TÌM HIỂU CHUNG
[edit]
Thể loại
Ca dao
Chủ đề
Những câu hát châm biếm phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.
Bài ca dao số 1
Cái cò lặn lội bờ ao,
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
-
Bài ca dao giới thiệu chân dung của
“chú tôi”
. Bức chân dung có những nét biếm họa giễu cợt, mỉa mai:
– “Hay tửu hay tăm”: có nghĩa là nghiện rượu, nát rượu.
– “Hay nước chè đặc”: nghiện uống nước chè.
– “Hay nằm ngủ trưa” và ban ngày thì “ước ngày mưa”
để không phải đi làm, đêm thì “ước đêm thừa trống canh” để được ngủ nhiều.
Có thể thấy, “chú tôi” là con người lắm tật, vừa rượu chè vừa lười biếng. Thông thường chữ “hay”
thường dùng cho những điều tốt, điều hay, tuy nhiên, trong trường hợp này chữ “hay” mang tính mỉa mai. Bài ca đã dùng hình thức nói ngược để giễu cợt, châm biếm nhân vật ông chú.
-
Hình ảnh cô yếm đào hiện lên đối lập với
“chú tôi”
:
– “Yếm đào” thường tượng trưng cho cô gái trẻ, đẹp.
– “Lặn lội bờ ao”: muốn nói đến người con gái chăm chỉ chịu khó
Chàng trai xứng đáng lấy cô yếm đào phải là người có nhiều đức tính tốt, giỏi giang chứ không thể là người như “chú tôi” có nhiều tật xấu như vậy.
-
Bài ca chế giễu những hạng người nghiện ngập và lười biếng. Hạng người này thời nào, nơi nào cũng có và cần phê phán.
Bài ca dao số 2
Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
-
Bài ca dao nhại lời của thầy bói nói với người đi xem bói nói với người đi xem bói. Bài ca dao khách quan “ghi âm” lời thầy bói, không đưa ra lời bình luận, đánh giá nào. Đây là nghệ thuật
“gậy ông đập lưng ông”
có tác dụng gây cười, châm biếm rất sâu sắc.
-
Thầy bói đã phán những chuyện hệ trọng về số phận mà người đi xem bói (là nữ) rất quan tâm: giàu – nghèo, cha – mẹ, chồng – con. Chuyện nào cũng được “phán” có vẻ cụ thể.
-
Cách thầy phán là kiểu nói dựa, nước đôi. Thầy nói rõ ràng, khẳng định như đinh đóng cột cho người đi xem bói đang hồi hộp chăm chú lắng nghe nhưng nói về những sự hiển nhiên, do đó lời phán trở thành vô nghĩa, ấu trĩ, nực cười. Bài ca dao đã phóng đại cách nói nước đôi đó để lật tẩy chân dung, tài cán, bản chất của thầy.
-
Bài ca dao phê phán, châm biếm những kẻ hành nghề mê tín, dốt nát, lừa bịp, lợi dụng lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời nó cũng châm biếm sự mê tín mù quáng của những người ít hiểu biết, tin vào sự bói toàn phản khoa học. Đến nay bài ca vẫn còn có ý nghĩa thời sự.
Bài ca dao số 3
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào thì đánh trống quân
Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao.
-
Bài ca dao vẽ lên cảnh tượng một đám ma theo tục lệ cũ. Mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, một hạng người:
Các con vật
Loại người, hạng người trong xã hội
Con cò
Người nông dân
Cà cuống
Những kẻ tai to mặt lớn như xã trưởng, lí trưởng…
Chim ri, chào mào
Những cai lệ, lính lệ…
Chim chích
Những anh mõ đi rao việc làng
-
Việc chọn các nhân vật để miêu tả, “đóng vai” như thế tạo lí thú:
– Dùng thế giới loài vật để nói về thế giới con người (giống truyện ngụ ngôn)
– Từng con vật với những đặc điểm của nó là hình ảnh rất sinh động tiêu biểu cho các loại người, hạng người trong xã hội mà nó ám chỉ.
– Qua những hình ảnh này, nội dung châm biếm, phê phán trở nên kín đáo, sâu sắc hơn.
-
Cảnh tượng trong bài hoàn toàn không phù hợp với đám ma. Cuộc đánh chén vui vẻ, chia chác diễn ra trong cảnh mất mát, tang tóc của gia đình người chết. Cái chết thương tâm của con cò trở thành dịp cho cuộc đánh chén, chia chác vô lối, om sòm kia.
-
Bài ca dao phê phán, châm biếm hủ tục ma chay trong xã hội cũ. Tàn tích của hủ tục ấy đến nay đôi khi vẫn còn và cần phê phán mạnh mẽ.
Bài ca dao số 4
Cậu cai nón dấu lông gà,
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
-
Bài ca dao miêu tả chân dung cậu cai, tức anh cai lệ – người được mang chức cai, coi đám lính lệ canh gác và phục dịch ở phủ, huyện thời xưa. Bài ca chỉ điểm vài nét nhưng đã vẽ nên bức biếm họa rất sinh động, chân thực về chân dung cậu cai:
– Đầu đội “nón dấu lông gà”: Cậu cai là lính và đồng thời bộc lộ “quyền lực”.
– “Ngón tay đep nhẫn”: Tính cách phô trương, trai lơ của cậu cai (tính cách này còn được miêu tả trong một số bài ca dao khác như: “Cậu cai buông áo em ra/ Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa”
.
– “Áo ngắn… quần dài” ba năm cậu mới mặc một lần, khi có “chuyến sai”
(tức là được phân một công việc nào đấy), ấy vậy mà toàn là đồ đi thuê, mượn. Có thể thấy, cái vỏ bề ngoài của cậu cai thực chất là sự khoe khoang, cố “làm dáng” để bịp người.
-
Nghệ thuật châm biếm trong bài ca dao:
– Cách gọi anh cai lệ là “cậu cai”: vừa để lấy lòng cậu cai vừa như để châm chọc, mỉa mai
– Dùng kiểu câu định nghĩa để “định nghĩa” về cậu cai trong vẻn vẹn hai dòng thơ. Bài ca đặc tả chân dung nhân vật chỉ bằng vài nét điểm qua, chọn lọc để chế giễu, mỉa mai. Qua trang phục, y phục, công việc cậu cai xuất hiện như một kẻ lố lăng, bắng nhắng, trai lơ và không một chút quyền hành.
– Nghệ thuật phóng đại: “ba năm được một chuyến sai”, “áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê” để nói quyền hành và thân phận thảm hại của cậu cai.
-
Bài ca dao phê phán những kẻ thực chất không có quyền hành, thân phận thảm hại nhưng lại thích ra oai để bịp người.
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
[edit]
Sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược và phóng đại… thể hiện nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam.