Cấp cứu nạn nhân bị bỏng

1. Đánh giá mức độ nặng nhẹ của vết bỏng

– Đánh giá mức độ nặng nhẹ của vết bỏng phụ thuộc tác nhân gây bỏng, diện tích, độ sâu của vết bỏng. Tìm hiểu nguyên nhân bị bỏng có thể giúp ta đề phòng một số biến chứng khác nhau có thể xảy ra. Vết bỏng càng lớn, càng sâu thì nguy cơ nhiễm trùng càng cao, dễ bị choáng do mất nước và đau.

– Bỏng nặng:

+ Diện tích bỏng trên 25% diện tích da.

+ Diện tích bỏng sâu trên 10% diện tích da.

+ Bỏng sâu ở đầu, ở bàn tay, bàn chân hoặc tầng sinh môn.

+ Bỏng điện cao thế hoặc hóa chất.

– Bỏng vừa:

+ Diện tích bỏng từ 15 – 25% diện tích da.

+ Diện tích bỏng sâu từ 2 – 10% diện tích da.

+ Bỏng trung bì nông ở đầu, bàn tay, bàn chân.

– Bỏng nhẹ:

+ Diện tích bỏng dưới 15% diện tích da.

+ Diện tích bỏng sâu dưới 2% diện tích da.

– Cơ quan hô hấp rất dễ bị ảnh hưởng và có thể để lại thương tích khi nhiễm phải khói độc, khí nóng hay hóa chất. Các mô xung quanh bị tổn thương và phù nề gây khó thở. Các triệu chứng sau cho thấy đường hô hấp của nạn nhân có thể bị tổn thương:

+ Miệng và mũi bị dính bồ hóng.

+ Lông mũi bị cháy sém.

+ Lưỡi bị sưng đỏ.

+ Da quanh miệng bị sưng đỏ.

+ Giọng nói khàn.

+ Khó thở.

Cho dù nạn nhân bị bỏng do bất cứ nguyên nhân nào, mức độ nặng nhẹ ra sao, nếu đường hô hấp bị tổn thương cần phải đưa nạn nhân đi cấp cứu để điều trị kịp thời.

2. Nguyên nhân gây bỏng

– Bỏng khô: Lửa hoặc tiếp xúc với vật nóng, thuốc lá, ma sát.

– Bỏng nước: Hơi nước nóng, nước nóng hay dầu, mỡ nóng.

– Bỏng điện: Điện hạ thế, điện dân dụng, sự phóng điện cao thế, sét đánh.

– Bỏng lạnh: Kim loại rất lạnh, ni tơ lỏng (-1900C), ôxy lỏng…

– Bỏng do hoá chất: Các hoá chất dùng trong công nghiệp, các loại khí độc, các chất ăn mòn, thuốc tẩy, nhất là các loại xút.

– Bỏng do bức xạ: Bức xạ nhiệt, các đèn tia cực tím mạnh, các nguồn phóng xạ .

3. Độ sâu của vết bỏng

a) Bỏng độ I (Bỏng bề mặt):     

Chỉ bỏng lớp ngoài da, da bị sưng đỏ đau rát như cháy nắng, bỏng nhẹ. Bỏng này thường mau lành, không cần chữa trị đặc biệt.

b) Bỏng độ II (Bỏng một phần da):

Da bị phá huỷ một phần và có nốt phồng rộp. Vết bỏng dạng này thường mau lành. Nếu các nốt phồng rộp vỡ ra dễ bị nhiễm trùng có thể để lại di chứng trên da, trường hợp nặng có thể dẫn đến tử vong.

c) Bỏng độ III (Bỏng toàn bộ các lớp da):

– Tổn thương toàn bộ lớp da và đến lớp cơ có khi thấy lòi xương.

– Vết bỏng dù lớn hay nhỏ chúng cần phải chữa trị ngay, nhiễm trùng phải ghép da.

– Bỏng diện tích lớn rất nguy hiểm đến tính mạng.
 

4. Quy trình sơ cứu một nạn nhân bị bỏng

Mục đích của việc sơ cứu bỏng là làm giảm tổn thương tổ chức và hạn chế thấp nhất tiến triển của vết bỏng bằng sự hạn chế sinh ra các yếu tố trung gian gây viêm.

Bước 1: Nhanh chóng loại bỏ tác nhân gây bỏng theo nguyên tắc cách ly nạn nhân với nguồn nhiệt. Loại trừ tiếp xúc với tác nhân gây bỏng càng sớm càng tốt.

– Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo bằng cách dùng nước hoặc có thể dùng áo, chăn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa;

– Xé bỏ quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh dội vào vùng bỏng;

– Đối với bỏng điện thì phải ngắt ngay nguồn điện hay tách nạn nhân ra khỏi nguồn điện;

– Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng, nhẫn, đồng hồ… trước khi vết bỏng sưng nề.

Bước 2: Nhanh chóng làm mát vùng bị tổn thương, thường dùng nước mát (đây là biện pháp đơn giản, hiệu quả). Thao tác này phải tiến hành ngay sau khi bị bỏng, càng sớm càng tốt, sau 30 phút mới làm thì không hiệu quả.

– Sử dụng nước sạch, nhiệt độ nước tiêu chuẩn là từ 16 ¸ 200C, để ngâm và rửa vùng tổn thương. Tận dụng các nguồn nước sẵn có như nước đun sôi để nguội, nước máy, nước mưa, nước giếng…

– Có thể ngâm, rửa phần bị bỏng dưới vòi nước hay trong chậu nước mát; hoặc dội liên tục nước sạch lên vùng bỏng; hoặc đắp thay đổi bằng khăn ướt. Nếu bỏng hóa chất thì phải phải rửa các hóa chất bằng nước và chất trung hòa.

– Kết hợp vừa ngâm rửa phần bị bỏng, vừa cắt bỏ quần áo bị cháy, rửa sạch dị vật hoặc tác nhân gây bỏng còn bám vào vết bỏng.

– Thời gian ngâm rửa từ 15 ¸ 45 phút (thường cho tới khi hết đau rát), tránh làm vỡ, trượt vòm nốt bỏng.

– Giữ ấm phần cơ thể không bị bỏng, đặc biệt với trẻ em, người già. Khi trời lạnh nên rút ngắn thời gian ngâm đề phòng nhiễm lạnh.

Chú ý:

– Không dùng đá, nước đá lạnh để làm mát vết bỏng.

– Không ngâm toàn bộ cơ thể nạn nhân vào trong nước.

– Không đắp các loại thuốc mỡ, lá cây… vào vùng bị bỏng khi chưa rửa sạch.

– Rửa nước lạnh cũng làm tăng sự mất nhiệt, thân nhiệt tiếp tục giảm, gây sốc nặng thêm. Do vậy, việc dùng nước để rửa hoặc ngâm vết thương cần được kiểm soát chặn chẽ khi diện tích bỏng lớn hơn 15% diện tích cơ thể, nhất là trẻ em và người già.

Bước 3: Phòng chống sốc.

– Đặt nạn nhân ở tư thế nằm;

– Động viên, an ủi nạn nhân;

– Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa.

Chú ý:

– Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác.

– Dung dịch cho uống: Nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn nhân uống:

Pha 1 lít nước:

+ 1/2 thìa cà phê muối ăn;

+ 1/2 thìa cà phê muối Natri Bicarbonat (NaHCO3);

+ 2 ¸ 3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép.

Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc Oreson.

– Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân. Khi dùng thuốc giảm đau, phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.

Bước 4: Duy trì đường hô hấp.

Nạn nhân bị bỏng ở vùng mặt, cổ, nhất là khi bị mắc kẹt trong khu vực có dầu, đồ đạc, bàn ghế… đang bốc cháy, sẽ nhanh chóng bị phù mặt, cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường hợp này phải được ưu tiên số một và phải được chuyển đến bệnh viện ngay. Nhưng trong khi chờ đợi, phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát đường hô hấp (giữ tư thế đúng hoặc có thể đặt một canuyn vào mũi hoặc miệng nạn nhân, có trường hợp phải mở khí quản…).

Bước 5: Phòng chống nhiễm khuẩn.

Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy, khi cấp cứu bỏng phải rất cẩn thận để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn, như:

– Không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp vào vết bỏng.

– Nếu có điều kiện, người cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.

Bước 6: Băng vết bỏng.

– Không được bôi dầu mỡ, dung dịch cồn, kể cả kem kháng sinh vào vết bỏng.

– Không được chọc phá các túi phỏng nước.

– Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng.

– Nếu có điều kiện thì phủ vùng bỏng bằng gạc, vải (loại không có lông tơ) vô khuẩn, nếu không có thì dùng gạc, vải càng sạch càng tốt.

– Vết bỏng sẽ chảy ra nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng. Nếu không có băng co giãn thì chỉ được băng lỏng vùng bỏng để đề phòng vết bỏng sưng nề gây chèn ép.

– Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào một túi nhựa rồi băng lỏng cổ tay, làm như vậy sẽ cho phép nạn nhân vẫn cử động được các ngón tay một cách dễ dàng và tránh làm bẩn vết bỏng.

– Nếu vết bỏng ở cổ tay hoặc cổ chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch, sau đó cho vào một túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bỏng để chống sưng nề các ngón chân, ngón tay và khuyên nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể.

Bước 7: Chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Cần lưu ý và sơ cứu những tổn thương phối hợp (cố định chi gãy; cố định cột sống, cổ nếu nghi ngờ có chấn thương cột sống, cổ…).

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỔNG HỢP

Rate this post

Viết một bình luận