Bồ Tát là gì? Định nghĩa, khái niệm

Bồ Tát là gì?

Bồ Tát là người giác ngộ về nỗi khổ của tất cả chúng sinh, đồng tình và thông cảm với nỗi khổ đó, và phát nguyện cứu thoát chúng sinh ra khỏi những nỗi khổ đó. Vì vậy mà ở đời, hễ thấy ai hay thương người, hay bố thí, và cứu giúp người trong cơn khổ nạn, thì nói người ấy có tâm Bồ tát.
Bồ Tát (菩薩) là lối viết tắt của Bồ-đề-tát-đóa (zh. 菩提薩埵, sa. bodhisattva), cách phiên âm tiếng Phạn bodhisattva sang Hán-Việt, dịch ý là Giác hữu tình (zh. 覺有情), hoặc Đại sĩ (zh. 大士).
Yếu tố cơ bản của Bồ Tát là lòng từ bi đi song song với trí huệ. Bồ Tát cứu độ người khác và sẵn sàng thụ lãnh tất cả mọi đau khổ của chúng sinh cũng như hồi hướng phúc đức mình cho kẻ khác. Con đường tu học của Bồ tát bắt đầu bằng luyện tâm Bồ-đề và giữ Bồ Tát hạnh nguyện. Hành trình tu học của Bồ Tát theo kinh Hoa Nghiêm thì có 52 quả vị gồm Thập Tính, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập địa và hai quả vị cuối cùng là Đẳng giác và Diệu giác. Có rất nhiều chư vị Bồ Tát nhưng thường được nhắc đến là Quan Thế Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát,…

Bồ tát trong xã hội

Bồ Tát là những nhân vật khá phổ biến trong văn học và nghệ thuật Phật giáo. Trong nhiều câu chuyện, các cá nhân bình thường hoặc thậm chí là động vật được tiết lộ là những vị Bồ tát vĩ đại, đã hóa thân thành nhiều hình thức khác nhau để cứu giúp những người gặp hoạn nạn, khó khăn. Bồ Tát xuất hiện phổ biến trong văn hoá dân gian như một vị thần cứu rỗi, họ đảm nhận một vai trò thật sự thông qua sự tiến hoá của những ý tưởng trước đây, và thông qua sự hợp nhất với các vị thần trong tín ngưỡng dân gian địa phương.

Bồ Tát là ai?

Bồ Tát là một thuật ngữ được phiên âm từ tiếng Phạn Bodhisattva hay Bồ đề tát đỏa trong Hán-Việt. Theo danh từ Nam Phạn (Pali), Bodhisatta gồm có hai phần: “Bodhi” là trí tuệ hay giác tuệ; “Sattva” là chuyên chú, (hay) gia tăng thêm nhiều công năng để phụng sự cho một lý tưởng nào đó. bên cạnh đó Bồ-đề nghĩa là giác, Tát-đỏa là hữu tình. Bồ Tát nghĩa là giác hữu tình. Bồ Tát là hữu tình có giác ngộ. Giác ngộ về nỗi khổ của tất cả chúng sinh, đồng tình và thông cảm với nỗi khổ đó, và phát nguyện cứu thoát chúng sinh ra khỏi những nỗi khổ đó. Vì vậy mà ở đời, hễ thấy ai hay thương người, hay bố thí, và cứu giúp người trong cơn khổ nạn, thì nói người ấy có tâm Bồ tát.

Bồ Tát không phải là thần Thổ Địa, cũng không phải là thần Thành Hoàng mà tượng bằng gỗ, tượng bằng đất được thờ phục ở khắp đền miếu. Chúng sinh trước khi thành Phật tất yếu phải trải qua một quá trình làm Bồ Tát. Muốn làm Bồ Tát trước hết phải có tâm nguyện lớn, chủ yếu là bốn lời nguyện: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyệnthành”. Nghĩa là: “Phát lời nguyện độ thoát cho vô số lượng chúng sinh; Phát lời nguyện đoạn trừ vô số lượng phiền não; Phát lời nguyện học tập vô số lượng pháp môn; Phát lời nguyện thành tựu Phật đạo vô thượng”.

Trong Quốc Phật Học Ðại Từ Ðiển (Bắc Kinh – 2002) đã định nghĩa về Bồ Tát như sau: “Bồ Tát là khái niệm tổng thể và giàu ý nghĩa để chỉ những vị chứng quả diệu thâm trong Phật Giáo, nhưng còn theo đuổi tâm nguyện độ thóat chúng sanh, nên còn lưu lại trong tam giới để hành trì đại nguyện nầy. Tư tưởng chính của Ðại Thừa PG”.

Bồ Tát là danh hiệu dành cho những vị tu hành đạo Phật đã chứng quả. Tuy vậy, theo đẳng thứ, thì Bồ Tát vẫn còn dưới chư Phật một cấp bậc, cho nên phải tu thêm một kiếp nữa mới thành Phật.

Vì còn muốn giác ngộ cho chúng sanh, cho nên chư Bồ Tát vẫn còn giữ chức năng cứu độ mọi loài trong ba cõi, theo ý nghĩa căn bản trong giáo lý của Ðại Thừa Phật Giáo.

Theo Giáo lý Ðại Thừa Phật Giáo, vị Bồ Tát là hành giả sau khi hành trì Ba la mật đa (Paramità = lục độ) đã chứng Phật quả, những do hạnh nguyện không nhập Niết Bàn (nirvana), khi tất cả chúng sanh vẫn chưa giác ngộ.

Khái niệm Bồ Tát dùng để chỉ cho bất cứ chúng sanh nào, dốc chí tu hành để đạt thành “Tuệ Giác”; ngoài ra còn lập lời “Chú nguyện” đi theo con đường Chính đẳng, Chính giác.

Qua khái niệm Bồ Tát, hiểu theo một phạm trù khác, tất cả chúng sanh đều có khả năng đắc quà thành Phật, vì đạo lý của đức Phật đã không là đặc ân cho một hạng người riêng biệt nào cả.

Bồ Tát theo Đại thừa

Bồ Tát theo Đại thừa là những vị mang hạnh nguyện cao cả, tình nguyện dấn thân vào hồng trần để cứu độ chúng sanh, để bổ túc cho pháp tu và công hạnh của mình. Lấy chúng sanh hữu tình làm bạn lữ, trợ duyên cho Bồ Tát hoàn thành Phật quả. Bởi vậy, trong Pháp Bảo Đàn Kinh có câu: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Nghĩa là: “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà tìm giác ngộ”. Vì “lìa thế gian mà tìm giác ngộ cũng như tìm lông rùa sừng thỏ”, không thể nào có được.

Trước tiên, Bồ Tát phải có đại nguyện và đại hạnh.

Chúng sanh thì vô lượng vô biên không thể kể xiết, Bồ Tát thệ nguyện độ hết không bỏ sót một ai. Vừa độ hữu tình chúng sanh bên ngoài, vừa độ chúng sanh bên trong (tham, sân, si…), làm cho tất cả đều vào cảnh Niết-bàn tịch tịnh. Nếu chưa được như vậy, Bồ Tát vẫn còn mãi độ sanh chưa thể dừng nghỉ. Và phiền não chúng sanh cũng vô tận, thế nên Bồ Tát nguyện đoạn diệt hết phiền não trong tâm chúng sanh và loại bỏ phiền não của chính mình, để tiến gần với Phật quả và xa rời phàm phu nghiệp chướng. Vì chúng sanh vô biên, còn phiền não vô tận nên Bồ Tát phải học vô lượng pháp môn cho phù hợp với căn cơ chúng sanh, để dễ dàng hóa độ họ.

Cuối cùng, để đạt đến cứu cánh viên mãn là Phật quả, Bồ Tát phải phát nguyện “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Trong quá trình tu tập và nhập thế độ sanh, Bồ Tát thường thực hành nhiều đại hạnh. Trước tiên là Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Tất cả những thứ ấy nhằm bổ túc Ba-la-mật cho mình, vừa để độ sanh; vừa hoàn thiện sự tu tập và vừa giúp chúng sanh ra ngoài vòng đau khổ, lên bỉ ngạn an vui. Với lòng từ rộng lớn, không nỡ để chúng sanh chìm đắm trong biển sanh tử, nên Bồ Tát đi vào cuộc đời để hóa độ và tu hành.

Ngoài ra, Bồ Tát cần có Tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), làm lợi ích cho chúng sanh và giáo hóa họ. Dùng tài vật, lời nói, việc làm để cảm hóa họ và đưa họ về chánh đạo, hoặc cùng làm việc với họ và hóa độ họ. Vì công việc độ sanh mà Bồ Tát không từ lao nhọc. Và chúng sanh căn cơ khác nhau nên Bồ Tát cần biết thêm Ngũ minh để hoàn thiện việc độ sanh (nội minh, nhân minh, thanh minh, y phương minh, công xảo minh). Ngoài việc nắm vững giáo lý Phật pháp, Bồ Tát còn biết nhiều thứ khác để giúp cho việc độ sanh được dễ dàng. 

“Là Phật tử quyết đi bỉ ngạn

Vai ném xong gánh nặng hồng trần

Dù cho vạn khổ thiên tân

Bước chân hành giả không ngừng lại đâu”.

Bồ Tát với tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả), phát nguyện đi vào cuộc đời để độ chúng sanh, dù gian lao khổ nhọc chẳng quản, miễn sao độ được người. Điều này, mỗi hành giả tu Phật đều làm được. Tất cả chúng ta đều có thể trở thành Bồ Tát vào đời độ sanh. Theo đó, ta có thể dùng nhiều phương tiện đi vào cuộc sống, vừa tu tập và giúp bao chúng hữu tình quay về bờ giác. Vì chúng sanh khổ nên Bồ Tát tình nguyện dấn thân hóa độ, tận tụy, hy sinh lợi ích cá nhân để đem lại lợi ích tha nhân.

Người đăng: dathbz

Time: 2020-08-06 14:51:54

Rate this post

Viết một bình luận