Giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội hiện nay
1. Nhận thức về kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội.
Nền kinh tế thị trường (và nói chung mọi nền kinh tế) đều có 2 mặt: tích cực và tiêu cực. Cạnh tranh là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động sáng tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Song cạnh tranh cũng làm xuất hiện những thứ không lành mạnh như chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tính cơ hội và nói chung là thói ích kỷ, sự xấu xa vốn là mặt trái trong bản năng của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận xét: “mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng”. Mâu thuẫn và xung đột xã hội cũng từ đây mà ra. Mọi mâu thuẫn xã hội đều có nguồn gốc từ mâu thuẫn giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng, tầng lớp, giai cấp, quốc gia mà ra. Theo “Từ điển sơ lược xã hội học”, xung đột xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất của mâu thuẫn trong hệ thống các quan hệ giữa con người, các tập đoàn xã hội, các thiết chế xã hội, xã hội nói chung; được đặc trưng bằng sự đẩy mạnh các khuynh hướng và lợi ích đối lập nhau giữa các cộng đồng xã hội và các cá nhân với nhau.
Nhiều mâu thuẫn và xung đột hôm nay còn là sự tích tụ của mâu thuẫn và xung đột trước đây, là kết quả của việc xử lý các mâu thuẫn và xung đột trước đây. Xung đột xã hội là một hiện tượng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử và sẽ còn tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Xung đột xã hội một mặt là hiện tượng khách quan, tất yếu, mặt khác là kết quả của hoạt động có chủ đích của con người. Do đó, vấn đề là phải thấy được quá trình vận động và sự đấu tranh của 2 mặt thiện ác, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai và quan trọng hơn là phải làm cho cái tốt, cái đúng được thắng thế, được phát huy, được đơm hoa kết trái.
Quá trình phát triển luôn có sự chuyển đổi các giá trị đạo đức và mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật và điều này đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý phát triển xã hội. Hê ghen nói: “đạo đức là hình thái cao nhất trong sự phát triển của ý niệm pháp lý”. Do đó, khi nói đến kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội thì không thể không bàn đến mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa đạo đức và pháp luật. Ở đây xuất hiện 2 câu hỏi (1) đạo đức bàn ở đây là đạo đức nào và (2) pháp luật là phục vụ ai. Để kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội nhất thiết phải có các bộ công cụ mà trước hết là các chuẩn mực và quy phạm; cần có hệ thống kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội vận hành với các thiết chế phù hợp và con người đủ năng lực (thể lực, trí lực và tâm lực). Việc giải quyết mâu thuẫn và xung đột xã hội có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm xã hội vận động theo hướng phát triển hơn. Đối với chúng ta, đương nhiên là xây dựng đạo đức và pháp luật trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Những mâu thuẫn, xung đột xã hội, nguyên nhân và các giải pháp xử lý trong thời gian vừa qua.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế – xã hội, mâu thuẫn và xung đột xã hội đang có chiều hướng gia tăng trên rất nhiều lĩnh vực, tính chất của các xung đột xã hội cũng ngày càng phức tạp. Ngoài ra, cuộc sống nhiều áp lực, căng thẳng khiến con người dễ bị tổn thương về mặt tâm lý, bị ức chế, dễ dẫn đến xung đột xã hội:
1. Trong lĩnh vực kinh tế: tranh chấp đất đai (giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, giữa cá nhân với các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các cộng đồng, nhóm người với nhau về giải tỏa, đền bù); tranh chấp hợp đồng kinh tế; phân chia tài sản, . . . .
2. Trong lĩnh vực xã hội: chính sách, chế độ xã hội và thực hiện chính sách. Những xung đột này thường xảy ra giữa các cá nhân, các nhóm dân cư, các nhóm xã hội với các cơ quan thực thi chính sách, pháp luật ở địa phương. Sự đòi hỏi của người dân không được giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề của mình cũng có thể dẫn tới xung đột xã hội.
3. Trong lĩnh vực y tế (giữa bệnh nhân, người nhà bệnh nhân với bác sĩ, với cơ quan y tế). Nhiều xung đột cũng xảy ra giữa các cộng đồng dân cư (làng, xóm, dòng họ…) với các cơ quan thực thi quyền lực.
4. Trong lĩnh vực giao thông, xung đột xảy ra khá phổ biến, nhất là ở các đô thị lớn (do mật độ giao thông đông, người sử dụng phương tiện giao thông chưa có ý thức, văn hóa thấp kém của người tham gia giao thông, tình trạng tắc đường); thu phí BOT; đền bù giải phóng mặt bằng, . . .
5. Trong lĩnh vực giáo dục: dạy thêm học thêm; các khoản phí; trường công trường tư; chi phí và chất lượng; chất lượng và bằng cấp;
6. Trong lĩnh vực văn hóa, các xung đột diễn ra trong các lễ hội (như lễ hội đền Trần, lễ hội đền Gióng…). Những vụ việc tranh chấp, xô xát liên quan đến các di tích lịch sử văn hóa, cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo không phải là ít.
7. Trong lĩnh vực tôn giáo: tranh chấp về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự, truyền đạo trái pháp luật, vi phạm luật pháp hiện hành về tôn giáo, chứ không phải do nguyên nhân xung đột về niềm tin tôn giáo.
8. Trong lĩnh vực môi trường: xung đột giữa các cộng đồng dân cư với các công ty, doanh nghiệp hủy hoại môi trường. Trong thời gian tới, dưới tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, các thảm họa môi trường, thảm họa do thiên tai mang lại sẽ có nhiều hơn các cuộc xung đột xã hội trong lĩnh vực môi trường.
9. Trong gia đình: xung đột giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em. Những xung đột xã hội ở cấp độ cá nhân, gia đình đang ngày càng mở rộng và phức tạp.
10. Trong quan hệ lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động: tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể liên quan đến HĐLĐ, tiền công, thời gian làm thêm, điều kiện lao động, BHXH, phúc lợi xã hội; vấn đề đình công.
Có thể thấy các mâu thuẫn và xung đột ở nước ta đều liên quan đến quyền và lợi ích của các bên. Trình độ nhận thức của người dân được nâng cao, thông tin được minh bạch hơn, Nhà nước tăng cường và đẩy mạnh dân chủ, người dân ngày càng phát huy vai trò làm chủ của mình, tham gia nhiều hơn vào quá trình giám sát xã hội, phản biện xã hội cũng làm lộ ra nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội.
Đặc biệt, những xung đột xã hội có nội dung đấu tranh, đòi hỏi về dân chủ, công khai, công bằng trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ và chống quan liêu, tham nhũng, làm sai chính sách, pháp luật của một bộ phận cán bộ trong các tổ chức Đảng, chính quyền có chiều hướng tăng.
3. Nguyên nhân dẫn đến xung đột xã hội
1. Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế (xuất hiện nhiều hơn với mức độ, quy mô khác nhau, tính chất khác nhau) đã dẫn đến những xung đột xã hội không thể tránh khỏi. Đây là nguyên nhân phổ biến của các xung đột xã hội ở nước ta thời gian gần đây.
2. Sự biến đổi về mặt xã hội như tình trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội, sự gia tăng quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa đã phá vỡ những cấu trúc xã hội truyền thống (như cấu trúc làng, xã, cấu trúc gia đình…) cũng là nguyên nhân gây nên xung đột xã hội. Tâm lý xã hội khủng hoảng, bức xúc xã hội, các vấn đề an ninh phi truyền thống. Đạo đức xuống cấp, lối sống thực dụng, chủ nghĩa khủng bố.
3. Môi trường tự nhiên (như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá rừng) cũng chứa đựng những mầm mống gây xung đột xã hội.
4. Một số chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai, kinh doanh, lao động, an sinh xã hội, quản lý xã hội và bảo đảm quyền lợi cho người dân chưa được đồng bộ, nhất quán, còn bất cập, gây bức xúc trong cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.
5. Thiếu hệ thống các chuẩn mực đạo đức dể làm thước đo: đạo đức công vụ; đạo đức trong chính trị; đạo đức trong kinh doanh; chuẩn mực ứng xử trong gia đình, cơ quan, xã hội để giáo dục và xử lý các mẫu thuẫn xã hội.
6. Một số cuộc xung đột xã hội còn có sự tham gia, xúi giục, tổ chức của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, tìm cách kích động biểu tình, bạo loạn, tạo cớ gây xung đột xã hội để can thiệp.
7. Cách thức giải quyết mâu thuẫn và xung đột
– Sự yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở tại một số địa phương; sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý; tình trạng chính quyền quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, cố ý làm sai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; cách giải quyết những đòi hỏi, bức xúc, nguyện vọng của nhân dân không hợp tình, không hợp lý, không dứt điểm; sự sai sót trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong nội bộ nhân dân; sự bất cập trong việc thực thi pháp luật, . . .
– Hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Thực hiện truy tố quan hệ kinh tế, dân sự không đúng bản chất khách quan của hành vi, đã xảy ra trên khắp cả nước như vụ chủ quán cà phê Xin Chào Nguyễn Văn Tấn ở TP.HCM, doanh nhân Hoàng Minh Tiến (Hà Nội), Phùng Thị Thu (Thái Bình), Nguyễn Văn Lượng (Nam Định),… bị “khép” các tội danh trốn thuế, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản oan khuất, gây hoang mang, sợ hãi trong không chỉ giới doanh nghiệp. Việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế tại Ngân hàng Nam Á (Nam A Bank) tại TP.HCM.
– Cách tiếp cận không hợp lý như giải quyết đình công tại các doanh nghiệp (hành chính thay vì thương lượng); cai nghiện ma túy (tội phạm hay con bệnh); người trực tiếp xử lý thiếu chuyên nghiệp, thiếu hểu biết, . . . dẫn đến một tỷ lệ lớn mâu thuẫn, xung đột chỉ được giải quyết phần nào (chủ yếu là phần ngọn) chứ không giải quyết được triệt để, điều này đã tạo ra những nhân tố gây mất ổn định xã hội. Ngoài ra, vai trò của các tổ chức đoàn thể trong giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội còn rất hạn chế.
4. Giải pháp giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội trong giai đoạn mới.
Khi nói đến giải quyết mâu thuẫn và xung đột xã hội, tức là nói đến vai trò quyết định của nhà nước, của chính quyền; sự tham gia của các tổ chức xã hội chỉ có vai trò hỗ trợ.
– Các mâu thuẫn và xung đột xã hội đều có nguyên nhân gốc rễ, do đó các mâu thuẫn và xung đột xã hội chỉ có thể được giải quyết triệt để khi xử lý được vấn đề gốc rễ của nó. Điều này đòi hỏi phải có cách tiếp cận, phương pháp và bộ công cụ giải quyết phù hợp với từng loại mâu thuẫn và xung đột xã hội cụ thể;
– Cần xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức được thực hành rộng rãi và quy phạm pháp lý chặt chẽ được tôn trọng, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước trong xây dựng và thực thi những nguyên tắc đạo đức và pháp luật.
– Yếu tố con người. Cần thực thi đạo đức công vụ, văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế và đảm bảo thượng tôn luật pháp. Xây dựng đạo đức và pháp luật trong sự thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc. – Thực hiện đúng nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội trong giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội.
– Cần xây dựng hệ thống kiểm soát quyền lực và phát hiện xung đột lợi ích hiệu quả, tránh chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tập thể. Quy định trách nhiệm cá nhân khi xử lý các mâu thẫn và xung đột xã hội.
– Không hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự.
– Cần làm tốt công tác dự báo nguy cơ xuất hiện xung đột xã hội để sớm hóa giải những mầm mống gây xung đột xã hội./.
TS. Đào Quang Vinh,
Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội