Dấu Hiệu Của Bệnh Giun Lươn, Cách Trị Bệnh Giun Lươn Hiệu Quả

Khi nhiễm bệnh giun lươn, một số bệnh nhân có tiền sử đau bụng dữ dội, ói, ỉa chảy. Khám thực thể: Sốt, tim đập nhanh, huyết áp tăng nhẹ, bụng trướng căng và đau, giảm nhu động ruột do tắc ruột một phần hay hoàn toàn. Phổi : Viêm phổi, sốt, ho, khó thở, khò khè, đôi khi gây áp-xe phổi, đau đầu, rối loạn thần kinh trung ương.

 

Bệnh giun lươn là gì?

Giun lươn được phát hiện bởi Louis Normand năm 1876 gây rối loạn cơ quan tiêu hóa, đặc trưng là đi tả. những trường hợp đầu tiên gặp ở binh lính nước ngoài ở Đông nam á. Sau nhiều lần được đổi thay tên, từ năm 1911 tới nay tác nhân gây bệnh mang tên hợp nhất là Strongyloides stercoralis. với 52 loài giun lươn khác nhau gây bệnh nhưng chỉ có 2 loài gây bệnh cho người là Strongyloides stercoralis và Strongyloides fuelleborni. S. Fuelleborni hiếm gặp ở người và gặp ở khỉ là chủ yếu. Tuy được phát hiện đã lâu, nhưng đến nay vấn đề về giun lươn vẫn chưa được sáng tỏ.

Hình thể giun lươn Strongyloides như thế nào?

Giun lươn cái hình ống, rất nhỏ, chiều dài 2 – 8mm, chiều ngang khoảng 37 – 40 µm, trong suốt, miệng có hai môi, thực quản hình ống dài khoảng 1 / 4 chiều dài toàn thân. Hệ sinh dục của Strongyloides stercoralis bao gồm tử cung và buồng trứng nằm đối xứng qua lỗ sinh dục ở khoảng giữa thân giun và chủ yếu sống trong lớp dưới màng nhầy niêm mạc ống tiêu hóa người.

Đặc điểm cấu tạo của giun lươn gây bệnh cho con người

Người ta chưa ghi nhận thấy giun đực ký sinh, một số nghiên cứu cho rằng con đực sống ký sinh trong ruột nhưng tỷ lệ rất nhỏ. Phần đông vẫn thiên về giả thiết không có con đực sống ký sinh trong cơ thể người. Con cái trưởng thành sẽ trinh sản. (trinh sản, hay còn gọi là trinh sinh là một hình thức sinh sản mà trứng không thụ tinh phát triển thành cá thể mới)

Trứng giun lươn Strongyloides stercoralis (sống ký sinh) hình bầu dục, kích thước khoảng 54 x 32 µm, vỏ mỏng, trong suốt, giống như trứng giun móc nhưng có chứa sẵn ấu trùng bên trong. Trứng do con giun lươn cái sống tự do đẻ sẽ có kích thước lớn hơn, 70 x 45 µm, vỏ chỉ là một màng mỏng, có thể thay đổi dạng hình tròn sang bầu dục lúc ấu trùng di chuyển bên trong trứng.

Ấu trùng giun lươn ở giai đoạn 1 (rhabditiform – ấu trùng với thực quản phình): Nở ra từ trứng, với kích thước khoảng 200 – 250 x 16 – 20 µm, xoang miệng ngắn, đuôi nhọn, thực quản có eo thắt nên hình dạng phình.

Ấu trùng giun lươn ở giai đoạn 2 (filariform – ấu trùng có thực quản hình ống): có kích thước lớn hơn ấu trùng giai đoan 1. Kích thước đổi thay trong khoảng 400 – 700 µm, ngang 12-20 µm, thực quản hình ống dài khoảng 40% – 45% chiều dài toàn thân. Đuôi tù hoặc chẻ thành hai ở cùng tận như đuôi én.

Con người bị nhiễm bệnh giun lươn như thế nào?

Con người nhiễm bệnh giun lươn do nuốt phải ấu trùng qua đường tiêu hoá, qua da và qua niêm mạc, qua hai chu trình là trực tiếp và gián tiếp

Người bị nhiễm giun luon khi tiếp xúc với đất ô nhiễm phân mang ấu trùng giai giun lươn giai đoạn hai (filariform) sống tự do thâm nhập vào da. Ấu trùng theo con đường máu và di chuyển tới phổi qua hệ tuần hoàn. Ở phổi, ký sinh trùng giun lươn làm xuyên qua mao quản phổi và đi vào phế nang, sau đó chúng di chuyển tới phế quản, khí quản, vào yết hầu, thực quản và được nuốt vào ống tiêu hóa, phát triển thành giun lươn cái trưởng thành.

Chu trình lây nhiễm giun lươn trực tiếp là gì?

Không giống như bệnh sán chó Toxocara. Giun lươn cái trưởng thành sống ký sinh trinh sản, giun bám vào màng nhày ruột non, đẻ trứng. Trứng nở ra ấu trùng giun lươn giai đoạn I ngay tại niêm mạc ruột, rồi theo phân ra ngoài. Sau đó ấu trùng phát triển thành ấu trùng giai đoạn 2 ở ngoại cảnh và xâm nhập da khi người xúc tiếp đất. Gọi là chu trình lây nhiễm giun lươn trực tiếp.

 

Chu trình lây nhiễm và hình thể giun lươn gây bệnh cho người tribenhgiunsan.com.vn

Ấu trùng giun lươn giai đoạn 2 chuyển sang chu trình gián tiếp (đời sống tự do), lột xác bốn lần thành con đực và giun lươn cái trưởng thành sống tự do. Con trưởng thành giao phối và tạo ra các thế hệ ký sinh trùng kế tiếp ở trong ruột non cơ thể người. Sau đó ấu trùng giun lươn giai đoạn 2 xâm nhập vào vách đại tràng hay da vòng quanh hậu môn, hoàn thành chu trình bên trong thân thể người, phát triển thành con đực và loại trưởng thành ở ruột non.

Đây là chu trình nhiễm tự nhiên nhiễm trong cơ thể người, chu trình này xảy ra thường xuyên, liên tiếp, khiến người bệnh luôn luôn bị nhiễm các thế hệ giun lươn trọng cơ thể, khiến bệnh tình kéo dài hang tháng, có khi quanh năm. Ở những người suy giảm miễn dịch, thể tạng yếu, bệnh tình sẽ năng hơn người khỏe mạnh.

Bệnh giun lươn xét nghiệm gì để chẩn đoán?

Xét nghiệm phân ít có giá trị chẩn đoán bệnh giun lươn vì tùy theo vị trí ấu trùng giun lươn ký sinh và giai đoạn của ấu trùng phát triển, không phải lúc nào giun lươn cũng đẻ trứng trong phân và ra ngoài theo phân nên xét nghiệm phân khó phát hiện.

Xét nghiệm bệnh giun lươn bằng phương pháp ELISA OD, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, mang lại kết quả chính xác cao. ELISA chính là phương pháp xét nghiệm miễn dịch huyết thanh học cho kết quả nhanh.

Đặc điểm dịch tễ bệnh giun lươn Strongyloides

Sturchler năm 1981 phân chia tình hình nhiễm giun lươn thành ba vùng :

Nhiễm giun lươn vùng lưu hành nhẹ có tỷ lệ nhiễm < 1%,

Nhiễm giun lươn vùng nội dịch từ 1% – 5% và

Nhiễm giun lươn vùng lưu hành nặng >5%.

Vùng Đông Nam Á trong đó Việt Nam được xếp vào vùng nội dịch.

Tại Việt Nam, các điều tra về Strongyloides stercoralis phát hiện tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh như : Củ Chi, Thủ Đức, Hóc Môn, Long An, Bình Dương, chủ yếu là miền Đông Nam bộ. Những nghiên cứu khảo sát căn bản tại địa bàn Củ Chi TP. HCM bằng kỹ thuật soi trực tiếp đơn giản phát hiện tỷ lệ nhiễm giun lươn dao động từ một,5% đến hơn 3%.

Dấu hiệu lâm sàng bệnh giun lươn là gì?

Phần lớn những trường hợp nhiễm đều có những dấu hiệu triệu chứng nhẹ. Bệnh được chia 2 dạng chính: Bệnh giun lươn mãn tính, không biến chứng: Gặp ở người có miễn dịch tốt. Một số có các biểu hiện đau bụng thoáng qua có tính chất chu kỳ, đôi khi có ấu trùng di chuyển dưới da, vị trí ấu trùng di chuyển thường là ngang thắt lưng hoặc cơ quanh hậu môn. Ngứa da nổi mề đay dị ứng với nhiều hình thái, uống thuốc dị ứng bớt ngứa, hết thuốc ngứa lại. Dấu hiệu này giống như trường hợp nhiễm bệnh giun đũa chó Toxocara.

A,B,C Các hình thái mẩn ngứa da do nhiễm bệnh giun lươn lâu ngày

Kém ăn, ăn không ngon giảm cân nôn và tiêu chảy, ho, viêm phổi, viêm đa khớp, đau cơ; tinh thần thường gặp ở người suy giảm miễn dịch hoặc nhiễm giun lươg lâu ngày không được điều trị

Bệnh giun lươn mạn tính hay tái phát ở những người có sử dụng những loại thuốc như: kháng sinh, kháng acid, corticoids, ức chế miễn dịch. Bệnh hay đi kèm những bệnh lý khác như: Nhiễm khuẩn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, suy thận mạn, bệnh ác tính, teo đường tiêu hóa, suy dinh dưỡng. Bệnh nhiễm giun lươn nặng hay nhẹ tùy thuộc vào mật độ nhiễm và mật độ cơ quan bị ký sinh, kèm nhiễm khuẩn phụ hay không. Nhiễm nặng có thể gây hội chứng giống Sparue: Phân với mỡ, mất đạm qua bệnh trục đường ruột, thiếu albumin trong máu và phù toàn thân. Bệnh nhân than phiền: Đầy hơi, trướng bụng, đi cầu phân rất hôi, phù mặt và mắt cá.

Một số bệnh nhân có tiền sử đau bụng dữ dội, ói, ỉa chảy. Khám thực thể: Sốt, tim đập nhanh, huyết áp tăng nhẹ, bụng trướng căng và đau, giảm nhu động ruột do tắc ruột một phần hay hoàn toàn. Phổi : Viêm phổi, sốt, ho, khó thở, khò khè, đôi khi gây áp-xe phổi, đau đầu, rối loạn thần kinh trung ương: Do sự xâm nhập của ấu trùng thời kỳ 2 (filariform) thường kèm nhiễm khuẩn phụ thứ cấp, đôi khi gây nhiễm màng não hay áp-xe não. Bệnh nhân đau nhức đầu, nôn ói từng cơn. Khám lâm sàng: Sốt, cứng cổ,lơ tơ mơ, dấu thần kinh trung ương tùy thuộc vùng ký sinh trùng xâm nhập.

Giun lươn gây teo ruột hoạt tử

Chọc dò tủy sống cho thấy dịch não tủy tăng bạch cầu đa nhân trung tính, hàm lượng protein tăng, đường giảm, nhiễm vi khuẩn gram âm. Số ít trường hợp có thể thấy ấu trùng trong dịch não tủy. Chụp Cắt lớp vi tính có thể thấy nhiều áp-xe trong nội tạng. Trường hợp nặng, ký sinh trùng với thể tàn phá thân thể mang biến chứng tắc ruột, viêm phổi, viêm màng não và nhiễm trùng huyết…có thể thể dẫn đến tử vong.

Chẩn đoán bệnh giun lương Strongyloides như thế nào?

Dựa vào tam chứng cổ điển : tiêu chảy, đau bụng, nổi mề đay và đặc biệt là hội chứng ấu trùng ngoằn nghèo di chuyển trong da, chú ý ở những bệnh nhân sống trong vùng nội dịch nhiệt đới. Chẩn đoán có thể được gợi ý bởi các xét nghiệm cận lâm sàng không đặc hiệu như X-quang , xét nghiệm bạch cầu ái toan trên 7%, CRP tăng, tốc độ lắng máu cao, IgE trong huyết thanh cao.

Chẩn đoán trực tiếp tìm giun lươn trong phân: Giun thường tìm thấy trong phân, thỉnh thoảng thấy trong dịch khác của cơ thể hay trong mô. Phân : Xét nghiệm phân trực tiếp thường thấy ấu trùng thời kỳ I. Những trường hợp nhiễm nặng có thể thấy cả giun trưởng thành dạng sống tự do trong phân. Đây cũng là điều chưa thể lý giải vì mầm bệnh đang trong cơ thể người nhưng lại là dạng sống tự do. Người bị nhiễm giun lươn khi sinh thiết bao bao tử thường thấy bao tử bị loét.

Ấu trùng giun lươn di chuyển ngoằn ngoèo dưới da lòng bàn chân

Điều bệnh giun lươn ở đâu yên tâm nhất?

Nên trị bệnh giun lươn tại phòng khám chuyên khoa ký sinh trùng. Tại phòng khám ký sinh trùng Ánh Nga điều trị bệnh giun lươn dựa trên nguyên tắc ưu tiên điều trị nguyên gây bệnh, phối hợp điều trị viêm da dị ứng ngứa. Trường hợp nhiễm giun lươn thông thường điều trị 5 tới 7 ngày ổn định, một số ít điều trị 15 ngày, 1 tới 2 đợt. các trường hợp ngứa da dị ứng do giun lươn, trị bệnh giun lươn cũng cùng lúc sẽ ổn định bệnh ngứa lâu ngày.

Phòng bệnh giun lươn như thế nào?

Ăn chín uống sôi, không ăn ra sống và thịt tái sống

Không cho trẻ nghịch đất, đi chân đất, chơi các trò chơi tiếp xúc đất, tránh đi cầu bừa bãi, ở nông thôn sử dụng hố tiêu ủ phân bằng nhiều lớp đất.

 

 

 

Rate this post

Viết một bình luận