Xếp hình là gì? Trong giới trẻ ngày nay cụm từ xếp hình được dùng với nhiều ý nghĩa khác nhau, trở thành từ tiếng lóng, ngôn ngữ genZ. Hãy cùng Ben Computer giải nghĩa chi tiết từ xếp hình của giới trẻ.
Nội dung chính
- II/ Xếp hình người trong tình yêu có nghĩa là gì?
- III/ Một số tư thế xếp hình bá đạo
- Công nghệ thông tin
- Khoa học chính trị
- Khoa học xã hội và sức khỏe
- Tài nguyên nước và thiên nhiên
- Bận tâm của người dùng
- Bận tâm của nhà thiết kế
- Video liên quan
Xếp hình nghĩa đen là trò chơi lắp ghép của trẻ em nhằm phát triển trí tuệ thông minh, logic cùng khả năng sáng tạo.
Đây là trò chơi phổ biến, ưa chuộng trên Thế Giới. Người chơi cần lắp ghép các khối mảnh vỡ với nhau thành 1 thể thống nhất có hình thù, ý nghĩa.
Những miếng ghép hình thù ngộ nghĩnh, đầy màu sắc được khớp với nhau giúp con trẻ sáng tạo thoải mái, không bị bó buộc và kích thích trí tưởng tượng của chúng.
Tuy nhiên, trong nhiều dòng game xếp hình hiện nay, thay vì các miếng ghép rời rạc thì xuất hiện nhiều nhân vật không mặc quần áo. Điều này dẫn tới giới trẻ không còn hiểu đơn thuần xếp hình là việc lắp ghép hình khối mà còn là ý nghĩa sâu xa hơn.
ĐỌC NGAY: Ảo ma Canada nghĩa là gì
II/ Xếp hình người trong tình yêu có nghĩa là gì?
Trên mạng xã hội hiện nay, xếp hình là từ ngữ thường được dùng nhằm ám chỉ cảnh quan hệ tình dục.
Hiểu đơn giản, các tư thế quan hệ nam nữ tưởng tượng như cảnh xếp hình khi 2 cơ thể quyện lấy nhau. Với giới trẻ và sự sáng tạo phong phú, dần dần xếp hình đã trở thành từ lóng được dùng phổ biến, rộng rãi.
Do “quan hệ tình dục” được xem là khá nhạy cảm, bậy trong giao tiếp của người Việt nên chúng ta thường tìm ra các từ thay thế tượng hình, tượng thanh. Bên cạnh “chịch”, “hấp diêm”,.. thì xếp hình đang ngày càng nhiều bạn trẻ dùng, nói vui đùa, trêu nhau.
So với các từ lóng khác nói về chuyện chăn gối của cặp đôi, xếp hình khá tượng hình và dễ liên tưởng hơn cả.
Vậy nên nếu bạn đang thắc mắc “xếp hình là gì” thì hãy đặt vào bối cảnh câu nói để hiểu chúng theo nghĩa đen hay nghĩa bóng.
III/ Một số tư thế xếp hình bá đạo
Sở dĩ, genZ hiện nay ngày càng ưa chuộng từ lóng xếp hình trong tình yêu, chuyện chăn gối bởi chỉ cần nghe thôi bạn cũng tưởng tượng ra rất nhiều tư thế quan hệ.
Dưới đây là gợi ý 1 số tư thế xếp hình tuyệt vời, hâm nóng lửa tình cho mọi cặp đôi:
-
Doggy: đây là tư thế quan hệ tình dục kinh điển mà bất cứ cặp đôi nào cũng nên thử. Nàng quay ra phía trước, đưa mông về phía chàng, chàng đứng hoặc quỳ gối để xâm nhập từ đằng sau. Tư thế này vừa dễ xâm nhập, vừa mang lại cảm giác hưng phấn cao cho cả 2 người.
-
Xếp hình 69: nghĩa là chàng và nàng nằm úp lên nhau, quay đầu về phía bộ phận sinh dục của nửa kia. Cuộc yêu sẽ do cả 2 cùng thắp lửa bởi động tác vuốt ve, mơn trớn, hôn,.. Đây là tư thế được yêu thích khi 2 bạn thực hiện quan hệ bằng miệng.
-
Xếp hình truyền thống: không thể phủ nhận tư thế truyền thống vẫn chiếm ngôi độc tôn trong mọi cuộc chăn chiếu. Bạn gái nằm ngửa, dạng chân rộng để bạn trai xâm nhập trực tiếp. Trong lúc quan hệ bạn nam có thể nâng người bạn nữ dậy để thêm phần kích thích.
-
Đại bàng tung cánh: Đây là cách nói ví von của tư thế nàng trên – chàng dưới. Bạn nữ ngồi lên người bạn nam, đưa cô bé thâm nhập nhẹ nhàng, từ từ và nhún theo nhịp. Bạn trai có thể ôm hông bạn gái và đẩy nhẹ để cuộc yêu càng thêm thăng hoa.
-
Xếp hình tư thế đứng: Cả 2 người cùng đứng dậy và xâm nhập nhẹ nhàng. Bạn trai có thể nâng chân của bạn gái để dễ dàng đưa cậu nhỏ vào hơn. Ngoài đứng, bạn có thể sử dụng ghế ngồi hoặc ghế tình yêu chuyên dụng.
XEM THÊM: Love Spell là gì
Xếp hình người trong tình yêu luôn mang đến cảm giác hạnh phúc, thăng hoa, giúp tình cảm gắn kết bền chặt. Ngoài việc làm xếp hình trên giường, trong phòng ngủ, bạn có thể “đổi gió” bằng cách quan hệ trong nhà tắm, nhà bếp, cửa sổ gần ban công,…
Trên đây là toàn bộ ý nghĩa xếp hình là gì? Hãy theo dõi Ben Computer để cập nhật nhiều nhiều thông tin thú vị khác.
Sự thực hiện[Ghi chú 1] (tiếng Anh: Implementation) là sự hiện thực hóa một ứng dụng, hoặc sự thực thi một kế hoạch, ý tưởng, mô hình (en), thiết kế, đặc tả (en), tiêu chuẩn, thuật toán, hoặc chính sách.
Trong khoa học máy tính, một bản thực hiện là sự hiện thực hóa một đặc tả kỹ thuật (en) hoặc thuật toán để làm thành một chương trình, thành phần phần mềm (en) hoặc hệ thống máy tính khác thông qua việc lập trình máy tính và triển khai phần mềm. Nhiều bản thực hiện có thể tồn tại cho một đặc tả hoặc tiêu chuẩn nhất định. Ví dụ: các trình duyệt web chứa các bản thực hiện của Hiệp hội World Wide Web (tức là các bản đặc tả được khuyến nghị), và các công cụ phát triển phần mềm chứa các bản thực hiện của các ngôn ngữ lập trình.
Một trường hợp đặc biệt xảy ra trong lập trình hướng đối tượng, khi một ‘lớp cụ thể’ thực hiện một giao diện; trong trường hợp này, lớp cụ thể là một bản thực hiện của giao diện đấy và nó bao gồm các phương thức là các bản thực hiện của các phương thức mà được giao diện đó chỉ định.
Công nghệ thông tin
Trong công nghiệp công nghệ thông tin, sự thực hiện đề cập đến quá trình hậu mãi là hướng dẫn khách hàng từ chuyện mua hàng đến chuyện sử dụng phần mềm hoặc phần cứng đã mua. Điều này bao gồm phân tích yêu cầu, phân tích tầm vực, tùy chỉnh, tích hợp hệ thống, chính sách người dùng, đào tạo người dùng và phân phối. Các bước này thường được giám sát bởi người quản lý dự án bằng các ‘phương pháp luận’ quản lý dự án. Các bản thực hiện phần mềm thì liên quan đến một số chuyên gia mà họ tương đối mới đối với nền kinh tế dựa trên tri thức như nhà phân tích kinh doanh (en), nhà phân tích kỹ thuật, kiến trúc sư giải pháp (en) và nhà quản lý dự án.
Để thực hiện một hệ thống một cách thành công, nhiều tác vụ liên quan đến nhau cần được tiến hành theo một trình tự thích hợp. Việc sử dụng một ”phương pháp luận’ thực hiện đã được chứng minh tốt’ và tranh thủ tư vấn chuyên môn thì có thể giúp ích, nhưng thường thì chính số lượng các tác vụ, việc lên kế hoạch kém và việc cung ứng không thỏa đáng thì mới gây ra vấn đề với một dự án thực hiện, chứ không phải là do những tác vụ bất kỳ nào đó trở nên cá biệt khó khăn. Tương tự như vậy với các vấn đề văn hóa, chính chuyện thiếu sự bàn bạc thỏa đáng và thiếu sự giao tiếp hai chiều mới là những thứ gò nén việc đạt thành kết quả mà người ta mong muốn.
Khoa học chính trị
Trong khoa học chính trị, sự thực hiện đề cập đến việc chấp hành chính sách công. Cơ quan lập pháp thông qua luật rồi sau đó luật được thực hiện bởi các công chức viên làm việc trong các cơ quan quan liêu. Quá trình này gồm có xây dựng quy tắc, quản trị quy tắc và xét xử quy tắc. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện bao gồm ý định lập pháp, năng lực hành chính của bộ máy quan liêu thi hành, hoạt động nhóm lợi ích và sự phản đối, và sự hỗ trợ thuộc tổng thống hoặc hành pháp.
Trong quan hệ quốc tế, sự thực hiện đề cập đến một giai đoạn lập hiệp ước quốc tế. Nó đại diện cho giai đoạn khi các điều khoản quốc tế được ban hành trong nước thông qua luật pháp và quy định. Giai đoạn thực hiện khác với việc phê chuẩn một điều ước quốc tế.
Khoa học xã hội và sức khỏe
Sự thực hiện được định nghĩa là một tập hợp các hoạt động đặc thù được thiết kế để đưa vào thực tiễn một hoạt động hoặc chương trình có kích thước đã biết. Theo định nghĩa này, các quy trình thực hiện là có mục đích và được mô tả chi tiết đầy đủ để cho các nhà quan sát độc lập có thể phát hiện sự hiện diện và sức mạnh của các “tập hợp hoạt động đặc thù” có liên quan đến sự thực hiện. Ngoài ra, hoạt động hoặc chương trình mà đang được thực hiện thì được mô tả chi tiết đầy đủ để cho các nhà quan sát độc lập có thể phát hiện sự hiện diện và sức mạnh của nó.”[1]
Tài nguyên nước và thiên nhiên
Trong tài nguyên nước và thiên nhiên, sự thực hiện đề cập đến sự thực tế hóa các ‘thực hành quản lý tốt nhất’ với mục tiêu cuối cùng là giữ gìn tài nguyên thiên nhiên và cải thiện chất lượng của các vùng nước.
Các dạng
- Chuyển hóa trực tiếp
- Vận hành song song
, còn được gọi là bước song song
- Thực hiện theo giai đoạn
Việc thực hiện hệ thống thường được hưởng lợi từ mức độ cao của sự liên can người dùng và sự hỗ trợ quản lý. Sự tham gia của người dùng vào thiết kế và vận hành của hệ thống thông tin thì có một số kết quả tích cực. Đầu tiên, nếu người dùng liên can nhiều vào thiết kế hệ thống, họ sẽ đưa cơ hội để nhào nặn hệ thống đấy theo các ưu tiên và yêu cầu kinh doanh của họ, và nhiều cơ hội hơn để kiểm soát kết quả. Thứ hai, nhiều khả năng là ‘họ phản ứng một cách tích cực với quá trình thay đổi’ hơn. Việc kết hợp kiến thức và chuyên môn của người dùng dẫn đến các giải pháp tốt hơn.
Mối quan hệ giữa người dùng và các chuyên gia hệ thống thông tin thì theo truyền thống là một ‘miền vấn đề’ đối với các nỗ lực thực hiện hệ thống thông tin. Người dùng và chuyên gia hệ thống thông tin thì có xu hướng có nền tảng, sở thích và ưu tiên khác nhau. Điều này được gọi là khoảng hở giao tiếp giữa người dùng và nhà thiết kế. Các khác biệt này dẫn đến bất đồng trong lòng trung thành với tổ chức, bất đồng trong việc giải quyết vấn đề, và bất đồng từ vựng.[2] Ví dụ về các khác biệt hoặc các mối bận tâm ở dưới đây:
Bận tâm của người dùng
- Hệ thống sẽ cung cấp thông tin mà tôi cần cho công việc của tôi chứ?
- Tôi có thể truy cập dữ liệu nhanh đến thế nào?
- Tôi có thể truy xuất dữ liệu nhanh đến thế nào?
- Tôi sẽ cần bao nhiêu hỗ trợ văn thư để nhập liệu vào hệ thống?
- Sự vận hành của hệ thống sẽ hợp với lịch trình công chuyện hằng ngày của tôi như thế nào?[1]
Bận tâm của nhà thiết kế
- Tập tin chủ sẽ tiêu tốn bao nhiêu dung lượng kho đĩa?
- Cần bao nhiêu dòng mã chương trình để thực hiện chức năng này?
- Làm thế nào để chúng ta có thể cắt giảm thời gian CPU khi chúng ta chạy hệ thống?
- Những cách hiệu quả nhất để lưu trữ dữ liệu này là gì?
- Chúng ta nên sử dụng hệ quản lý cơ sở dữ liệu nào?[2]
- Phần mềm ứng dụng
- Nhận thức trong tình cảnh
- ^
Cần tránh nhầm lẫn “thực hiện” (Implementation) với “hiện thực hóa” (Realization), tuy nhiên trong nhiều ngữ cảnh, “thực hiện” mang ý nghĩa chồng chéo với “thực thi”, “thi hành”, “chấp hành”.
- ^ a b
The National Implementation Research Network
- ^ a b
Laudon, K., & Laudon, J. (2010). “Management Information Systems: Managing the Digital Firm.” Eleventh Edition (11 ed.). New Jersey: Prentice Hall.