(Last Updated On: 27/06/2022)
1. Khái niệm đồng dao
Một số nhà Nho cũ cho rằng đồng dao là những câu sấm nhằm ám chỉ một sự kiện lịch sử nhất định. Họ chịu ảnh hưởng của một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, những người nói rằng trên trời có ông sao Huỳnh Hoặc (sao hỏa), mỗi khi xã hội loài người có biến cố gì thì hoá thành thần Phong Bá mặc áo đỏ xuống trần gian dạy cho trẻ những lời ca liên quan đến biến cố đó. Thực ra đó là quan niệm không có tính khoa học.
“Đồng dao với là những câu hát dân gian có nội dung và hình thức phù hợp với trẻ em, thường được trẻ em hát lúc vui chơi”, đây là quan niệm nhận được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu. Qua cách hiểu này, tính nguyên hợp của thể loại thể hiện rất rõ. Nhắc đến đồng dao là nhắc đến sự gắn bó hô ứng giữa trò chơi và lời hát. Xét về phương diện diễn xướng, đồng dao chỉ gắn với trẻ em. Đồng dao gắn với hoạt động vui chơi của các em, có tác dụng chủ yếu là thoả mãn nhu cầu vui chơi và tập cho trẻ những tri thức để bước vào đời.
2. Đặc điểm
– Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, đồng dao được lưu hành bằng miệng, thể hiện rõ tính tập thể và tính dị bản nhưng tính dị bản của đồng dao có phần phóng túng, tự do hơn ca dao, tục ngữ. Ngôn ngữ, nội dung của các bài đồng dao đôi khi được cải biên cho phù hợp với sinh vật, cảnh quan, ngôn ngữ của từng địa phương. Mặt khác, trong quá trình hát với nhau trẻ đã tự thay đổi một số từ và một số chi tiết của đồng dao. Ví dụ:
Kéo cưa lừa xẻ Ông thợ nào khỏe Về ăn cơm vua Ông thợ nào thua Về bú tí mẹ
(Kéo cưa lừa xẻ Thợ khỏe cơm vua Thợ thua cơm làng Thợ nào dẻo dang Về nhà bú tí)
– Đồng dao có một số câu khó hiểu, đặc biệt là câu mở đầu. Nhiều nhà Nho cho đó là những sấm ngữ. “Thực ra, đi tìm ý nghĩa của những câu này, e cũng giống việc đi tìm chính ngọ lúc 14 giờ mà thôi” (Vũ Ngọc Khánh). Tuy vậy những lời không có nghĩa ấy không phải là không có tác dụng. Đây là những lời dẫn cảm để gây hứng thú cho trẻ. Vẫn có một quy tắc đặt lời dẫn cảm chứ không phải là sáng tác vô ý thức. Đây là cách nói, cách phát âm rất gần với đặc điểm phát âm bập bẹ hoặc bỏ rơi âm tiết lúc trẻ ở giai đoạn tiền ngôn ngữ. Cũng có lúc người ta dựa ngay vào động tác của trò chơi được nói đến trong bài đồng dao, lấy đó làm từ chính và dùng phương pháp cấu tạo từ láy, cấu tạo tiếng đệm để phát triển thành một ngữ. (Trò Dung dăng dung dẻ: chữ dăng trong hành động dăng tay; trò Vu vi vút vút: chữ vút ứng với hành động vung roi).
– Không có đề tài tập trung trong đồng dao trừ những bài người ta có dụng ý tập hợp riêng để giới thiệu như: vè trái cây, vè chim chóc… Các bài hát trẻ em phần lớn chỉ là những đoạn chắp vá, tản mạn, gặp đâu nói đó, cốt cho vần vè. Điều này phù hợp với đặc điểm tư duy ngoại vật thiên về ấn tượng chứ không bằng tư duy lí luận của trẻ.
– Không gian nghệ thuật trong đồng dao luôn là không gian gần gũi, quen thuộc với trẻ. Đồng dao có đời sống diễn xướng gắn bó với hoạt động vui chơi của trẻ thơ. Để đáp ứng tâm lí các em, đồng dao đã tạo ra một thế giới đầy màu sắc, ngập tràn những hình ảnh vui tươi, ngộ nghĩnh về những con vật, đồ vật và cây cỏ thân thương. Một thiên nhiên và cuộc sống xã hội đã mở ra mênh mông trước mắt trẻ từ chính thể loại dân gian còn được gọi là “ca dao thiếu nhi” này.
– Đồng dao thường có kết cấu ngắn gọn, giàu nhạc tính. Nhạc điệu là đặc điểm quan trọng nhất của đồng dao, của những bài hát “vô nghĩa có duyên” này. Chủ yếu tổ chức theo nhịp chẵn, đồng dao đã tạo nên sự đều đặn, nhịp nhàng về tiết tấu. Mặt khác, “về cấu trúc thanh nhạc, đồng dao thuộc gam trưởng, âm giai thánh thót, dễ chắp cánh tâm hồn trẻ thơ bay cao” (8).
– Trong các bài đồng dao hay xuất hiện phép trùng lặp. Ví dụ:
Con vỏi, con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi
Con vỏi, con voi…
Đây là kiểu kết cấu vòng tròn, một kiểu kết cấu có tác dụng tạo ra sự nối vòng cho các bài đồng dao, kéo dài nội dung tác phẩm cho đến khi kết thúc trò chơi, kết thúc lời trêu ghẹo của trẻ nhỏ.
(Nguồn tham khảo: Bùi Thanh Truyền, Giáo trình văn học 1)
5/5 – (1 bình chọn)