Tiếng
hát đâu mà nghe nhớ thưong
Mái nhì man mác
nước sông Hương.
Tố Hữu
Tôi sống lên ở quê
ngoại, làng Mỹ Cang, phía bắc thành phố Huế chừng 40 cây
số, trên bờ sông Ô Lâu bốn mùa cuộn sóng xuôi dòng, tùy
theo thời tiết khi trong khi đục, phản ảnh mây trời, mưa
nắng. Lớn lên một chút, trường huyện quá xa, anh em chúng
tôi đi vô Huế học, chỉ tết nhất, mùa nghỉ mới về đây
thảnh thơi, vui đùa, gom góp những kỷ niệm êm đềm trước
thời chiến tranh tàn phá quê hương. Nghỉ hè, trời nóng,
chúng tôi đánh trần ngủ ngay ngoài hiên. Có những đêm quá
nóng, lại chuyện trò hào hứng, cũng khó lòng nhắm mắt.
Thế rồi, không biết bắt đầu từ bao giờ, khoảng 2-3 giờ
sáng, một giọng hò vang lên trong đêm thâu. Tiếng hò theo
đò từ xa lại gần rồi lại đi xa, không biết cô lái đò
từ đâu đến và đi về đâu, cơ thể dẻo dai làm sao, mặt
mũi duyên dáng đến mức nào. Chúng tôi chỉ nghe được lời
thổn thức của cô ta, gởi gắm tâm tình vào sông, vào nước.
Biết
đâu là cầu ô thước,
Mênh mông nguyện
ước, dưới nước trên trời.
Đêm khuya ngót
tạnh mù khơi,
Khúc sông quạnh
vắng, có người sầu riêng.
Câu hò xao xuyến,
bay bổng, điệu hò chậm rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng,
da diết trong đêm thâu làm chạnh lòng hơn một người. Và
cứ như thế, ba bốn hôm một lần không có ước hẹn, định
kỳ, chúng tôi lại được thưởng thức một vài câu hò mặn
mà, trữ tình, vô tình kín đáo chia sẻ nỗi lòng của cô
lái đò cô đơn. Lúc đầu chỉ để ý, dần dần từ để
ý chúng tôi trở qua chờ đợi. Rồi có những đêm trăng sáng,
trong cơn gió thoảng, chúng tôi tưởng như có tiếng mái chèo
khua nước, đợt sóng vỗ mạn thuyền, nhưng tiếng hò thì
tuyệt không, thế là mặc sức thao thức không sao ngủ được.
Hết hè, trở lại Huế vào trường học, chúng tôi phải tạm
biệt cô lái đò, tạm quên những câu hò đầy tình cảm,
thương nhớ của cô gái quê không quen, không biết, chỉ gặp
nhau trong không trung, khí quyển, qua gió, mây, sóng, nước.
Người dân xứ
Huế thường dễ rung động với đồng ruộng, sông nước,
rừng rậm, cây ngàn. Vì vậy trong đời sống hằng ngày họ
hay biểu lộ tâm tình qua những câu hò, điệu hát. Riêng câu
hò có cả chục điệu. Trong công việc đồng áng, khi đạp
nước, đạp lúa, học cố quên thời gian với những câu hò
ô thiết tha, trầm bổng. Khi đập đất, đắp nền, họ
trêu chọc nhau với những câu hò hụi lưu loát, linh
hoạt. Khi làm đường, đắp đê, họ khuyến khích nhau qua
điệu
hò nện dồn dập, khẩn trương. Khi kéo bè, kéo
gỗ, họ động viên nhau với những điệu
hò kéo thác
mạnh mẽ, khoẻ khoắn. Khi xay lúa, giã gạo, họ đố đá
nhau qua những câu
hò giã gạo sôi động, hào hùng.
Cây chi
trong rừng không lá,
Cá chi dưới
biển không xương,
Trai nam nhi đối
đặng, gái nữ nhi xin kết nguyền.
Ở nhà, hò ru con là
điệu hò ngọt ngào, êm ái thường ngày mà bà mẹ nào cũng
biết. Đứa con nhỏ nào mà không lớn lên với những bài
học từ thuở dại thơ.
Ru con
con théc cho muồi,
Cho mạ đi chợ
mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ
Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam Phổ,
mua trầu chợ Dinh.
Chợ Dinh bán
áo con trai,
Triều Sơn bán
nón, Mậu Tài bán kim.
Trong số các điệu
hò nầy, hai điệu được phổ biến rộng rãi nhất có lẽ
là hai điệu chèo đò, giống nhau trong câu hát, chỉ khác nhau
chút ít trong cách diễn tả.
Hò mái nhì là điệu hò
nổi tiếng nhất, buông lơi, man mác, thường được nghe trên
dòng sông trầm lặng, độc diễn, nhưng cũng có khi đối đáp
giữa hai người cùng nhau tâm sự, kẻ xướng, người
xô,
gởi lòng vào mây nước trong đêm vắng như hai nhân tình cùng
nhau thỏ thẻ mối tình dưới trăng thanh.
Trai :
Em về ngược
gió xô mưa,
Thuận buồm
xuôi gió biệt mông xa chừng.
Em về anh cũng
muốn về theo
Lên truông cát
nóng lội đèo đá dăm.
Gái :
Cát nóng em đưa
lưng em cõng
Đá dăm em lượm
sạch đường anh đi.
Gần gũi với
hò
mái nhì là hò mái đẩy, rắn rỏi, dồn nén, thường
vang vọng trong khúc sông nước xiết hay ở đầm phá sóng
to, gió lớn, người lái đò phải vững tay cầm chèo, giữ
lái cho nên điệu hò lơ lửng mà dứt khoát, chắc nịch.
Một mình
cả chống cả chèo
Không ai tát
nước đỡ nghèo một phen.
Cách ngân nga của
các điệu hò mái nhì, hò mái đẩy thật là đặc biệt,
nhất là khi do một nghệ sĩ người Huế biểu diễn. Câu hò
bắt đầu với những ò ơ à ơ dài dăng dẳng tưởng như
không khi nào ngớt. Rồi khi câu hò thật sự bắt đầu, mới
được hai chữ lại còn ò ơ à ơ, xem người hò như chần
chừ không muốn đi ngay đến đích để người nghe thưởng
thức tiếng ngân của mình. Khi một người chưa sành, bước
vào hò là thấy hấp tấp như bị chạy đuổi, quên mất ngân
nga. Có lẽ cũng vì cách ngân nga nầy không dễ thực hiện
mà cũng không dễ học nên biết bao người biết hát mà không
biết hò. Ngày nay, như múa rối nước từ ngoài Bắc lên đường
Nam tiến, hát cải lương từ Nam Bộ lấn ven sông Hồng, ca
hò Huế cùng bún bò, bánh bèo,… phân tán khắp đất nước,
vượt biên ra cả nước ngoài. Các ca sĩ buộc phải hát những
bài ba miền nên thính giả được nghe những nghệ sĩ quê
Bắc, quê Nam cũng ca, hò Huế. Ngay ở đoạn ò ơ à ơ là đã
thấy không ổn. Nếu ca trù không thể diễn tả với một
giọng khác giọng miền Bắc, cải lương phải được hát
với giọng Nam. Ai đi xem hát cải lương ở Hà Nội chỉ được
nghe ngâm thơ, sẽ thất vọng không nghe được một câu vọng
cổ là tinh túy của cải lương. Và hò Huế chỉ có thể biểu
diễn với giọng Trung. Khi giả giọng Huế, thường ca sĩ hạ
giọng quá đáng, cho nghe một giọng nếu không vương âm Nghệ
Tĩnh thì cũng lai căng, buồn cười như khi nghe tài tử điện
ảnh Pierre Fresnay trong vai Marius bắt chước giọng Marseillais
! Tôi chưa may mắn gặp được ai học hò mái nhì, hò mái
đẩy qua nốt nhạc mà làm tôi rung động. Trái lại tôi
đã được nghe những nghệ sĩ tuyệt diệu trong số những
người thường hò trong đời sống hằng ngày từ thuở bé
nhỏ, những người không có khi nào lại trường học hò !
Trước thế kỷ
XIV, xứ Huế còn là vùng đất của người Chăm. Theo bước
chân công chúa Huyền Trân, người Việt từ phía ngoài bắc
mới dần dần vào hai châu Ô Rí khai khẩn đất hoang, sống
chung với người bản địa. Theo những nhà chuyên khảo, ca
hò Huế là hệ quả giao lưu giữa văn hoá Champa và văn hóa
Đại Việt. Họ khám phá ra, bên cạnh những điệu nam ai,
nam bằng, một giai điệu lơ lớ tức là hơi nam giọng
ai hay ngũ cung ai của hò mái nhì, mái đẩy
(do, ré non, fa già, sol, la non) là một kết hợp của ngũ
cung đúng miền Bắc (do, ré, fa, sol, la) với
ngũ cung
oán của Champa (do, mi, fa, sol, la). Đặc biệt là kết hợp
nầy chỉ giới hạn ở vùng Bình Trị Thiên, tức là ba tỉnh
Quãng Bình, Quãng Trị, Thừa Thiên, không lan vào miền Nam mà
cũng không tràn ra miền Bắc. Đi xa hơn, các nhà nhạc học
nhận thấy nhạc Champa chịu ảnh hưởng nhạc Ấn Độ mà
âm giai nhạc Ấn Độ lại gần gũi với âm giai pélog
đảo Java ở quần đảo Nam Dương (Indonesia). Giáo sư Trần
Văn Khê đem so sánh thì thấy điệu hò mái đẩy rất
giống điệu pélog có thể nguyên quán từ vùng Ba Tư-Ả
Rập. Đằng khác, một cây đàn đá tiền sử đã được phát
hiện ở Đắc Lắc mà âm giai lại cũng rất gần giống âm
giai pélog. Thì ra âm giai hai điệu
hò mái nhì, mái
đẩy đã có sẵn từ trước ở Cao nguyên miền đất Trung
Việt, chứng minh một sự giao lưu giữa Nam Dương và Việt
Nam. Thảo nào, qua bên ấy, tôi thường được người bản
xứ gọi tôi ” người anh họ phương xa”. Mối giao lưu nầy
còn được mở rộng ra Ấn Độ-Nam Dương-Việt Nam khi tôi
có dịp tham quan và ý thức những điểm tương đồng giữa
ngôi tháp ” Bờ biển ” ở Mahabalipuram miền đông Ấn Độ
và các tháp Chăm ở nước ta. Ưóc mong rồi một ngày nào
những nhà khảo cứu giải thích được tường tận cách thức
những mối giao lưu âm nhạc, nghệ thuật nầy.
Trong lúc chờ đợi,
giao lưu Pháp Việt, trong gần một thế kỷ sống chung và mấy
chục năm chinh chiến, lại lên đường nối tiếp. Riêng đối
với Huế, hai Festival 2000 và 2002 vừa qua đã là dịp để
cho các đoàn văn nghệ Pháp trình bày với công chúng đất
Thần Kinh một mặt văn hóa nào của xứ sở Rousseau và Voltaire.
Ngược lại, những đoàn ca hát Huế, Phú Xuân hay trường
Đại học Mỹ thuật Huế, ban Nhạc Cung đình hay nhóm tụng
kinh niệm Phật của mấy vị tu sĩ cũng đem lại cho thính
giả Pháp những làn điệu xa xăm, có khi lạ thường. Thật
ra, những câu hò Huế đã từng được thưởng thức trên
sân khấu Paris, ngay cả trong vở múa nhạc Khúc cầu nguyện
trong
ấy nghệ sĩ Ea Sola khai thác mặt ảm đạm, u sầu của các
điệu hò mái nhì, mái đẩy thay vì sử dụng điệu
hò
đưa linh thấy như còn não nùng, ai oán hơn, góp phần xoa
dịu khổ đau của những kẻ mất người thân.
Đêm năm
canh ngày sau khắc con ve kêu giục giã,
Con đương mơ
màng sực nghe tiếng mạ kêu.
Muốn tìm mạ
tìm răng được mạ,
Tây phương đất
Phật mạ đi không về.
May thay, gần đây,
hò Huế đã đem lại vui tươi trong một buổi chiều thu ấm
áp ở thị xã Orsay trong thung lũng Chevreuse. Nữ sĩ Tôn Nữ
Hỷ Khương, nhân dẫn đoàn Đào Tấn qua Đức diễn tuồng
Đông Lộ Địch (phỏng theo vở Le Cid của nhà văn hào Pháp
Corneille) của thân phụ, cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, trên
đường về ghé qua Paris thăm bà con, bạn bè. Nhân đó, một
buổi gặp mặt thân mật nhân đó được tổ chức hôm 3.11.2002
ở Phật đường Khuông Việt để nữ sĩ và anh Trần Văn
Khê trình bày tuồng hát bội và những câu hò Huế. Duyên
nợ của tôi và chị Hỷ Khương lùi lại mấy chục năm về
trước, khi tôi được nghe chị hò trong một băng cát xét
từ Sài Gòn gởi qua Paris. Bây giờ đây được nghe chị đích
thân hò, lại có anh Khê đệm đàn tranh, tôi thấy không có
hạnh phúc nào bằng. Chị luôn còn giữ phong cách một tôn
nữ đất Thần kinh. Giọng chị có phần già dặn hơn, tuy
hơi khan những vẫn gợi biết bao nhớ thương, làm nhiều khán
giả phái nữ dụt sùi, ướm lệ. Riêng phần chị cũng xúc
động khi ngâm thơ hay hò những bài của thân phụ mến yêu.
Tiếng đàn tranh đã làm tăng giá trị câu hò nhưng, qua trí
óc tôi, cũng như ngày nay trên các đò du lịch trên sông Hương,
hò có đệm đủ các nhạc khí tranh, nhị, tam, nguyệt, đưa
bài hò qua một hệ thống khác, loại thính phòng, đánh mất
ít nhiều tính hoang vu, thôn dã của câu hò đơn độc trong
đêm vắng trên sông.
Thì ra hò thật
là một loại dân ca rất được truyền tụng ở Huế, một
kho tàng văn nghệ dân gian phong phú. Có thể nói Huế là nơi
tập trung nhiều điệu hò nhất trong một diện tích nhỏ hẹp
miền Trung. Người con dân nào đã sống lên ở Huế mà không
nuôi dưỡng trong lòng một bầu hò đầy kỷ niệm thơ mộng
? Giờ đây, ngồi làm việc ở bàn giấy, tôi luôn có một
dĩa hò nhẹ nhàng cho tỏa ra một bầu không khí ấm cúng quê
nhà, làm dịu bớt nỗi nhớ nhung cả một thời thơ ấu êm
đềm bờ sông Ô Lâu.
Đây quê
mẹ ấp ủ tình thương
Đây xóm làng
bao nỗi vấn vương…
Hắc
Ký Ni Sơntối mồng một năm Quý Mùi
Đoàn Kết 488-489
2003