Giải đáp thắc mắc: An Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là gì? – Eduboston

An Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là gì? Hiện là một trong những thắc mắc của rất nhiều người. Nếu bạn cũng đang cần tìm hiểu vấn đề này, hãy theo dòng lịch sử với Eduboston để tìm thấy đáp án. Qua đó, biết được quốc hiệu của đất nước theo từng đời vua dựng nước. 

An Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là gì?

Ngược dòng lịch sử, đáp án cho câu hỏi An Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là gì thì đó là Âu Lạc. Quốc hiệu này tồn tại trong quãng thời gian 50 năm kể từ 257 trước CN đến 207 trước CN. 

An Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là Âu LạcAn Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là Âu Lạc

Sau khi đánh bại vua Hùng thứ 18 của Văn Lang, Thục Phán là vua An Dương Vương lúc bấy giờ đã tiến hành sáp nhập lãnh thổ của Lạc Việt và lãnh thổ của bộ tộc mình (Âu Việt) thành một. Từ đó hình thành nên nhà nước mới đầu tiên và đặt tên là Âu Lạc với ý nghĩa đoàn kết, thống nhất một thể. Có thể nói, đây là nhà nước có thật đầu tiên và rõ ràng của người Việt cổ được thành lập tại Miền Bắc nước ta khi vua An Dương Vương lên ngôi.  

Quốc hiệu của Việt Nam qua lịch sử dựng nước

Lịch sử dân tộc Việt Nam vô cùng hào hùng với bề dày lịch sử lên đến 4000 năm gìn giữ và xây dựng. Cùng điểm danh các quốc hiệu nước ta theo dòng lịch sử dựng nước. Cụ thể đó là:

Văn Lang – Thời vua Hùng

Quốc hiệu đầu tiên của nước ta là Văn Lang ở thời vua Hùng. Ở thời bấy giờ, có khoảng 15 bộ lạc sinh sống ở khu vực đồng bằng và trung du Bắc bộ. Trong đó, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh nhất và người thủ lĩnh đứng đầu đã thống nhất 15 bộ lạc và dựng lên Nhà nước Văn Lang. 

Văn Lang là quốc hiệu Thời vua HùngVăn Lang là quốc hiệu Thời vua Hùng

Ông xưng vua và lấy niên hiệu là Hùng Vương, đặt kinh đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ hiện nay). Đồng thời đặt quốc hiệu Văn Lang với ý nghĩa cội nguồn văn hóa luôn luôn lan tỏa, mãi mãi trường tồn. 

Âu Lạc – Thời vua An Dương Vương

Âu Lạc là tên quốc hiệu thời vua An Dương như đã đề cập ở trên. Tên gọi mang ý nghĩa đoàn kết, gắn bó sau khi Thục Phán thống nhất đất nước và lên ngôi vua. Dấu tích nhà nước Âu Lạc để lại cho dân tộc ta là hệ thống thành Cổ Loa và hàng vạn mũi tên đồng được khai quát ở gần thành cổ.

Vạn Xuân – Quốc hiệu thời tiền Lý và nhà Ngô

Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa và đánh đuổi thành công quân Lương. Từ đó giúp giải phóng đất nước và khi ông lên ngôi Hoàng đến đã lấy niên hiệu là Lý Nam Đế. Để kỷ niệm chiến thắng cũng như ăn mừng dân tộc tự do ông đã đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Tên gọi thể hiện ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa xuân.

Đại Cồ Việt – Tên nước ta thời nhà Đinh

Đại Cồ Việt là tên quốc hiệu nước ta dưới thời nhà Đinh khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân. Ông thống nhất đất nước vào năm 968 và lên ngôi vua đồng thời đổi quốc hiệu thành Đại Cồ Việt với ý nghĩa nước Việt lớn.

Đại Cồ Việt – Tên nước ta thời nhà ĐinhĐại Cồ Việt – Tên nước ta thời nhà Đinh

Đại Việt – Quốc hiệu thời nhà Lý, nhà Trần

Vào năm 1054, vua Lý Thái Tông nhân niềm vui lớn khi phát hiện một ngôi sao lớn phát sáng nhưng nhiều ngày mới tắt nên đã liền đổi tên quốc hiệu thành Đại Việt. Tên gọi này có ý nghĩa tương tự như Đại Cồ Việt nhưng vắn tắt và dễ nhớ hơn. 

Đại Ngu – Tên nước ta thời nhà Hồ

Năm 1400, Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ đổi quốc hiệu nước ta thành Đại Ngu. Theo sử sách ghi chép “Ngu theo tiếng cổ có nghĩa là sự yên vui”. Tuy nhiên, tên gọi này kéo dài không bao lâu và sau đó bị đổi thành Đại Việt khi giặc Minh đánh bại triều Hồ vào tháng 4/1407. Và quốc hiệu Đại Việt kéo dài lên đến 748 năm từ năm 1054-1804 và trải qua rất nhiều đời gồm nhà Lý, Trần, Hậu Lê và Tây Sơn.

Việt Nam – Tên nước ta thời Nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua đồng thời đổi tên nước thành Việt Nam. Tên gọi ra đời nhằm phân biệt người Việt ở phương Nam với các dân tộc của những quốc gia thuộc phương Bắc.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Quốc hiệu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975)

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vào ngày 02/09/1945 khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập. Sự kiện này đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta và nó thể hiện bản chất, mục đích của nhà nước cầm quyền lúc bấy giờ. Đó là nhà nước của sự dân chủ, tự do, công bằng cho tất cả mọi người.

Ngày 02/09/1945 Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh Việt Nam Dân chủ Cộng hòaNgày 02/09/1945 Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam –  Quốc hiệu từ năm 1976 đến nay

Đất nước hoàn toàn được thống nhất khi miền Nam giải phóng vào năm 1975. Sau đó, trong kỳ họp Quốc hội đầu tiên, toàn thể Quốc hội đã nhất trí đổi tên quốc hiệu thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu mới này có ý nghĩa tương tự như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nó gắn liền với thể chế chính trị và thể hiện mục tiêu tiêu vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn.

An Dương Vương đặt quốc hiệu nước ta là gì, chắc hẳn với những thông tin trên thắc mắc đã được giải đáp. Hy vọng bài viết chia sẻ hôm nay là hữu ích dành cho các bạn.

Rate this post

Viết một bình luận