Belladonna là một cây thuốc. Cho biết để cung cấp các hiệu ứng an thần, belladonna được chào mời như một phương thuốc tự nhiên cho bệnh hen suyễn, cảm lạnh, dị ứng, say tàu xe, đau thần kinh tọa, bệnh trĩ và đau. Mặc dù những tuyên bố này, tuy nhiên, có rất ít hỗ trợ khoa học cho các hiệu ứng sức khỏe của belladonna. Hơn nữa, belladonna chứa hóa chất được biết là độc hại đối với sức khỏe con người.
Nội dung chính
- Nghiên cứu
- Belladonna có an toàn không?
- Mục đích sức khỏe
- Những ngôn ngữ khác
- Đặc điểm thực vật
- Phân bố, trồng hái
- Bộ phận dùng
- Vi phẫu lá :
- Bột lá :
- Bột lá benladon
- Thành phần hóa học
- Kiểm nghiệm
- a. Định tính
- b.Định lượng
- Tác dụng và công dụng
- Dạng dùng và liều dùng
- Video liên quan
Nghiên cứu
Theo Viện Y tế Quốc gia (NIH), không có đủ bằng chứng khoa học để đánh giá hiệu quả của belladonna đối với bất kỳ tình trạng sức khỏe nào. Do độc tính của thảo dược, các nghiên cứu có sẵn trên belladonna liên quan đến các nghiên cứu về chế phẩm vi lượng đồng căn được pha loãng cao của belladonna. Ví dụ, một nghiên cứu năm 2001 từ Tạp chí Nghiên cứu Tâm lý học , trong đó bao gồm 118 tình nguyện viên khỏe mạnh. Đối với nghiên cứu, những người tham gia đã dùng cả hai giả dược và belladonna vi lượng đồng căn trong một chuỗi ngẫu nhiên trong tám tuần. Trong số 87 người hoàn thành nghiên cứu, các nhà nghiên cứu thấy không có sự khác biệt về ảnh hưởng sức khỏe của hai phương pháp điều trị.
Nghiên cứu sơ bộ từ các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng belladonna có thể cung cấp một số lợi ích sức khỏe. Trong một nghiên cứu năm 2004 từ tạp chí Homeopathy , ví dụ, các nhà khoa học phát hiện ra rằng belladonna có thể giúp giảm viêm kết hợp với viêm phúc mạc (một tình trạng được đánh dấu bằng kích thích mô lót thành trong của bụng).
Một nghiên cứu năm 2009 từ tạp chí Wound Repair and Regeneration , trong khi đó, phát hiện ra rằng belladonna thúc đẩy chữa lành vết thương ở chuột.
Belladonna có an toàn không?
Việc uống belladonna là không an toàn, theo NIH. Các tác dụng phụ có thể xảy ra bao gồm khô miệng, mờ mắt, sốt, nhịp tim nhanh, không thể đi tiểu hoặc đổ mồ hôi, ảo giác, co thắt, các vấn đề về tinh thần, co giật và hôn mê.
Ngoài ra, belladonna có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng khi phụ nữ có thai và những người có tình trạng sức khỏe nhất định (bao gồm suy tim sung huyết, táo bón , tăng nhãn áp và viêm loét đại tràng ).
Belladonna là một loại thảo mộc độc hại, nhưng nó có sẵn trong liều homeopathic pha loãng cao trong các cửa hàng thực phẩm sức khỏe và trực tuyến.
Hãy nhớ rằng các chất bổ sung chưa được thử nghiệm về an toàn và do thực tế là thực phẩm bổ sung phần lớn không được kiểm soát, nội dung của một số sản phẩm có thể khác với những gì được chỉ định trên nhãn sản phẩm. Cũng nên nhớ rằng sự an toàn của các chất bổ sung ở phụ nữ mang thai, cho con bú, trẻ em, và những người có điều kiện y tế hoặc những người đang dùng thuốc chưa được thiết lập. Bạn có thể nhận được lời khuyên về cách sử dụng bổ sung ở đây .
Mục đích sức khỏe
Do những lo ngại về an toàn và thiếu sự hỗ trợ khoa học cho việc sử dụng, các chế phẩm thảo dược của belladonna không thể được khuyến cáo cho bất kỳ tình trạng sức khỏe nào.
Nếu bạn đang xem xét việc sử dụng các chất bổ sung thảo dược, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn trước. Điều quan trọng cần lưu ý là tự xử lý một điều kiện và tránh hoặc trì hoãn việc chăm sóc tiêu chuẩn có thể có hậu quả nghiêm trọng.
Nguồn:
Gál P, Toporcer T, Grendel T, Vidová Z, Smetana K Jr, Dvoránková B, Gál T, Mozes S, Lenhardt L, Longauer F, Sabol M, Sabo J, Backor M. “Ảnh hưởng của Atropa belladonna L. lên vết thương trên da chữa bệnh: sinh học và nghiên cứu mô học ở chuột và nghiên cứu in vitro trong keratinocytes, 3T3 nguyên bào sợi, và tế bào nội mô tĩnh mạch rốn của con người. Sửa chữa vết thương Regen. 2009-Jun, 17 (3): 378-86.
Viện Y tế Quốc gia. “Belladonna: MedlinePlus bổ sung”. Tháng 1 năm 2011.
Pedalino CM, Perazzo FF, Carvalho JC, Martinho KS, Massoco Cde O, Bonamin LV. “Ảnh hưởng của Atropa belladonna và Echinacea angustifolia trong pha loãng vi lượng đồng căn trên viêm phúc mạc thực nghiệm.” Vi lượng đồng căn. 2004 tháng 10, 93 (4): 193-8.
Walach H, Köster H, Hennig T, Haag G. “Những ảnh hưởng của việc sử dụng belladonna 30% ở người tình nguyện khỏe mạnh – một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi”. J Psychosom Res. 2001 tháng Ba, 50 (3): 155-60.
Tuyên bố từ chối trách nhiệm: Thông tin trên trang web này chỉ dành cho mục đích giáo dục và không thay thế cho tư vấn, chẩn đoán hoặc điều trị bởi bác sĩ được cấp phép. Nó không có nghĩa là để trang trải tất cả các biện pháp phòng ngừa có thể, tương tác thuốc, hoàn cảnh hoặc tác dụng phụ. Bạn nên tìm kiếm chăm sóc y tế nhanh chóng cho bất kỳ vấn đề sức khỏe và tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng thuốc thay thế hoặc thực hiện một sự thay đổi chế độ của bạn.
Một cây cà độc dược. Ảnh: awl.ch.
Ngày 6/9, một người dân phát hiện một người đàn ông khỏa thân thực hiện nhiều hành vi kỳ lạ trong rừng gần thành phố Unterwossen. Không thể tới gần được người đàn ông để giúp đỡ, người kia đã báo cảnh sát. Khi cảnh sát bắt được người đàn ông, họ thấy cơ thể ông ta lạnh, còn trí óc mất khả năng định hướng nên đã đưa ông ta tới bệnh viện. Tại đây người ta biết ông là một thầy tu.
Các chuyên gia cho rằng vị thầy tu kia thực hiện những hành động lạ thường do ông ăn những quả mọng độc khi cắm trại trong rừng, Livescience đưa tin. Chất độc trong những quả mọng gây nên tình trạng ảo giác và liệt một phần cơ thể. Vì thế ông không thể tìm được đường trở lại lều.
Quảng cáo
Các bác sĩ trong bệnh viện nhận định rằng có lẽ vị thầy tu đã ăn những quả cà độc dược (Atropa belladonna). Đây là loại quả chứa atropine, scopolamine và hyoscyamine – những hóa chất có khả năng gây ảo giác và làm liệt cơ.
Quảng cáo
Chúng làm gián đoạn hoạt động của hệ thần kinh đối giao cảm (hay phó giao cảm). Hệ thần kinh này chi phối các hoạt động không chủ tâm như tiêu hóa, tim đập và tiết nước bọt. Nếu nồng độ chất độc thấp thì cà độc dược có nhiều tác dụng dược lý, như trị chứng co thắt dạ dày, chóng mặt khi di chuyển và duy trì nhịp tim ổn định trong quá trình phẫu thuật.
Nhưng nếu nồng độ chất độc cao, chúng sẽ gây nên tác động nghiêm trọng ở hệ thần kinh, thậm chí có thể gây tử vong. Những triệu chứng của tình trạng nhiễm độc với liều lượng cao bao gồm hành vi bất thường, nhịp tim nhanh hoặc bất thường, mặt đỏ, ảo giác, mất khả năng nhận thức, sốt.
Minh Long
english Atropa belladonna
nhà và vườn Làm vườn & cảnh quan
- thảo mộc Á-Âu lâu năm với hoa hình chuông màu đỏ và quả mọng màu đen sáng, được trồng rộng rãi ở Hoa Kỳ, rễ và lá mang lại atropine
Atropa belladonna , thường được gọi là belladonna hoặc nighthade , là một loại cây thân thảo lâu năm trong họ hàng đêm Solanaceae, bao gồm cà chua, khoai tây và cà tím. Nó có nguồn gốc từ Châu Âu, Bắc Phi và Tây Á. Phân phối của nó kéo dài từ Vương quốc Anh ở phía tây đến phía tây Ukraine và tỉnh Gilan của Iran ở phía đông. Nó cũng được nhập tịch và / hoặc được giới thiệu ở một số vùng của Canada và Hoa Kỳ.
Các tán lá và quả mọng cực kỳ độc hại khi ăn, có chứa các ancaloit nhiệt đới. Những chất độc này bao gồm atropine, scopolamine và hyoscyamine, gây mê sảng và ảo giác, và cũng được sử dụng làm thuốc kháng cholinergic dược phẩm.
Atropa belladonna có tác dụng không thể đoán trước. Thuốc giải độc cho ngộ độc belladonna là Physostigmine hoặc pilocarpin, giống như đối với atropine.
Nó có một lịch sử lâu dài sử dụng như một loại thuốc, mỹ phẩm và chất độc. Trước thời trung cổ, nó được sử dụng làm thuốc gây mê để phẫu thuật; Người La Mã cổ đại đã sử dụng nó như một loại thuốc độc (vợ của Hoàng đế Augustus và vợ của Claudius đều bị đồn là đã sử dụng nó để giết người); và, trước điều này, nó đã được sử dụng để tạo ra những mũi tên tẩm thuốc độc. Tên chi Atropa xuất phát từ Atropos (“không thể bị gạt sang một bên”), một trong ba số phận trong thần thoại Hy Lạp, người đã cắt đứt cuộc sống sau khi chị em của cô quay và đo nó; và tên “bella donna” có nguồn gốc từ tiếng Ý và có nghĩa là “người phụ nữ xinh đẹp” bởi vì loại thảo dược này được sử dụng trong thuốc nhỏ mắt của phụ nữ để làm giãn đồng tử mắt để làm cho chúng trông quyến rũ.
Châu Âu – Cây lâu năm Solanaceae có nguồn gốc từ Tây Á, cỏ chỉ 150cm bên trong và bên ngoài. Nó được biết đến như là cây dược liệu độc hại từ thời cổ đại, và có chứa các alcaloid trong toàn bộ cây. Lá có hình elip giống như quả trứng và dài từ 5 đến 20 cm. Hoa có hình chuông với màu nâu tím với một trên nách. Rễ và lá có tác dụng chữa bệnh và thành phần chính là hyoscyamine. Nó quan trọng như là một chất giảm đau / chống co thắt, và nó được sử dụng như một nguyên liệu thô như atropine sulfate.
→ Các mặt hàng liên quan Thuốc thô
Nguồn Encyclopedia Mypedia
Những ngôn ngữ khác
Thông tin về CÂY BENLADON
Tên khoa họcAtropa belladonna L.,Họ CàSolanaceae
Đặc điểm thực vật
Cây thuộc thảo, sống được nhiều năm, cao từ 1-1,5 m, phần trên có lông. Lá nguyên hình bầu dục, nhọn, so le, phần ngọn lại mọc đối. Lá có mùi buồn nôn, vị đắng khó chịu. Hoa đơn, mọc kẽ ở lá, hình chuông màu tím ở biên giới, nhạt màu đi xuống, cánh hợp, bầu trên, 5 nhị, bao phấn giống hình trái tim và 4 thùy. Quả thịt, 2 bào,chứa nhiều hạt, lúc đầu có màu xanh sau chín có màu tím đen.
Phân bố, trồng hái
Cây có nguồn gốc ở Nam và trung Âu, mọc nhiều ở những rừng thưa trên đất chứa đá vôi. Ngày nay được trồng nhiều nơi trên thế giới nhất là ở Nga, Pháp, Anh, Ấn Độ, Mỹ…
Trồng bằng hạt, cũng có thể trồng bằng đoạn rễ, thường trồng mỗi cây cách nhau chừng 0,3 m trên những luống cách nhau 0.8 m, ánh sáng và phân bón rất ảnh hưởng tới hàm lượng alcaloid trong cây.
Thu hái khi cây sắp ra hoa (vào tháng 6, tháng 7) vì lúc đó có hàm lượng hoạt chất rất cao. Người ta thường cắt cả cây để lại gốc cách mặt đất chừng 4-5 cm (cho nẩy chồi mới) rồi mới hái riêng lá đem phơi hặc sấy ở nhiệt độ 45 độ C trong 24 đến 48 giờ.
Thu hoạch rễ, thường ở những cây đã 2 tuổi và không hái lá năm trước để có hàm lượng hoạt chất cao. Đào rễ lúc cây ra hoa, đem rửa sạch đất, cắt thành những đoạn ngắn rồi đem phơi hoặc sấy ở nhiệt độ thấp.
Hái quả khi chin đem phơi ngay, đến khi quả thật khô đem xát láy hạt. Nấu dung hạt làm giống có thể để nguyên quả khi nào gieo mới lấy hạt ra.
Bộ phận dùng
Lá phơi khô (Folium Belladonnae)
Rễ (Radix Belladonnae)
Quả và hạt (Fructus et Semen Belladonnae)
Vi phẫu lá :
Biểu bì trên và biểu bì dưới đều có lỗ khí, có ít lông che chở gồm 2 đến 5 tế bào dài, thành hơi dày và nhẵn hoặc hơi có chấm. Lông tiết nhiều hơn, phần lớn chân đa bào và dài, đầu đơn bào
Mô dậu có một hàng tế bào dài, tiếo sau là một lớp tế bào hình tròn, có calci oxalat dạng cát
Bột lá :
Màu xanh lục, mùi hơi buồn nôn. Soi kính hiển vi thấy : mảnh biểu bì gồm tế bào có thành phần ngoằn ngoèo và lớp cutin vó vân, lỗ khí bao bọc bởi 3 tế bào phụ. Lông che chở đa bào nhẵn hoặc hơi có chấm. Lông tiết có loại chân đa bào đàu đơn bào, có loại chân đơn bào đầu đa bào. Mảnh mô mềm có tế bào chứa calxi oxalat dạng cát.
Bột lá benladon
- Mảnh biểu bì
- Mảnh biểu bì trên gân lá
- Mảnh phiến lá
- Lông che chở
- Lông tiết
- Mảnh mô mềm có tế bào cát
- Mảnh phiến lá có mạch xoắn và calci oxalat dạng cát
- Calci oxalat dạng cát
- Calci oxalat hình cầu gai
- Mảnh mô mềm
- Mạch xoắn
Thành phần hóa học
Trong lá chứa 0,2 – 1,2 %, ở rễ có 0,45 – 0,85%, ở hoa 0,5 %, ở quả 0,65% và ở hạt có 0,8% acaloid. Acaloid chính cũng là chất có tác dụng dược lý mạnh là L – hyoscyamin; trong quá trình chế biến dược liệu, acaloid nay đã chuyển một phần sang dạng racemic là atropin (D, L – hyoscyamin). Ngoài ra còn có một số nhỏ L – scopolamin và các vết atropamin ( = apotropin), benladonin, tropin, scopin, cuscohygrin).
Các chất kiềm bay hơi như N – methylpyrrolin, N – methylpyrrolidin…;các chất kiềm này không có tác dụng sinh lý rõ rệt nhưng cần chú ý khi định lượng alcaloid trong dược liệu.
– Có glycosid là scopolin (= methyllesculin), khi thủy phân cho glucose và scopoletin (= methylesculetin).
– Scopolin và scopoletin cho huỳnh quang màu xanh đậm trong môi trường amoniac, người ta dùng để phân biệt với dịch chiết hoặc rượu thuốc của dược liệu khác không cho huỳnh quang vì không có hoặc rất ít scopoletin như trong các loài Datura và Hyoscyamus.
– Có rất nhiều chất muối vô cơ nên tỷ lệ tro rất cao (tới 15 %) , gồm các muối clorid và nitrat nên dễ hút nước, do đó cao benladon cũng dễ hút nước, cần bảo quản cẩn thận.
– Ngoài ra, trong lá và rễ còn chứa tanin (khoảng 10%) và acid hữu cơ.
Kiểm nghiệm
a. Định tính
– Trên vi phẫu: Xác định vị trí alcaloid ở lá benladon :nhỏ lên vi phẫu một giọt thuốc thử Bouchardat hoặc thuốc thử phosphomolydic sẽ thấy tủa alcaloid tập trung ở biểu bì quanh libe.
– Phản ứng Vitali: Cho vào 0,5g bột dược liệu 10ml acid HCl 1N, lắc trong 3 phút, lọc. Kiềm hoá dịch lọc bằng dung dịch amoniac rồi lắc mạnh với 10ml ether etylic, gạn lấy lớp ether, loại nước lẫn trong ether bằng Na2SO4 khan, lọc vào một chén sứ, cho bốc hơi cách thủy tới khô. Hòa tan cắn với 3 -5 giọt dung dịch KOH 0,5N trong cồn. Nếu có mặt tropanalcaloid (atropin, hyoscyamin, scopolamin) sẽ xuất hiện màu tím, màu này sẽ đậm hơn khi cho thêm ngay 2 ml aceton, màu sẽ dần dần biến mất sau 10 – 15 phút.
Một vài alcaloid khác như strychnin, apomorphin và veratrin cũng cho màu tương tự nhưng màu sẽ mất đi nhanh khi cho thêm aceton.
Cơ chế phản ứng Vitali được Schwenker (1965 và 1966) giải thích như sau: Khi tác dụng với acid HNO3 bốc khói thì vòng thơm của acid tropic (một phần của phân tử atropin, hyoscyamin, scopolamin…) được gắn một nhóm NO2 vào vị trí 4; ở đây sinh ra bên cạnh hợp chất este của acid nitric là 4 nitroatropin (I) còn có 4 – nitroatropin (II). Cả 2 hợp chất nitro nay đều cho màu tím đặc trưng khi tác dụng với kiềm mạnh, chúng tạo ra những anion mesomeri bền vững (III).
– Định tính scopolin: Để định tính scopolin, người ta dựa vào tính chất tạo ra huỳnh quang trong môi trường kiềm. Chiết lấy glycosid scopolin hoặc phần aglycon scopolin sau khi thủy phân bằng acid, đem lắc với chloroform hoặc ether, gạn lấy lớp dung môi, cho bốc hơi tới khô, hòa tan cắn trong dung dịch amoniac loãng sẽ xuất hiện huỳnh quang xanh đậm.
Người ta thường chỉ định tính metylsculin khi kiểm tra dịch chiết hoặc thuốc điều chế từ lá benladon, nhưng cần chú ý là trong là của cây họ Cà đều có flavonoid, nên trong dung dịch kiềm xuất hiện huỳnh quang màu vàng. Để kết luận được chắc chắn người ta thường phối hợp với phương pháp sắc kí.
b.Định lượng
Cân chính xác 10g dược liệu tán nhỏ vừa, thấm ướt bằng một hỗn hợp 8ml amoniac, 10ml cồn 95o và 20ml ether etylic. Để yên 12giờ trong một cốc đậy kín rồi chuyển hoàn toàn vào một bình chiết và chiết liên tục bằng ether ethylic trong 3 giờ. Chuyển dịch chiết ether vào một bình gạn rồi lắc 4 lần, mỗi lần 20ml HCl 1%. Tập trung bình chiết vào một bình gạn khác, kiềm hóa bằng dung dịch amoniac đến pH 9,5 – 10 rồi lắc 4 lần, mỗi lần 25ml chloroform. Lọc dịch chiết cloroform qua Na2SO4 khan rồi đem cất thu hồi chloroform. Cắn còn lại đem sấy khô ở 100 – 105oC trong 60 phút. Sau khi nguội, hòa tan cắn trong 4 ml chloroform, thêm 15 ml dung dịch H2SO4 0,02N. Đun nóng trên nồi cách thủy cho bay hơi hết chloroform, hòa loãng với 20 ml nước mới đun sôi để nguội. Sau khi nguội định lượng bằng NaOH 0,02 đến khi chuyển sang màu vàng, dùng chỉ thị màu là methyl đỏ.
Gọi n là số ml NaOH 0,02 đã dùng để trung hòa H2SO4 thừa, (15 – n) là số ml dung dịch H2SO4 0,02 đã dùng để bão hòa alcaloid.
1ml dung dịch H2SO4 0,02N tương ứng với 0,00578 g alcaloid biểu thị bằng hyoscyamin.
Hàm lượng phần trăm alcaloid của dược liệu:
X% = (15 – n) x 0,0578
Ngoài ra, có thể định lượng bằng phương pháp so màu dựa vào màu tạo ra của phản ứng Vitali, phản ứng rất nhạy nhưng màu không bền vững nên phải làm nhanh.
Hoặc tạo tủa alcaloid với muối Reinecke, hòa tan tủa có màu trong aceton rồi đo quang ở bước sóng 525nm.
Dược điển Việt Nam I quy định: Lá benladon phải chứa 0,3 – 0,5 % acaloid toàn phần, biểu thị bằng hyoscyanin.
Định lượng bằng phương pháp hóa học không phân biệt được atropin và hyoscyamin tuy tác dụng sinh học của hyacyamin mạnh hơn atropin nhiều. Muốn phân biệt người ta phải định lượng bằng phương pháp sinh vật.
Tác dụng và công dụng
Atropin làm liệt phó giao cảm. Nó ảnh hưởng đặc biệt đến sự hoạt động của các tuyến và cơ trơn. Nó làm giảm tiết nước bọt, mồ hôi, dịch vị… có khi ngừng hẳn, làm giảm co bóp của dạ dày, ruột, phế quản, làm tim đập nhanh, làm giãn đồng tử. Liều nhỏ kích thích thần kinh trung ương, gây sảng khoái, ảo giác và mê sảng, liều cao gây liệt. Ngoài ra atropin còn có tác dụng chống nôn. L – hyoscyamin tác dụng mạnh hơn atropin vì atropin có một nửa là D – hyoscyamin. Điều đó cho thấy dịch chiết dược liệu chứa L – hyoscyamin nhiều hơn D – hyoscyamin nên có tác dụng mạnh hơn lượng atropin tinh khiết tương ứng.
Dược liệu cũng như atropin được dùng để làm thuốc giảm đau co thắt cơ trơn (bệnh dạ dày, mật, co cứng do bí đại tiện và hen phế quản), trong bệnh đau dạ dày do thừa dịch vị, thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử, làm thuốc chống nôn, làm giảm bài tiết nước bọt khi phẫu thuật và dùng trong bệnh Parkinson (bệnh liệt rung). Ngoài ra, người ta còn sử dụng dịch chiết rễ cây benladon để chữa bệnh Parkinson.
Benladon là dược liệu độc, độ độc thay đổi tùy theo hàm lượng alcaloid.
Dạng dùng và liều dùng
Bột lá: (bảng A): Liều tối đa 0,15g mỗi lần 0,50g trong 24 giờ.
Cao (bảng A): Liều tối đa 0,03g mỗi lần 0,01g trong 24 giờ
Cồn 1/10 (giảm độc A): Liều tối đa 1,5g mỗi lần 5g trong 24 giờ.
Copy xin vui lòng ghi nguồn duoclieu.edu.vn