Cách dùng thuốc điều trị viêm da dị ứng

Biểu hiện của viêm da dị ứng

Các biểu hiện của viêm da dị ứng bao gồm: ngứa (ngứa từ nhẹ đến nặng, có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và giấc ngủ của người bệnh), khô da (là một biểu hiện thường xuyên của viêm da dị ứng)… Ở trẻ nhỏ, các tổn thương thường xuất hiện ở các nếp gấp (cổ tay, khuỷu tay, đầu gối, nếp gấp dưới mông, dưới tai, hoặc những vùng như mi mắt, quanh miệng, bàn tay…). Ở thiếu niên và người trưởng thành tổn thương thường thấy chủ yếu ở mặt, bàn tay, mi mắt, cổ.

Cách dùng thuốc điều trị

Cách điều trị viêm da dị ứng đơn giản và hiệu quả nhất là dự phòng bằng cách hạn chế tiếp xúc với những tác nhân gây kích thích da như vật nuôi trong nhà, khói bụi, thức ăn gây dị ứng… Khi đã áp dụng các biện pháp dự phòng mà bệnh vẫn phát triển và gây khó chịu thì có thể sử dụng các thuốc dưới đây:

Thuốc bôi ngoài da

Thuốc giữ ẩm: Việc điều trị giữ ẩm cho da là bước rất quan trọng trong điều trị viêm da dị ứng. Khi bị dị ứng nhẹ, bạn nên chọn loại kem trung tính, không có chất thơm hoặc chất bảo quản. Nên bôi thuốc lên các vùng da khô 1-2 lần mỗi ngày, tùy theo tình trạng khô da. Nhưng có một nghịch lý là các chế phẩm giữ ẩm cho da thường có chứa dầu hạnh nhân, dầu lạc, vừng, hạt dẻ… lại có thể gây dị ứng cho da, vì vậy trước khi bôi các loại kem giữ ẩm này, bạn cần test xem nó có phù hợp với da của mình hay không.

Cách dùng thuốc điều trị viêm da dị ứngNhận biết viêm da dị ứng.

Các corticoid bôi da: Nếu viêm da dị ứng nặng, bạn có thể phải sử dụng kem bôi da corticoid. Đây là một trong những loại thuốc chủ chốt để chống viêm da khi bệnh nhân đang ở đợt kịch phát. Các corticoid có tác dụng tại chỗ chống viêm, được chia thành các nhóm: rất mạnh (clobetasol propionat, diprolene), mạnh (betamethasone valerete 0,01%, 0,1%), vừa (hydrocortison 1%, 2,5%; dexamethason 0,1%…). Ở người lớn tuổi thường dùng corticoid nhóm mạnh cho những thương tổn ở toàn thân. Nhóm vừa được chỉ định cho các thương tổn ở mặt và/hoặc những thương tổn diện rộng. Nhóm rất mạnh chỉ được dùng trong thời gian ngắn, trên các mảng thương tổn nhỏ và nhạy cảm với corticoid, để cho tác dụng tức thời và nhanh.

Lưu ý: Corticoid có tác dụng chống tăng sinh làm hạn chế sự tổng hợp collagen và về lâu dài có thể dẫn đến các tác dụng phụ như teo da, giãn mạch, rạn da, rậm lông, giảm sắc tố, bội nhiễm. Tác dụng toàn thân (chủ yếu là với trẻ em) có thể dẫn đến hội chứng dạng Cushing dẫn đến chậm lớn, thậm chí suy thượng thận trong trường hợp ngừng đột ngột sau khi dùng lượng lớn loại corticoid mạnh.

Cần hết sức thận trọng khi dùng corticoid ở mí mắt, do nguy cơ đục thủy tinh thể hoặc glaucome. Thuốc thường bôi ngày một lần cho tới khi đỡ, khoảng 10 ngày. Bôi hai lần mỗi ngày không mang lại hiệu quả hơn là bôi một lần/ngày (trừ trường hợp một số thể eczema lichen hóa) nhưng lại làm tăng nguy cơ tác dụng phụ. Nên bôi vào buổi tối để giữ thuốc tại chỗ được lâu hơn. Khi ngừng sử dụng thuốc, cũng cần tuân theo các sơ đồ giảm dần liều (cách một hay hai ngày bôi một lần rồi mới ngừng hẳn thuốc).

Khi sử dụng corticoid, thuốc có thể ngấm qua da tăng cao nếu da bị thương tổn hở. Với da không thương tổn hở thì cần chú ý tới lượng thuốc ngấm qua da khi bôi thuốc vượt qua 70% diện tích cơ thể.

Nếu những đợt kịch phát viêm vẫn dai dẳng mặc dù đã bôi corticoid thì phải tìm xem có phải là do cách điều trị chưa phù hợp hoặc có khả năng bội nhiễm vi khuẩn.

Do corticoid có nhiều tác dụng phụ bất lợi như vậy, nên các biện pháp dùng thuốc này bạn cần đi khám bởi các bác sĩ chuyên khoa da liễu để được kê đơn và tuân thủ dùng thuốc để vừa đạt được hiệu quả mà lại hạn chế tối đa tác dụng phụ.

Tacrolimus: Đây là một dẫn xuất macrolid được lựa chọn cho trẻ em hoặc người lớn trong những dạng viêm da dị ứng nặng và khi dùng corticoid đúng quy cách mà vẫn không đáp ứng đủ. Thuốc ức chế sự tổng hợp và giải phóng các cytokin gây viêm, không có tác dụng gây teo da, có thể bôi lên các tổn thương ở thân và ở mặt nhưng không được bôi lên các niêm mạc, trên da nhiễm khuẩn hoặc băng kín.

Các tác dụng phụ chủ yếu là bỏng hoặc ngứa, nhất là ở những ngày điều trị đầu tiên và gặp nhiều ở người lớn hơn trẻ em. Khi có dấu hiệu bội nhiễm phải ngừng thuốc ngay và điều trị nhiễm khuẩn trước rồi mới bôi tacrolimus. Nếu có sử dụng bôi thuốc làm dịu và thuốc này phải cách nhau 2 giờ. Hạn chế ra ánh nắng mặt trời trong thời gian điều trị. Do thuốc có thể làm mất tác dụng của vắc-xin nên trong quá trình điều trị mà cần tiêm chủng thì phải cách 14 ngày (trường hợp các vắc-xin sống giảm hoạt lực thì khoảng cách này phải là 28 ngày). Không được tự ý dùng thuốc lại trong trường hợp bệnh tái phát. Chỉ bác sĩ chuyên khoa da liễu hoặc nhi khoa mới được chỉ định nhắc lại việc dùng thuốc sau khi đã thăm khám kỹ. Trong quá trình điều trị cần có sự theo dõi đặc biệt về các tác dụng phụ có thể gặp.

Thuốc dùng đường toàn thân: Ngoài các thuốc bôi ngoài da, một số trường hợp cần phải sử dụng thuốc toàn thân. Trong đó, ciclosporin được dùng để điều trị đối với viêm da dị ứng nặng ở người lớn, sau khi các cách điều trị khác đã thất bại. Ciclosporin dùng trong điều trị ngắn hạn và phải được bác sĩ chuyên khoa chỉ định.

Mặc dù hiện tượng ngứa của viêm da dị ứng không phải chỉ đơn thuần do histamin, nhưng các thuốc kháng histamin có thể giúp bệnh nhân giảm gãi do ngứa. Không nên dùng các kháng histamin nhóm phenothiazin trong thời kỳ ra nắng nhiều do nguy cơ nhạy cảm ánh sáng.

Khi bị bội nhiễm, cần dùng thuốc chống nhiễm khuẩn (nhất là bội nhiễm tụ cầu vàng) trong trường hợp chốc, lở hoặc viêm nang do tụ cầu vàng. Có thể dùng các thuốc sát khuẩn khi tắm sau đó phải tráng kỹ bằng nước sạch. Kháng sinh liệu pháp tại chỗ  cũng có ích trong trường hợp nhiễm khuẩn khu trú nông. Thuốc kháng sinh đường uống được sử dụng nếu có bội nhiễm nặng.

 

Viêm da dị ứng là một bệnh tuy không gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, nhưng lại ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân. Khi điều trị cần kiên trì do bệnh rất dễ tái phát. Đặc biệt khi dùng thuốc không đúng chỉ định thì bệnh không những kéo dài dai dẳng, mà lại còn gặp phải các tác dụng không mong muốn của thuốc. Do vậy, bệnh nhân cần đi khám đúng chuyên khoa và sử dụng thuốc theo đúng phác đồ của bác sĩ.

Rate this post

Viết một bình luận