khấn
tư.
(2)
Lời khấn là trọng thể nếu được Giáo Hội nhìn nhận như
vậy; đối lại, là lời khấn đơn thường.
(3)
Lời khấn là tòng nhân, nếu người khấn hứa đích thân
thi hành; lời khấn là tòng vật, nếu hứa một đồ vật gì;
lời khấn là hỗn hợp, nếu có dính líu tới bản chất
vừa của lời khấn tòng nhân vừa của lời khấn tòng vật.
Ðiều
1193: Tự nó, lời khấn chỉ ràng buộc người đã tuyên.
Ðiều
1194: Lời khấn chấm dứt vì hết thời gian cam kết chu
toàn nghĩa vụ; vì chất liệu đối tượng lời khấn đã thay
đổi tận bản thể; vì không xảy ra điều kiện do đó lời
khấn đã được đặt ra hay thiếu mục tiêu; vì sự miễn
chuẩn; vì sự hoán cải.
Ðiều
1195: Ai có quyền hành trên chất liệu của lời khấn thì
có thể đình chỉ nghĩa vụ của lời khấn, bao lâu việc thi
hành lời khấn gây thiệt hại cho họ.
Ðiều
1196: Ngoại trừ Ðức Giáo Hoàng, những người sau đây,
khi có lý do chính đáng, có thể chuẩn những lời khấn tư,
miễn là việc chuẩn không phương hại đến quyền lợi thủ
đắc của người khác:
1.
Bản Quyền sở tại và Cha Sở, đối với những người
thuộc quyền và cả những người lữ khách.
2.
Bề Trên dòng tu hay tu đoàn tông đồ, nếu là dòng tu hay tu
đoàn giáo sĩ thuộc luật Giáo Hoàng, đối với các phần
tử, tập sinh và những người ngày đêm trọ trong nhà của
dòng hay của tu đoàn.
3.
Những người được Tòa Thánh và Bản Quyền sở tại đã
ủy quyền miễn chuẩn.
Ðiều
1197: Một công việc đã hứa do lời khấn tư có thể
được hoán cải ra một việc khác tốt hơn hay tương đương do
chính người đã khấn; còn việc hoán cải ra một điều
thiện kém hơn chỉ có thể cấp bởi người có quyền miễn
chuẩn theo điều 1196.
Ðiều
1198: Những lời khấn đã tuyên trước khi khấn dòng sẽ
bị đình chỉ, bao lâu đương sự còn ở trong dòng tu.
Chương
II: Lời Thề
Ðiều
1199: (1) Lời thề, nghĩa là việc kêu cầu danh Chúa để
làm chứng cho sự thật, chỉ được tuyên trong chân lý,
hợp lý và ngay chính.
(2)
Lời thề do giáo luật đòi hỏi hay đón nhận, sẽ không thể
được tuyên cách hữu hiệu bởi người đại diện.
Ðiều
1200: (1) Ai đã thề một cách thong dong rằng mình sẽ làm
một việc gì, thì bị bó buộc, do nghĩa vụ riêng của đức
thờ phượng, phải thi hành điều mà họ đã xác quyết
bằng lời thề.
(2)
Lời thề bị thúc đẩy vì bị lường gạt, bạo lực hoặc
sợ hãi trầm trọng, thì vô hiệu do chính pháp luật.
Ðiều
1201: (1) Lời thề đoan hứa sẽ đi theo bản tính và những
điều kiện của hành vi mà nó bổ sung.
(2)
Nếu một hành vi trực tiếp làm hại người khác hoặc làm
tổn thương công ích hay phần rỗi đời đời thì, dù được
bổ sung bởi lời thề, hành vi ấy không cấu thành nghĩa vụ.
Ðiều
1202: Nghĩa vụ phát sinh do lời thề đoan hứa được chấm
dứt:
1.
Nếu được giải trừ bởi người mà lời thề đã tuyên
vì ích lợi của họ.
2.
Nếu chất liệu lời thề đã bị thay đổi tự bản chất;
hoặc trở nên xấu xa hay hoàn toàn vô nghĩa bởi vì hoàn
cảnh biến đổi; hoặc sau hết, nó làm cản trở sự thiện
ích lớn hơn.
3.
Bởi thiếu nguyên nhân chủ đích, hoặc thiếu điều kiện
chính yếu của lời thề.
4.
Do sự miễn chuẩn, sự hoán cải theo điều 1203.
Ðiều
1203: Ai có thể đình chỉ, miễn chuẩn, hoán cải lời khấn
thì cũng có quyền như vậy đối với lời thề đoan hứa.
Nhưng nếu việc miễn chuẩn lời thề gây thiệt hại cho
người khác, và họ từ chối giải trừ nghĩa vụ, thì chỉ
duy Tòa Thánh mới có thể miễn chuẩn lời thề ấy.
Ðiều
1204: Phải giải thích lời thề cách chặt chẽ theo quyền
lợi và ý định của người thề. Nhưng nếu người này
hành động do gian ý, thì phải giải thích theo ý hướng của
người nhận lời thề.
(Nhóm
Dịch Thuật Việt ngữ Bộ Giáo Luật)
Back
to Vietnamese Missionaries in Asia Home Page