Giới thiệu khái quát huyện Diễn Châu
Diễn Châu là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Nghệ An, nằm ở tọa độ 105,30 – 105,45 vĩ độ Bắc, 18,20 – 19,50 kinh độ Đông. Địa bàn huyện trải dài theo hướng Bắc – Nam. Phía Bắc giáp huyện Quỳnh Lưu, phía Nam giáp huyện Nghi Lộc, phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Yên Thành, phía Đông giáp biển đông. Diện tích tự nhiên là 30.492,36ha, trong đó đất dùng cho sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp chiếm hơn một nửa.
Đất đai ở vùng ven biển nhìn chung độ màu mỡ không cao, vùng bán sơn địa đa số là đất bạc màu, nhưng nhân dân Diễn Châu giàu kinh nghiệm trong sáng tạo đất và có truyền thống thâm canh, nên nông nghiệp Diễn Châu vẫn là một trong những huyện phát triển nhất của Nghệ An.
Diễn Châu có 25 km bờ biển, chạy dài từ xã Diễn Trung ra đến Diễn Hùng tạo thành hình cánh cung lõm vào đất liền tạo thành một vĩnh nhỏ, một số người gọi đó là Vịnh Diễn Châu. Thiên nhiên ban tặng cho Diễn Châu nhiều cảnh quan đẹp, khí hậu biển mát lành. Biển Diễn Châu giàu hải sản, thềm lục địa bằng phẳng, có bãi tắm và khu nghỉ mát Diễn Thành thuộc loại đất tốt trong khu vực miền Trung. Vị trí địa lý và điều kiện thiên nhiên thuận lợi nên Diễn Châu quanh năm nhiều nắng, độ ẩm không khí cao (trên 80%), khí hậu mát mẻ (Nhiệt độ bình quân năm từ 22-25oC). Đây là điều kiện rất thuận tiện để phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Về giao thông, Diễn Châu có Quốc lộ 1A và tuyến đường sắt chạy dọc Bắc – Nam, là điểm khởi đầu của Quốc lộ 7 nối với các huyện miền tây và nước ban Lào, Quốc lộ 48 lên các huyện vùng tây bắc của tỉnh, các tuyến giao thông nội huyện và liên huyện rất thuận tiện và hiện đại. Về đường thủy, có tuyên kênh nhà Lê theo hướng Bắc Nam nối liền với sông Cấm. Sông bùng chảy qua 10 xã trong huyện đổ ra biển đông. Có Cửa Vạn, Cửa Hiền và 28 km bờ biển nối liền với các huyện trong nước.
Biển Diễn Thành
Toàn huyện có 38 xã và 1 thị trấn, trong đó có 1 xã miền núi (Diễn Lâm), 4 xã vùng bán sơn địa (Diễn Phú, Diễn Lợi, Diễn Thắng và Diễn Đoài), 8 xã vùng biển (Diễn Trung, Diễn Thịnh, Diễn Thành, Diễn Ngọc, Diễn Bích, Diễn Kim, Diễn Hải và Diễn Hùng), số còn lại là các xã vùng lúa và vùng màu. Dân số đến hết năm 2010 là 292.229 người, trong đó đồng bào theo đạo Thiên Chúa là 5.011 hộ với 28.076 người phân bố ở 22 xã. Giáo dân Diễn Châu có truyền thống sống tốt đời đẹp đạo, đoàn kết xây dựng quê hương giàu đẹp.
Diễn Châu là huyện có truyền thống lịch sử văn hoá. Tên gọi Diễn Châu ra đời năm Trinh Quán thứ nhất (627) đời Đường Thái Tông cách ngày nay (2007) là 1380 năm. Trải qua gần 14 thế kỷ đấu tranh để tồn tại và xây dựng quê hương, Diễn Châu nổi tiếng là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”.
Thị trấn Diễn Châu
Diễn Châu xưa là vùng đất “Phên dậu” của các triều đại Nhà nước phong kiến Việt Nam và là vùng đất giàu truyền thống khoa bảng. Diễn Châu nay là hậu phương vững chắc của cả nước trong đấu tranh giải phóng dân tộc được Đảng và Nhà nước phong tặng đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và là điểm sáng nhiều mặt trong phát triển kinh tế – xã hội xây dựng quê hương văn minh, giàu mạnh. Kinh tế tăng trưởng bình quân hàng năm từ 10 – 12%, thu nhập bình quân đầu người (năm 2015): trên 30 triệu đồng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ trong nền kinh tế ngày càng tăng. Huyện đã xây dựng được Cụm công nghiệp Diễn Hồng, Cụm công nghiệp Tháp – Hồng – Kỷ. Toàn huyện có 556 (năm 2015) Doanh nghiệp và gần 3000 hộ hoạt động sản xuất, kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế. Khu du lịch biển Diễn Thành, Hòn Câu Diễn Hải đang được đầu tư phát triển, thu hút hàng chục ngàn lượt du khách mỗi năm. Văn hoá – xã hội có nhiều tiến bộ, Quốc phòng – An ninh được giữ vững. Công cuộc xây dựng Nông thôn mới đang được toàn Dảng, toàn dân tích cực thực hiện, đến cuối năm 2015 đã có 14/38 xã về đíc Nông thôn mới, trở thành huyện có nhiều xã đạt nông thôn mới nhất trong toàn tỉnh
Diễn Châu là huyện tràn đầy sức trẻ và nghị lực đang vươn mình đi lên trong sự nghiệp đổi mới, CNH-HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.
Ban Biên tập Cổng TTĐT Diễn Châu
Lịch Sử
DẤU VẾT AN DƯƠNG VƯƠNG Ở DIỄN CHÂU
Theo lịch sử cũng như truyền thuyết, Diễn Châu là nơi đã diễn ra tấn bi kịch của cha con Thục An Dương Vương và cả nhà Thục. Bãi biển Diễn Châu là nơi Thục An Dương Vương đã đi vào cõi bất tận. An Dương Vương có sống ở Diễn Châu ngày nào không hay là chạy vào đây rồi mới biết sự thật liền chém con gái và tự vẫn ngay, chưa ai rõ.
Theo sử sách và truyền thuyết dân gian, từ ngày Thục Phán lên ngôi vua, Triệu Đà đã nhiều lần đem quân sang xâm lược nước Âu Lạc. Nước Âu Lạc có quân đông, vũ khí tốt (nỏ thần) lại có thành Cổ Loa kiên cố. Dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương và những tướng soái tài ba như Cao Lỗ, quân dân Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại quân xâm lược Triệu Đà. Chiến trường chính là vùng đồi Tiên Du (núi Trận- Quế Võ- Hà Bắc). Sau nhiều lần tấn công thất bại. Triệu Đà biết không thể chinh phục nước Âu Lạc bằng vũ lực, đã thay đổi thủ đoạn xâm lược, thực hiện nhiều mưu đồ xảo quyệt. Những mưu mô của Triệu Đà được chép trong chính sử của ta và được phản ảnh trong truyền thuyết Mỵ Châu- Trọng Thuỷ. Gạn lọc những thông tin chứa đựng trong các tư liệu cổ và huyền thoại dân gian, ta có thể hình dung được một phần nào âm mưu, thủ đoạn xâm lược của Triệu Đà.
Sau những đợt tiến công bằng quân sự không đem lại hiệu quả gì, Triệu Đà xin giảng hoà với An Dương Vương rồi cầu hôn công chúa Mỵ Châu, con gái An Dương Vương cho Thái tử Trọng Thuỷ. Lợi dụng tục ở rể của người Việt, Trọng Thuỷ lưu lại ở kinh thành Cổ Loa. Không nghe những lời can ngăn của những tướng tài như Cao Lỗ, Nội Hầu, Đinh Toàn…..An Dương Vương từng bước bị sa vào cạm bẫy, mất tinh thần cảnh giác, ý chí chiến đấu sa sút. Các tướng tá thân cận kẻ bị giết, bị bạc đãi, kẻ phải bỏ đi; trong khi đó Trọng Thuỷ được tin cẩn đã đánh cắp các bí mật quân sự, làm suy yếu lực lượng quốc phòng của nước Âu Lạc. Trọng Thuỷ về nước báo tin. Triệu Đà lập tức tiến quân xâm lược nước Âu Lạc, bất ngờ đánh thẳng vào thành Cổ Loa. An Dương Vương thất bại không những làm cơ đồ Âu Lạc bị chìm đắm mà còn đưa đất nước ta vào thảm hoạ hơn 1000 năm Bắc thuộc.
“ Đại Việt sử ký toàn thư” chép như sau: “….Đà đem quân đến đánh vua, vua không biết lẫy nỏ đã mất, ngồi đánh cờ, cười mà bảo: “Đà không sợ nỏ thần của ta sao?” Quân của Đà tiến sát chân thành, vua giương nỏ thì lẫy nỏ đã gãy rồi. Vua thua chạy để Mỵ Châu ngồi trên lưng ngựa, cùng chạy về phía Nam. Trọng Thuỷ nhận ra dấu lông ngỗng chạy đuổi theo. Vua đến bờ biển hết đường mà không có thuyền liền gọi rùa vàng mấy tiếng: “Mau đến cứu ta!” Rùa vàng nổi lên mặt nước, mắng rằng: “Kẻ ngồi sau ngươi là giặc đấy, sao không giết đi?” Vua rút thanh gươm muốn chém Mỵ Châu. Mỵ Châu khấn rằng: “Trung tín trọn tiết, bị người đánh lừa xin hoá thành ngọc châu để rửa thù nhục này”. Cuối cùng vua vẫn chém Mỵ Châu, máu chảy loang mặt nước, loài trai nuốt vào bụng hoá thành hạt minh châu. Vua cầm sừng tê văn dài 7 tấc xuống biển mà đi. Tục truyền núi Dạ Sơn ở xã Cao Xá huyện Diễn Châu là nơi vua tự vẫn. Trọng Thuỷ đuổi theo đến núi Mộ Dạ thấy Mỵ Châuy đã chết, khóc thương, ôm lấy xác đem về chôn ở Loa Thành, hoá loài đá ngọc”
Như vậy Diễn Châu là nơi đã diễn ra tấn bi kịch của cha con Thục An Dương Vương và cả nhà Thục. Bãi biển Diễn Châu là nơi Thục An Dương Vương đã đi vào cõi bất tận.
An Dương Vương có sống ở Diễn Châu ngày nào không hay là chạy vào đây rồi mới biết sự thật liền chém con gái và tự vẫn ngay, chưa ai rõ.
Phía đông núi Mộ Dạ có một tảng đá tròn màu vân đen trắng xen kẽ nhau lổn nhổn như những hạt gạo. Tương truyền khi Thục An Dương Vương thất trận chạy đến Mộ Dạ thì hết lương thực. Vua khấn cầu, trời đất bỗng nhiên có gió nổi lên. Và trong gió những hạt gạo bay ra tua tủa. Vua sai quân lính thu nhặt chất thành đống để nuôi quân. Khi vua cầm sừng Văn tê đi xuống biển, số gạo còn lại đã đóng thành đá. Về sau, bà con gọi đó là Đá Gạo.
Ở một số làng, đặc biệt là Đông Tháp có nghề làm vàng vó. Họ cúng tổ sư là “ Thục An Dương Vương chi quân tướng” (Quân tướng của An Dương Vương). Bà con kể rằng, quân tướng của An Dương Vuơng chạy theo vua vào đến đây, sau khi vua chết, họ ở lại và truyền nghề làm vàng vó cho dân.
Đền thờ An Dương Vương xưa kia tại núi Đầu Cân, sát bờ biển cạnh cửa La Nham. Gọi là Đầu Cân vì khi vua nhảy xuống biển, chiếc khăn chít đầu của Mỵ Châu mà giữa đường nàng đã chùm cho vua cha rớt lại. “An Dương Vương tự bi ký” dựng tại đền Công hiện tại, có đoạn viết: “ Lễ thờ phụng vốn từ thôn Phúc Khát, lời truyền có nhiều phần khác nhau”. Núi Đầu Cân có thuộc thôn Phúc Khát không thì chưa ai rõ. Song Bùi Huy Bích ( 1744- 1818) khi làm Hiệp trấn Nghệ An dưới thời Lê Trịnh, đi thăm đền thờ An Dương Vương, có để lại mấy câu thơ:
La Nham hải bạn thạch thôi ngôi
Thần nỏ hà niên khởi hoạ tai?
Đạo xuất Diễn Châu vô cẩm nhục
Miếu tồn Mộ Dạ hưũ kim bài…
Đặng Quang Liễn và Nguyễn Nghĩa Nguyên phỏng dịch:
La Nham cửa biển đá lô nhô
Thần nỏ năm nào đấy hoạ to
Đường tới Diễn Châu không nệm gấm
Lưng đồi Mộ Dạ dựng bia thờ.
Như vậy, vào đời Lê Trịnh, đền đã dời lên núi Mộ Dạ sát đường quốc lộ 1 hiện tại. Đến đời Tự Đức, năm Giáp Tý (1864) đền mới được tu sửa quy mô như ta thấy. Bia dựng năm Giáp Tuất (1874) do Phạm Hy Lượng viết có đoạn: “Uy đức Vua vẫn tươi xanh như áng mây, như thông rừng, công đức nhà vua càng sáng rạng” và “ cảnh danh thắng miếu cổ, núi chạm trời vân thê! Thật là may còn ghi được tích truyền để ngày càng lan toả ra các đời sau đặng kính thờ và thăm viếng”
Tại vùng này có đến thờ tướng Cao Lỗ ở Diễn Trung (xem phần NVDC) miếu thờ Mỵ Châu ở cung Nẻ và dưới chân núi Cấm. Tại Mộ Dạ còn di tích đến thờ Tả tướng Quảng Phúc và Hữu tướng Quảng Đức, hai bộ tướng của An Dương Vương. Rồi những hòn đá Mũ (Mão Thạch) hòn đá Giấy (Miệt Thạch), bà con cũng kể rằng, của An Dương Vương để lại đó, trước khi xuống bể theo thần Kim Quy. Và trên đỉnh Mộ Dạ có một hòn đá to, bằng phẳng gọi là Thạch Bàn. Những đêm trăng thanh gió mát, nhân dân vẫn thấp thoáng thấy An Dương Vương và thần Kim Quy ngồi đánh cờ.
Sau đó là cả một đêm trường Bắc thuộc, tuy có lúc nhân dân ta vùng dậy đấu tranh giành nền độc lập, song vẫn là những ngày ì ạch nặng nề của thời trung cổ đã kéo dài hơn một thiên niên kỷ. Diễn Châu cũng như toàn cõi Việt Nam chịu sự đô hộ của các vương triều Trung Hoa. Bọn chúng muốn đồng hóa Việt Nam, chia Việt Nam thành từng quận huyện và sát nhập vào bản đồ Trung Quốc. Song sức sống của dân tộc, bản sắc văn hóa của dân tộc cùng sắc thái văn hóa của từng địa phương, đã chống lại sự nô dịch, sự đồng hóa đó.
(Theo Sách Diễn Châu 1380 Lịch sử – Văn hóa – Nhân vật)