ĐỨC PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI LÀ AI? SỰ TÍCH VỀ PHẬT THÍCH CA MÂU NI RA ĐỜI!
Theo lịch sử ghi lại, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài từng sống trên trái đất này, là vị Phật lịch sử và đã sáng lập ra Phật Giáo. Thế nhưng, nhiều Phật tử lại chưa biết rõ về lịch sử Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như không hiểu tại sao Ngài lại có nhiều tên gọi như vậy. Nhiều người còn nhầm lẫn với các vị Phật khác trong Phật giáo.
Thế nhưng nhiều Phật tử vẫn còn thắc mắc nhiều câu hỏi như:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở đâu? Đức Phật Thích Ca ra đời khi nào?
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh vào năm nào hay Phật Thích ca sinh năm bao nhiêu?
Phật Thích Ca tên gì? Đức Phật Thích Ca tuổi gì? Phật Thích Ca Mâu Ni là người nước nào?
Phật Thích Ca mất ở đâu? Phật Thích Ca chết như thế nào? Phật Thích Ca thọ bao nhiêu tuổi?
Đức Phật Thích Ca dạy như thế nào? Ý nghĩa niệm danh hiệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là gì?
Cùng Trần Gia tìm hiểu trong bài viết tổng hợp về lịch sử sự tích Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật dưới đây bạn nhé!
MỜI QUÝ PHẬT TỬ HOAN HỶ CHIÊM NGƯỠNG CÁC MẪU TƯỢNG PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI RẤT ĐẸP:
Đức Phật Thích Ca có thật không? Tìm hiểu về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
1/ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là ai? Nguồn gốc và sự ra đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra ở đâu? Quê hương của Phật Thích Ca?
Phật Thích Ca lúc nhỏ là hoàng tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (sau này là Đức Phật) ra đời tại vườn Lâm-Tỳ-Ny ở thủ đô Ca-Tỳ-La-Vệ của một vương quốc nhỏ ngay dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn của Ấn Độ cổ xưa.
Phật Thích Ca sinh ngày tháng năm nào?
Ngày sinh của Phật Thích Ca Mâu Ni là ngày 8 tháng 4 Âm Lịch năm 624 TCN. Về sau, đại hội Phật Giáo Thế Giới đổi và tổ chức ngày Đại Lễ Phật Đản vào ngày trăng tròn 15-4 Âm Lịch.
Phật Thích ca ra đời như thế nào?
Vào ngày trăng tròn theo lịch Ấn Độ, khi đoàn tuỳ tùng hộ tống hoàng hậu Ma Da đi ngang vườn Lâm Tỳ Ny, khí trời thoáng mát, gió hiu hiu, hoàng hậu hạ lệnh dừng kiệu nghỉ chân và Phật Thích Ca đản sanh tại đây.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ai?
Cha của Ngài là vua của bộ tộc Thích Ca (Skakya). Mười hai năm trước khi ra đời, các tu sĩ Ấn Giáo đã tiên tri rằng Ngài sẽ là một vị vua vĩ đại hoặc sẽ trở thành một nhà hiền triết lừng danh của thế giới loài người.
Vì không muốn Phật Thích Ca trở thành tu sĩ, cha của Ngài đã giữ Ngài bên trong cung điện.
Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên trong sự xa hoa của một bậc vua chúa, không được phép nhìn thấy thế giới bên ngoài, được các vũ nữ giúp vui, và được các tu sĩ Bà La Môn dạy học.
Thái tử còn học cưỡi ngựa, bắn cung, đánh kiếm, đánh vật, bơi lội… Khi đến tuổi trưởng thành, Thái tử thành hôn với công chúa Gia Du Đà La và có một con trai.
Ngày nay chúng ta có thể nói là Ngài là người có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng Ngài cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, và chính điều đó đã lôi kéo Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật ra khỏi những bức tường của cung điện.
Ở ngoài đó, trên những đường phố của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã trông thấy ba cảnh tượng thông thường nhất đối với mọi người khác: một người bị bệnh, một người già yếu, và một xác chết đang được người ta đưa đi hỏa thiêu.
Ngài chưa bao giờ được sửa soạn để chứng kiến những cảnh bi thảm như thế này, cho đến khi người đánh xe nói với Ngài rằng tất cả mọi người đều phải chịu sự già yếu, bệnh tật và chết chóc.
Ngài cảm thấy mình không thể nào an tâm sống trong sự xa hoa như trước nữa.
Trên đường trở về cung điện, Ngài trông thấy một tu sĩ đang bước đi một cách thong dong trên đường phố, và Phật Thích Ca đã quyết định tầm đạo, rời khỏi cung điện để đi tìm giải pháp cho vấn đề đau khổ của cuộc đời.
Trong đêm khuya Ngài lặng lẽ từ giã vợ con mà không đánh thức họ, rồi phi ngựa đến một khu rừng, nơi đó Ngài đã dùng gươm cắt tóc và thay bộ trang phục vua chúa bằng một chiếc áo tu sĩ đơn sơ. Đó là năm Ngài 29 tuổi, (595 BC).
Với hành vi này Thái tử Tất Đạt Đa đã gia nhập vào hạng người từ bỏ xã hội Ấn Độ để tìm giải thoát.
Thái tử đã tìm đến học hỏi với nhiều vị thầy khác nhau, từ những vị theo chủ nghĩa duy vật, cho đến những người theo chủ nghĩa lý tưởng và phái ngụy biện.
Từ rừng núi đến thị thành, đâu đâu cũng sôi nổi với những cuộc tranh luận và triết lý. Sau cùng Thái tử đã theo học hai vị Thầy nổi tiếng, vị thứ nhất là Đạo Sư Alara-Kalama, thuộc phái Samkhya (phái Số luận), đang có ba trăm đệ tử theo tu học.
Với vị này, Thái tử đã học và đắc ngũ thần thông, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ.
Nhưng sau đó dù Đạo Sư Arada Kalama mời Ngài ở lại để dạy đạo như một người đồng đẳng với ông, nhưng Ngài thấy đây không phải là pháp giải thoát tối hậu, nên Ngài đã ra đi.
Ngài đến học với vị thầy thứ hai là Đạo Sư Uddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất), người đang có 700 đệ tử theo học. Sau vài ngày tu học, Ngài đã chứng được tầng thiền Phi tưởng phi tưởng.
Nhưng đây không phải là con đường giải thoát sinh tử khổ đau, và Tất Đạt Đa cũng đã quyết định từ giả vị thầy này.
Trong sáu năm, Thái tử Tất Đạt Đa cùng với năm người bạn Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh và thiền định, chỉ ăn một hạt cơm mỗi ngày, lấy tâm trí thi đua với thể xác, và chỉ còn da bọc xương.
Khi Ngài quyết định dùng nhiều thực phẩm hơn và không áp dụng pháp tu khổ hạnh nữa, năm người bạn kia đã từ bỏ Ngài.
Ngài đến một ngôi làng để khất thực, ở đó một cô gái tên là Sujata mời Ngài dùng một bát cháo sữa với mật ong.
Khi sức khỏe phục hồi, Ngài xuống tắm dưới sông Nairanjana (Ni Liên Thiền) rồi Phật Thích Ca ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề, trên một tấm tọa cụ làm bằng cỏ kusha.
Ngài ngồi đó sau khi đã nghe tất cả các vị thầy, học tất cả những kinh sách và thực hành tất cả pháp môn, bây giờ không có gì vướng bận, không có ai để nương tựa, không có nơi nào để đi nữa.
Ngài thiền tọa bất động và cương quyết như một quả núi, cho đến bảy ngày sau, Ngài mở mắt ra, trông thấy sao mai vừa mọc trên bầu trời và Ngài hiểu ra rằng mình đã tìm ra cái chưa bao giờ mất, dù là đối với Ngài hay bất cứ một người nào khác trên thế gian này.
Vì vậy không có gì để chứng đắc, không có gì để tìm kiếm nữa.
Ngài nói: “Điều kỳ diệu nhất là sự giác ngộ này vốn là chân tánh của chúng sanh, nhưng họ lại không an lạc vì thiếu nó”. Vậy Thái Tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ vào năm ba mươi lăm tuổi (589 BC) và trở thành một vị Phật, tức đấng giác ngộ, được tôn vinh là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), tức là nhà hiền triết thuộc bộ tộc Thích Ca.
Trong bảy tuần lễ sau đó, Phật Thích Ca giác ngộ, thọ hưởng pháp lạc tự tại giải thoát của chính mình.
Lúc đầu Ngài không có ý định nói về sự chứng ngộ của mình, vì Ngài thấy đây là điều khó hiểu đối với phần lớn loài người, nhưng khi Phạm Thiên (Brahma), vị vua của ba ngàn thế giới, thỉnh cầu Phật Thích Ca kể chuyện thuyết pháp, vì cũng có những người: “mắt chỉ bị mờ một chút mà thôi”. Đức Thế Tôn đã chấp thuận.
Hai vị thầy của Đức Phật, Udaka và Ramaputra đều đã qua đời trước đó mấy ngày, vì vậy Ngài đi tìm năm người bạn đồng tu khổ hạnh mà trước kia đã rời bỏ mình. Khi thấy Ngài đi tới Vườn Nai ở thành Ba La Nại (Benares), họ làm lơ với Ngài, vì Ngài đã không tiếp tục thực hành khổ hạnh với họ.
Nhưng rồi họ thấy có một cái gì tỏa sáng trong sự hiện diện của Ngài, họ đứng lên, sửa soạn chỗ ngồi và lấy nước cho Ngài rửa chân, rồi ngồi xuống nghe Phật Thích Ca giảng đạo.
Đó là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, Đức Phật đã nói bài pháp Tứ Diệu Đế cho các vị này.
Trong Tứ Diệu Đế của Đức Phật, chân lý thứ nhất, Khổ đế, nói rằng bản chất của cuộc đời này là đau khổ và không thỏa mãn, ngay cả những lúc hạnh phúc cũng có mầm móng của khổ đau nếu chúng ta bám giữ vào chúng, hay khi chúng đã đi vào ký ức, chúng vẫn bóp méo hiện tại vì tâm trí của chúng ta cố gắng dựng lại quá khứ một cách tuyệt vọng.
Lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dựa trên sự quan sát trực tiếp đời sống, và là lời phê bình cấp tiến đối với lối suy nghĩ mơ mộng cũng như vô số những lối thoát ly, như chủ nghĩa không tưởng chính trị, môn tâm lý trị liệu, chủ nghĩa hưởng lạc, hay thuyết cứu rỗi hữu thần của thần bí học, đây là điểm chính yếu phân biệt giữa Phật giáo với đa số những tôn giáo khác trên thế giới.
Khổ là chân lý thứ nhất và là nền móng để hiểu một cách trọn vẹn chứ không phải để trốn tránh hay để giải thích.
Kinh nghiêm về sự khổ, về sự hoạt động của tâm trí, đưa đến chân lý thứ hai là nguyên nhân của Khổ (Tập Đế), thường được mô tả là tham muốn lạc thú, nhưng cũng được giải thích một cách căn bản hơn là bám giữ vào sự sống hoặc sự không hiện hữu, tức chấp có và chấp không.
Việc nghiên cứu tính chất của sự tham muốn này dẫn đến tâm điểm của chân lý thứ hai, đó là ý tưởng tự ngã hay cái ta, với tất cả những điều mong cầu và những điều lo sợ của nó, và chỉ khi nào hiểu đúng về tự ngã này và thấy nó không có tự tính, không có thật một cách vĩnh cữu), thì mới có thể hiểu chân lý thứ ba, sự diệt khổ (Diệt Đế).
Năm tu sĩ nghe lời Phật Thích ca dạy ở Vườn Nai trở thành hạt nhân của cộng đồng các tu sĩ Phật giáo, tức là Tăng đoàn (Sangha), là những người đi theo con đường mà Đức Phật đã trình bày trong chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự diệt khổ (Đạo Đế), đó là Bát Chánh Đạo, chân chánh trong tám phương diện: ý kiến, ý nghĩ, lời nói, hành vi, nghề nghiệp, nỗ lực, ý thức và thiền định.
Các tu sĩ Phật giáo, tức Tỳ kheo (Bikkhu), sống rất đơn giản, chỉ có một bình bát, một cái áo, một cây kim, một cái lọc nước, một con dao cạo đầu, đó là dấu hiệu của sự ly gia cắt ái. Họ đi khắp miền đông bắc Ấn Độ, hành thiền một mình hay trong những nhóm nhỏ và khất thực.
Tuy nhiên triết lý của Phật Thích Ca không chỉ dành cho đoàn thể các tu sĩ, Ngài đã dạy họ truyền bá giáo lý cho mọi người “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường, đi khắp nơi vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người”.
Trong bốn mươi lăm năm, Đức Phật đã đi qua những thôn làng và những thành phố của Ấn Độ, nói bằng ngôn ngữ phổ thông, dùng những lối nói giản dị mà ai cũng có thể hiểu.
Phật Thích Ca có bao nhiêu đệ tử?
Ngài có 10 vị đại đệ tử mệnh danh là Thập Đại Đệ Tử, mỗi vị đều có sở chứng, đạo hạnh và sở trường riêng:
- Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputra – Sariputa) : Trí tuệ đệ nhất.
- Tôn giả Mục Kiền Liên (Maudgalyayana – Moggallana): Thần thông đệ nhất.
- Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa-Mahakassapa): Đầu đà đệ nhất.
- Tôn giả A Nâu Đà La (Aniruddha – Anurauddha): Thiên nhãn đệ nhất.
- Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhuti): Giải không đệ nhất.
- Tôn giả Phú Lâu Na ( Purna – Punna): Thuyết pháp đệ nhất.
- Tôn giả Ca Chiên Diên (Katyayana – Kaccayana, Kaccana): Luận nghị đệ nhất.
- Tôn giả Ưu Ba Ly ( Upali): Trì giới đệ nhất.
- Tôn giả Anan ( Ananda): Đa Văn đệ nhất.
- Tôn giả La Hầu La (Rahula): Mật hạnh đệ nhất.
Ngài dạy dân làng thực hành chánh niệm trong khi kéo nước giếng, và khi một bà mẹ đau khổ ôm xác một đứa con đến xin Ngài cứu cho nó sống lại, Ngài đã không làm một phép lạ mà bảo bà ta mang về cho Ngài một nắm hạt cải của một nhà nào đó không có ai chết trước đó.
Sau khi đi tìm, bà ta trở về tay không, nhưng hiểu ra một sự thật rằng cái chết đến với tất cả mọi người.
Khi được nghe nói đến Đức Phật, từ phú gia đến các bậc vua chúa đều phát tâm cúng dường những khu vườn ngự uyển để xây dựng tinh xá. Đức Phật tiếp nhận những khu vườn này, nhưng Ngài vẫn tiếp tục sống như mình đã từng sống từ năm hai mươi chín tuổi: một tu sĩ khất thực và thiền định dưới gốc cây.
Bây giờ chỉ có một điều khác là gần như mỗi ngày sau khi thọ trai vào giữa trưa Ngài thuyết pháp. Không có một bài pháp nào được ghi chép lại trong khi Ngài còn tại thế.
Tại sao Phật Thích Ca chết? Phật Thích Ca nhập Niết Bàn ở đâu? Phật Thích Ca thọ bao nhiêu tuổi?
Năm 544 (Trước Tây lịch), Đức Phật nhập Niết Bàn tại thành Câu Thi Na (Kusinagar) ở tuổi 80 sau khi ăn một bữa ăn có nấm.
Trong số những người tu tập bên cạnh Đức Phật có những người đau buồn. Đức Phật Thích ca nằm giữa hai cây Sala, đầu hướng về phương bắc, mình nghiêng về bên phải, bàn tay phải để ngửa lót dưới mặt, tay trái để xuôi trên hông trái, chân trái nằm dài trên chân phải, hơi thở nhẹ nhàng đều đặn.
Ngài nhắc với các đệ tử rằng mọi vật đều vô thường và khuyên họ hãy nương tựa vào chính mình và vào giáo pháp.
Ngài hỏi có ai muốn hỏi điều gì lần cuối cùng thì hỏi. Sau đó Ngài nói lời di chúc cuối cùng: “Này các đệ tử, hãy nghe Như Lai nói đây: Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các thầy hãy tinh tấn lên để đạt tới giải thoát”.
Xá Lợi Phật Thích Ca Mâu Ni sau đó được chia đều thành 8 phần cho 8 vương quốc thuộc Ấn Độ cổ đại.
Vào mùa mưa đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt, năm trăm đệ tử Tỳ kheo hội họp tại một hang núi gần thành Vương Xá để ôn tụng lại những lời dạy của Ngài.
Tại cuộc kiết tập Kinh Điển lần thứ nhất này, Tôn giả A Nan, vốn là thị giả của Đức Phật, được mời nói lại tất cả những lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni mà mình đã nghe.
Tôn giả Ưu Ba Ly ôn tụng lại các giới điều của tu sĩ, còn Ngài Đại Ca Diếp thì nhắc lại Luận Tạng, gồm những điều nói về tâm lý và siêu hình học Phật Giáo.
Ba loại sưu tập này được viết trên lá bối vài thế kỷ sau đó và được gọi là “Tripitaka” tức là Tam Tạng Kinh Điển ( kinh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) đã trở thành những giáo lý cốt lõi cho tất cả những giáo điển nhà Phật ngày nay.
(Theo dịch giả Thích Nguyên Tạng)
MỜI QUÝ PHẬT TỬ HOAN HỶ CHIÊM NGƯỠNG CÁC MẪU TƯỢNG PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI RẤT ĐẸP:
2/ Ngoại hình và chân dung Phật Thích Ca Mâu Ni:
Có nhiều miêu tả về ngoại hình của Tất-đạt-đa trong các kinh điển Phật giáo. Là một vị hoàng tử có đầy đủ 32 tướng tốt, ông đã được tập huấn, rèn luyện sức mạnh, được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ.
Từ năm 13 tuổi ông được truyền thụ võ nghệ và có sở trường bắn cung. Từ lúc trước khi ra đi tìm đạo, ông đã là người có cơ thể cường tráng, phi phàm hơn người.
Một người Bà la môn Sonadanda miêu tả ngoại hình và chân dung Phật Thích Ca Mâu Ni là “đẹp trai, ưa nhìn, cùng với một làn da rất đẹp. Ông ta có vẻ ngoài thần thái và oai nghiêm…” Ông đẹp đẽ, xinh tươi, dễ nhìn, một hình sắc tốt đẹp nhất, hình thể và nét trang nghiêm của ông như Brahma (Phạm Thiên), ngoại hình của Ông đẹp đẽ (Digha Nikaya, Kinh số 4).
Ông đẹp đẽ, gây được niềm tin, với ý thức điềm tĩnh và tâm trí thanh tịnh, trầm tĩnh và tự chủ, như một con voi được thuần phục một cách hoàn hảo (Anguttara Nikaya, Kinh số 36).
Có những đệ tử của ông đang trong quá trình tu tập chưa trở thành A la hán, bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của ông, nhưng đã được ông khuyên chấm dứt việc đó, và nhắc nhở rằng không nên nhìn ông bằng hình tướng bên ngoài, mà nên nhìn vào giáo pháp của ông truyền dạy thì mới thấy được một Như Lai chân thật.
Trong kinh Kim cang có bài kệ: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”, tức là nếu dùng sắc thấy Ta, dùng âm thanh cầu Ta, người đó hành đạo tà, không thể thấy Như Lai.
Không có một tác phẩm, văn bản nào miêu tả rõ ngoại hình Tất-đạt-đa Cồ-đàm dưới dạng con người cho đến khoảng thế kỷ thứ I TCN, sau thời gian đó thì mới bắt đầu có những mô tả về hình dáng được cho là của ông trong Kinh Lakkhaṇa Sutta.
Ngoài ra, Yasodhara mô tả sơ lược hình dáng của Tất-đạt-đa Cồ-đàm sau khi ông lần đầu tiên trở lại cung điện của mình trong kinh điển Pali, Narasīha Gāthā. Trong 32 tướng tốt, người ta nói ông có đôi mắt xanh biếc.
Sau này, có nhiều bộ phim về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Ấn Độ được dựng nên nhằm tri ân Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật.
3/ Danh hiệu Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là gì? Ý nghĩa tên của Phật Thích Ca Mâu Ni là gì?
Tên gọi: “Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni) có tên gốc (tên thế tục) là Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa (Gotama Siddhāttha).
Kiều Đạt Ma là họ tộc. Ở Ấn Độ cổ, họ tộc truyền thống là theo họ tộc mẫu hệ. Kiều Đạt Ma là dòng họ thế tục của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ.
Trong tiếng Phạn, Kiều Đạt Ma có nghĩa là hiền lành, tốt đẹp. Tất Đạt Đa là tên. Trong tiếng Phạn nó có nghĩa là sự may mắn, cát tường, mang hàm nghĩa là “thành tựu hết thảy”, “hoàn thành trọn vẹn”.
Tên gọi: “Thích Ca Mâu Ni”. Phật Thích Ca Mâu Ni trong tiếng anh là gì?
Phật Thích Ca Mâu Ni trong tiếng anh là Gautama Buddha . Vậy danh hiệu Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là gì?
Thế nhân tôn ngài là “Thích Ca Mâu Ni”, trong đó “Thích Ca” là bộ tộc của ngài. Trong tiếng Phạn, “Thích Ca” có ý tứ là “văn võ song toàn”. “Mâu Ni” là cách gọi tôn kính của người Ấn Độ cổ đại đối với các bậc Thánh nhân, có hàm ý chỉ “người cạo đầu xuất gia đã tu hành thành công”.
Cả tên “Thích Ca Mâu Ni” trong tiếng Phạn có ý chỉ “người cạo đầu xuất gia đã tu hành thành công là người tộc Thích Ca”.
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo, được các Phật tử xưng là Phật, Thế tôn, Phật Đà có ý chỉ người đã thông qua tu luyện mà giác ngộ.
Thích Ca nghĩa là nhân từ. Đức Phật dạy chúng ta bài học về nhân từ, dạy dỗ chúng ta đối đãi người khác phải có lòng yêu thương, phải có tâm từ bi, đại từ đại bi đối đãi hết thảy chúng sanh. Do đó, nếu bạn là một Phật tử, hãy sống và đừng quên những lời dạy của ngài.
Niệm danh hiệu Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Người Phật tử thường niệm danh hiệu Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật bằng câu ” nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” hoặc ” nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni”. Giải thích danh hiệu như sau:
Nam Mô có ý nghĩa: quy y, kính lễ, phụng thờ, cứu ngã, quy mạng, độ ngã.
Bổn Sư nghĩa là cội nguồn, căn nguyên, đầu tiên.
Thích Ca nghĩa là Năng Nhơn: năng lực, nhân từ, từ bi.
Mâu Ni nghĩa là Tịch Mặc: thanh tịnh, không bị phiền não, khổ vui không động tâm.
Phật nghĩa là Giác hoặc Trị, tiếng Phạn là Buddha.
4/ Ngày vía Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngày vía Phật trong nhà Phật thường là ngày Phật Đản Sanh, ngày Phật xuất gia, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết Bàn.
Ngày vía Đức Phật Thích Ca Đản Sanh 8/4 ( Âm lịch theo Bắc Tông) và 15/4 ( Âm lịch theo Nam Tông).
Ngày vía Đức Phật Thích Ca xuất gia 8/2 ( Âm lịch).
Phật Thích Ca thành đạo ngày ngào?
Ngày vía Đức Phật Thích Ca thành đạo 8/12 ( Âm lịch)
Ngày vía Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn 15/2 ( Âm lịch)
5/ Ý nghĩa thờ Phật Thích Ca Mâu Ni!
Nhiều Phật tử lập bàn thờ Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu tại nhà để để hàng ngày được chiêm ngắm một tấm gương sáng suốt trọn lành, tưởng nhớ công đức của Ngài mà dốc lòng học theo giáo lý và lãnh ngộ được ngọn đèn trí tuệ của Ngài.
Mỗi khi nhìn vào tranh tượng Phật Bổn Sư Thích Ca , tâm hồn người Phật tử lại hướng thiện hơn, hết lòng sửa đổi bản thân, tích cực hành thiện, tham lành tránh dữ, sống có ích cho xã hội , tốt đời đẹp đạo.
Thờ Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đừng mong Ngài ban phước trừ hoạ, hay nương nhờ Ngài mà làm những điều bất chính, bất lương thì không khác gì phỉ báng Ngài.
Đặt tượng Phật Bổn Sư Thích Ca trong nhà giúp gia chủ luôn có cảm giác bình yên, họ mong mỏi được Đức Phật phù trợ, chở che gia đạo luôn yên ấm, mọi người tích cực sống hướng thiện, tránh xa việc xấu.
MỜI QUÝ PHẬT TỬ HOAN HỶ CHIÊM NGƯỠNG CÁC MẪU TƯỢNG PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI RẤT ĐẸP: