(Last Updated On: 29/05/2022)
Tâm lí con người mang tính chủ thể. Trong số những đặc điểm tâm lí của cá nhân nhằm phân biệt người này với người khác, khí chất có vị trí quan trọng nhất.
I. Khí chất là gì?
Từ thời cổ đại xa xưa, người ta đã nhận thấy có những khác biệt cá nhân rõ rệt trong những đặc điểm bên ngoài của hành vi: một số người thì nhanh nhẹn, hoạt bát, cởi mở, dễ thích nghi. Một số người khác ngược lại, chậm chạp, khép kín, khó thích nghi… Một số người thường bình thản, ung dung. Một số người khác ngược lại luôn vội vàng, tất bật.
Người ta cũng nhận thấy rằng những đặc điểm đó chỉ thuần túy là những biểu hiện bề ngoài của hành vi không liên quan gì đến việc con người có yêu nước, tôn trọng mọi người, yêu lao động, khiêm tốn, trung thực, chăm chỉ hay không. Nói tóm lại, những đặc điểm này không đánh giá về mặt đạo đức của con người mà chỉ phản ánh sắc thái hoạt động tâm lí của con người về mặt cường độ, tốc độ, nhịp độ của những động tác, cử chỉ, cách đi đứng… mà thôi. Đó là khí chất.
Khí chất là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân mang tính ổn định và độc đáo. Nó quy định sắc thái diễn biến tâm lý trong hoạt động tâm lý của con người. Trong các đặc điểm tâm lí để phân biệt người này với người khác thì khí chất có tầm quan trọng nhất.
Khí chất (hay tính khí) không định trước giá trị đạo đức, giá trị xã hội của cá nhân như một nhân cách. Người có khí chất khác nhau có thể có chung một giá trị đạo đức, giá trị xã hội như nhau. Ngược lại có những người có cùng khí chất như nhau nhưng có thế rất khác nhau về giá trị đạo đức, giá trị xã hội.
Khí chất không định trước những nét tính cách mà chỉ có liên hệ chặt chẽ với tính cách. Các nét tính cách khi thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức các hành vi xã hội thường mang sắc thái của một khí chất này hay khí chất khác.
Khí chất không định trước trình độ của năng lực. Những người có cùng khí chất có thể có năng lực khác nhau. Những người có cùng một loại năng lực có thể thuộc nhiều khí chất khác nhau. Như vậy, không một thuộc tính nào của nhân cách lại do khí chất tiền định cả nhưng sự thể hiện của tất cả các thuộc tính của nhân cách đều bị phụ thuộc vào khí chất trong những mức độ nhất định.
Khí chất là tổng thể những đặc điểm tâm lí cá nhân thể hiện rõ hoạt động tâm lí của con người.
– Một vài nét về lịch sử nghiên cứu khí chất
Trong lịch sử, người ta đã ghi lại tên tuổi của Hypôcrát người Hi Lạp (460 – 356 TCN), người đã phát hiện ra các khí chất.
Theo Hypôcrát trong cơ thể con người có bốn chất lỏng (máu, chất nhờn, mật vàng và mật đen). Tùy thuộc vào mối quan hệ của bốn chất dịch ấy mà quyết định hành vi của con người. Sau này do tên gọi của các chất dịch chiếm ưu thế trong cơ thể mà có tên gọi các kiểu khí chất.
Xăngghít (máu – nóng) – Kiểu Xănganh (kiểu hoạt) Phlêch (chất nhờn – lạnh lẽo) – Kiểu Phlêmatic (kiểu trầm) Côle (mật vàng – khô ráo) – Kiểu Côlêric (kiểu nóng) Mêlangcôle (mật đen – ẩm ướt) – Kiểu Mêlangcôlic (kiểu ưu tư) Bác sĩ người La Mã là Galen (200 – 130 TCN) đã hoàn thiện lí thuyết của Hypôcrát và từ đó mọi người được phân chia thành bốn loại tương ứng với bốn nhóm khí chất với các đặc điểm khác nhau.
– Kiểu Sanguine (Xănganh) (kiểu linh hoạt): Dễ thay đổi thói quen; Dễ thay đổi tâm trạng; Là người yêu đời, nhanh nhẹn, nhanh trí nhưng ít kiên nhẫn.
– Kiểu Phlegmatic (Phlêmatic) (kiểu trầm): Người kém nhanh nhẹn; Hưng phấn cảm xúc yếu; Bình tĩnh và kiên định; Thói quen, kĩ xảo ổn định, khó thay đổi.
– Kiểu Choleric (Côlêric) (kiểu nóng): Cảm xúc biểu hiện rất rõ, nhất là những cảm xúc tiêu cực; Hay nóng nảy dù sự nóng nảy qua đi nhanh; Nhanh nhẹn, có nghị lực, kiên quyết; Khi vui sướng hay đau khổ đều rung động mãnh liệt, sâu sắc.
– Kiểu Melancholic (Mêlangcôlic) (kiểu ưu tư): Cảm xúc mang tính mềm yếu. Bất kì thất bại nào cũng gây ức chế, luôn u sầu; Mọi rung động diễn ra chậm chạp nhưng khá sâu sắc; Thường lờ đờ, thụ động.
Khoa học phát triển lên đã gạt bỏ ý kiến cho rằng khí chất phụ thuộc vào quan hệ, vào tỉ lệ giữa các chất dịch trong cơ thể nhưng cho rằng chia bốn kiểu khí chất trên là khá chính xác, đúng đắn về mặt tâm lí. Do đó cách phân chia trên vẫn giữ nguyên ý nghĩa.
Sau đó có tư tưởng cho rằng khí chất của con người phụ thuộc vào các đặc điểm sinh học (hoạt động của hệ tim mạch, thể tạng…).
Thuyết thần kinh do nhà sinh lí học vĩ đại người Nga I.P. Páplốp đã giải thích một cách thực sự khoa học về khí chất. Các công trình nghiên cứu khoa học của ông đi đến kết luận: Cơ sở sinh lí của khí chất là kiểu hoạt động thần kinh cấp cao (HĐTKCC) hay kiểu hệ thần kinh. Toàn bộ hoạt động của hệ thần kinh cũng như của từng tế bào thần kinh đều dựa vào hai quá trình cơ bản là hưng phấn và ức chế. Quá trình hưng phấn và ức chế của những người khác nhau thì khác nhau về cường độ, tính linh hoạt, tính cân bằng. Căn cứ vào ba thuộc tính cơ bản (cường độ, tính linh hoạt, tính cân bằng) của hai quá trình thần kinh cơ bản Páplốp đã xếp ra bốn kiểu thần kinh cơ bản, cơ sở của bốn kiểu khí chất.
Páplốp tìm ra 4 kiểu HĐTKCC cơ bản:
- Kiểu mạnh, cân bằng, linh hoạt
- Kiểu mạnh, cân bằng, không linh hoạt
- Kiểu mạnh, không cân bằng
- Kiểu yếu.
II. Bản chất xã hội của khí chất
Khí chất của cá nhân không phải chỉ do các thuộc tính bẩm sinh của hệ thống thần kinh quyết định mà thường xuyên bị tác động bởi môi trường sống. Những dấu vết của xã hội đặc biệt là các chuẩn mực vế các kiểu hành vi, cử chỉ, cách ăn nói của cá nhân….những biến cố xảy ra trong đời sống cá nhân, tập thể, cộng đồng… đều được ghi vào khí chất cá nhân một cách rõ ràng, sâu sắc. Vì vậy khí chất cá nhân thể hiện rõ đặc điểm của xã hội, của dân tộc, của địa phương , của cộng đồng nơi cá nhân đó sinh sống.
Ngoài ra, cá nhân là một chủ thể có ý thức, nên họ có thể dựa vào kinh nghiệm của xã hội để rèn luyện, học tập, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với xã hội vì tiến bộ của xã hội.
III. Các kiểu khí chất điển hình và cơ sở sinh lí của chúng
1. Kiểu linh hoạt (Sanguine) (mạnh, cân bằng, linh hoạt):
Nói một cách ngắn gọn: Người Sanguine là những người náo nhiệt, sôi nổi, tình cảm cởi mở và hướng ngoại.
Về mặt xã hội
Người Sanguines tìm kiếm ở các tương tác xã hội với cả những quan hệ thân thuộc và không thân thuộc. Đó là cách họ nạp lại năng lượng và thời gian ở một mình, đôi khi là đáng ao ước lại có thể làm họ nhanh chóng buồn chán.
Càng có nhiều người xung quanh, họ càng thấy vui và họ không kén chọn về người mà họ phải biết. Họ thích thú khi có nhiều nhiều bạn bè.
Trong lúc những người sanguines thích thú khi được ở bên mọi người, phần lớn là bởi vì họ thích thú sự chú ý của người khác và cảm thấy an lòng vì không không bị cô đơn.
Họ là những người nói nhiều hơn lắng nghe.
Họ có thể rời xa những người bạn mà họ cho rằng họ nhàm chán hoặc buồn tẻ.
Họ sôi nổi, vui vẻ, là người hướng ngoại, mặt mày luôn tươi tỉnh. Họ yêu những đêm hoang dã ở ngoài.
Họ kết bạn nhanh chóng và họ sẽ nói chuyện vui vẻ với những người lạ. Người có khí chất melancholic (kiểu ưu tư) có thể ở trong phòng có 20 người lạ mặt với cảm giác sợ hãi và không thoải mái thì người sanguine có thể thấy đó là cơ hội để họ gặp gỡ được những người bạn mới.
Họ thích những tình huống xã hội, và tin rằng tất cả mọi người khác cũng vậy. Họ đang có khả năng thuyết phục mọi người đến cùng với những câu như “đi đi, bạn sẽ thích nó! ” hoặc “bạn không biết những gì bạn đang thiếu”!
Làm bạn với một Sanguine thường là đơn giản như biết mặt và biết tên của nhau.
Họ không phải là những người đặc biệt đáng tin cậy … vì có lúc họ sẽ quá háo hức để lộ ra bí mật với người khác, và sự bay bổng của họ làm cho họ dễ dàng bị phân tâm bởi những thứ khác.
Biểu cảm
Họ nói nhiều, và nói chuyện một cách thân thiện, năng động, vui tươi; họ thường có sức lôi cuốn, và khi tương tác với họ, bạn có thể cảm thấy như bạn đã biết tất cả cuộc sống của bạn.
Họ rất tình cảm và cảm xúc của họ có thể là cực đoan nhưng chỉ thoáng qua. Họ là loại người sẽ hét “TÔI GHÉT ANH, TÔI GHÉT ANH!!” một ngày, sau đó chỉ giờ sau đó, họ sẽ được đầm đìa xin lỗi về điều đó, và hi vọng mọi thứ đã qua sẽ trôi đi như nước chảy qua cầu.
Họ nhanh chóng “tha thứ và quên đi” – và mong muốn người khác cũng làm như vậy – bởi vì họ sống trong thời điểm này chứ không phải là ở trong quá khứ.
Họ có thể trêu chọc người khác một cách “tinh nghịch”, mong người khác đừng ‘xem việc đó quá nghiêm trọng’.
Sanguines có thể được động lực rất lớn, vì họ sẽ nhiệt tình khuyến khích những người khác vào hành động, và họ nhìn thấy những điều tích cực, lạc quan, và sẽ thuyết phục người khác cũng nhìn thấy những điều theo cách đó.
Họ không phải là người là gọn gàng và ngăn nắp. Một số thời điểm nào đó của cuộc sống, ta có thể quan sát thấy họ lập kế hoạch kém hoặc vô tổ chức, hỗn độn.
Tìm kiếm sự chú ý
Họ yêu thích sự chú ý. Họ mong muốn được sự chú ý, và để mọi người khen và khen ngợi. Mọi người đều thích khen, nhưng sanguines sẽ làm theo cách của họ để có được những lời khen.
Họ yêu cầu vui chơi giải trí liên tục, và sẽ phàn nàn về việc bị chán nếu không được giải trí đầy đủ.
Họ sẽ thể hiện khả năng của mình cho những người khác để có được lời khen ngợi.
Họ kịch tính, và sẽ phóng đại để làm cho mọi việc có vẻ cực đoan hơn thực tế họ đang có.
Nếu không có ai chú ý đến họ, họ sẽ xông vào một cuộc trò chuyện hoặc nói điều gì đó để thu hút chú ý. Họ rất khó chịu bị bỏ rơi.
Vai trò
Trong một số quan sát, các thành viên sanguine đóng vai trò hỗ trợ, khuyến khích và vai trò xã hội. Họ sẽ là chất keo để kết dính nhóm lại với nhau.
Tóm lại:
- Kiểu người linh hoạt, hăng hái, sôi nổi. tháo vát và đầy sáng tạo (nhưng chỉ lúc nào người đó hứng thú)
- Luôn hướng về tập thể.
- Luôn sống lạc quan, vui vẻ, cởi mở, thiện chí và ưa dí dỏm
- Tích cực học tập, lao động và công tác xã hội Luôn muốn thay đổi ấn tượng, không chịu được những hoạt động đơn điệu kéo dài.
- Tâm tính thường hay thay đổi nhưng chủ yếu là trạng thái thoải mái, cân bằng.
- Dễ quen, dễ thích nghi
- Những thất bại và những điều khó chịu đối với họ có tính chất nhẹ nhàng.
Những đại điện: Napôlêông, Lécmantốp, Môda.
Những học sinh thuộc kiểu khí chất này là những học sinh:
- Có tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, vui vẻ, dễ ham mê, lạc quan
- Quan hệ rộng rãi, dễ thân, dễ gần
- Trong học tập các em tiếp thu nhanh. mạnh dạn phát biểu ý kiến, rất nổi trong tập thể, thích tham gia hoạt động, dễ di chuyển chú ý;
- Dễ nhìn thấy thiếu sót và dễ tiếp thu phê bình
Nhược điểm của những học sinh có kiểu khí chất này là: nhận thức rộng mà không sâu; thiếu kiên trì, bền bỉ, chóng chán, dễ phân tán sức lực.
2. Kiểu trầm (Phlegmatic) (mạnh, cân bằng, không linh hoạt):
Xung đột làm họ khiếp sợ. Họ không bắt đầu xung đột (có lẽ ngoại trừ trong hoàn cảnh cực), hoặc bị khiêu khích, và cố gắng xoa dịu xung đột khi nó dâng trào. Khi ép buộc phải tranh cãi, họ sẽ rất buồn và đau khổ, tìm kiếm lối thoát chứ không phải tìm kiếm chiến thắng.
Nếu phải đương đầu, họ sẽ thừa nhận họ sai để tránh sự thù địch. Họ không tin vào cái gì mà họ biết rõ.
Họ không mong muốn là “người chiến thắng”. Họ chỉ mong ước sự hòa bình.
Họ cư xử lý tốt; sự nổi loạn chống lại quy tắc đã được thiết lập làm họ cảm thấy không một chút thoải mái. Họ là loại người sẽ nói một câu đầy lo lắng “Chúng ta có thực sự làm được điều này không?” hay “Có thể chúng ta sẽ gặp rắc rối đấy!”.
Họ thực sự, thực sự không muốn là một bận tâm của người khác, và luôn đặt người khác lên trước. Điều này là do một cảm giác bất an sâu xa về việc tự khẳng định bản thân chứ không phải là sự thiếu tự tin, hay một ham muốn tỉnh táo để trở thành một ‘người tốt’.
Họ nhanh chóng xin lỗi cho bất kỳ sai lầm mà họ đã gây ra, và sẽ hy sinh hạnh phúc của riêng mình để đảm bảo rằng những người khác đang hạnh phúc.
Họ thấu cảm và nhận thức đúng về cảm giác của những người mà họ đang tương tác, vì họ không muốn làm tổn thương cảm xúc của người khác.
Họ gặp khó khăn rất lớn khi nói KHÔNG, và sẽ đi cùng với những thứ mà họ không thích làm cho người khác hạnh phúc.
Họ là những người cực kỳ đáng tin cậy; nếu họ đã hứa họ dứt khoát sẽ thực hiện. Họ sợ làm những việc sai trái.
Họ sẽ đổ lỗi cho bản thân nếu có sai lầm xảy ra, ngay cả khi đó là lỗi của người khác, chỉ để làm cho người khác cảm thấy tốt hơn và thoải mái hơn.
Tính do dự, chần chừ
Họ sẽ trì hoãn việc cho những người khác thực hiện sự lựa chọn, và sẽ cảm thấy khó chịu và bị áp lực nếu họ phải tự mình đưa ra quyết định; điều này xuất phát từ sự bất lực của họ trong một vai trò ‘lãnh đạo’.
Họ là những người thuận theo tự nhiên, và làm việc tốt nhất khi được người khác bảo phải làm gì.
Ngôn ngữ của họ nói chung toàn là những cụm từ không chắc chắn như “Tôi nghĩ rằng,”có thể”,”có lẽ”, hoặc “một cái gì đó”. Hãy so sánh “có thể bạn có thể làm được điều X, hoặc một cái gì đó?” với “hãy làm điều X” hoặc “bạn nên làm điều X”.
Thay vì nói hoặc làm những điều sai trái, họ sẽ không nói hay làm gì cả.
Những trở ngại gặp phải trên con đường ổn định của họ sẽ khiến họ tạm dừng lại và bối rối và không chắc chắn cần phải làm gì nữa. Nhiều khả năng họ sẽ đi vòng vòng hơn là đi xuyên qua nó, con đường của họ có thể dễ dàng thay đổi bởi những người khác.
Bình tĩnh.
Người Phlegmatics hướng nội, và thích ở một mình. Tuy nhiên, họ ‘tử tế’, thân thiện hơn, và hướng đến cộng đồng hơn so với người melancholic (ưu tư), khi không không chịu gánh nặng của “chủ nghĩa cầu toàn” và sự phán xét của người khác.
Họ thích dành thời gian với bạn bè, và rất trung thành với những người bạn, gắn bó với họ qua sự lạm dụng ít nhiều và thậm chí thông qua lạm dụng. Điều này là bởi vì họ đặt người khác lên trước, và họ sẽ không từ bỏ ngay cả khi HỌ muốn vì người khác có thể không muốn họ từ bỏ.
Họ thích cuộc sống yên tĩnh và ổn định, không có sự bất ngờ. Họ có thể tương đối tự tin trong những tình huống quen thuộc – nếu không nhất thiết phải quyết đoán – nhưng sẽ hoảng loạn khi được đặt trong những tình huống mới. Họ không tìm kiếm cảm giác mạnh, và tận hưởng lối sống có thể dự đoán được, yên tĩnh, mang tính nghi thức.
Họ rất yên tĩnh, và không dễ dàng chia sẻ những suy nghĩ nội tâm của mình, vì họ sợ sự phán xét và không muốn làm phiền người khác bằng cách bộc lộ bản thân.
Tuy nhiên họ là những người lắng nghe tuyệt vời và chu đáo. Họ sẽ lặng lẽ và lịch sự sẽ chỉ nhận và hấp thụ các cuộc hội thoại của bạn bè. Họ sẽ luôn luôn chú ý, và sẽ cung cấp thông tin phản hồi hỗ trợ chứ không phải là chỉ trích hoặc đưa ra lời khuyên. Họ sẽ làm như thể việc giúp người khác vui là bổn phận của họ.
Bởi vì họ ghét xúc phạm hay làm tổn thương người khác, nên họ thường không bao giờ dùng đến những lời lăng mạ hung dữ hay tấn công. Coi thường hoặc làm tổn thương khác khiến họ cảm thấy xấu, chứ không phải “sức mạnh và trong tầm kiểm soát” hoặc thích thú, vì vậy họ sẽ lo lắng về việc vô tình làm tổn thương người khác.
Họ hầu như không thể hiện cảm xúc. Trong khi người sanguine kêu lớn, cổ vũ và nhảy lên vì niềm vui khi có chút phấn khích thì người phlegmatics không có khả năng thể hiện nhiều hơn một nụ cười hoặc cau mày. Cảm xúc của họ xảy ra chủ yếu ở bên trong.
Họ thiếu “niềm đam mê”, vì cảm xúc của họ chủ yếu là bên trong. Họ thường dựa vào người khác ra lệnh cho họ làm những việc để có được động lực.
Vai trò
Trong một số quan sát, các thành viên phlegmatic luôn vâng lời cấp trên, họ sẽ làm nhiều việc hơn so với những yêu cầu của cấp trên. Họ có thể không nổi bật, nhưng nếu không có họ, công việc sẽ không thể tiến triển.
Tóm lại:
- Thường bình thản và thăng bằng. Luôn thong thả, ung dung, đĩnh đạc, không bao giờ hấp tấp.
- Chín chắn, ít bị kích động. Luôn bình tĩnh giải quyết khó khăn trong cuộc sống. Thực hiện mọi việc chu đáo, thận trọng.
- Thích trật tự, ngăn nắp và hoàn cảnh quen thuộc
- Ít cởi mở, ít biểu hiện rõ rệt các cảm xúc và trạng thái tình cảm
Nhược điểm của kiểu khí chất này là: có tính ỳ và không linh hoạt. Thích nghi chậm với môi trường.
Những đại diện: M.I. Cutudốp, I. Niutơn, nhà thơ A.Crưlốp.
Những em học sinh kiểu khí chất này thường là những học sinh:
- Cần cù, chịu khó, chăm chỉ học tập
- Nhận thức không nhanh nhưng chắc và sâu
- Nghiêm tức trong học tập và có tinh thần trách nhiệm với công việc nhưng phản ứng chậm với những tác động.
Nhược điểm của những học sinh có kiểu khí chất này là:
- Thường có vẻ kín đáo, ít cởi mở, ít chan hòa với bạn bè, với những hoạt động sôi nổi.
- Khi thay đổi giờ học, môn học, sự di chuyển chú ý thường chậm.
- Thiếu linh hoạt, chậm chạp. Thường do dự, bỏ lỡ cơ hội.
3. Kiểu nóng (Choleric ) (mạnh, không cân bằng):
Nói một cách ngắn gọn: Choleric là những người tự hào và hướng ngoại; chi phối (dominant)
Người cholerics là các nhà lãnh đạo và giám đốc. Họ tìm cách kiểm soát được tình huống, tìm cách vượt lên trên, tìm cách để là tốt nhất.
Điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả họ đều hướng để đạt đến đỉnh của các bậc thang của công ty hoặc bất cứ điều gì, hoặc tất cả bọn họ đều muốn có vai trò lãnh đạo, nhưng trong ngày này qua ngày khác, trong tương tác với những người khác, họ có xu hướng tiến tới một người nổi trội.
Họ sử dụng ngôn ngữ mệnh lệnh, chỉ huy, từ ngữ thứ như đơn đặt hàng chứ không phải là yêu cầu. Hãy so sánh “cho tôi xin ly nước” với “Tôi có thể uống nước được chứ?”.
Họ sử dụng từ với sự tự tin và chắc chắn. Hãy so sánh “X là theo cách này” với “có thể X là theo cách này hoặc một cách nào đó khác chăng?”
Họ chắc chắn và mạnh mẽ trong cách tiếp cận vấn đề. Họ tin vào “tình yêu khó khăn”, và cố gắng để “giúp” người khác bằng cách thử thách họ để chứng tỏ bản thân, như chính bản thân họ.
Nếu ai đó cố gắng “giúp đỡ” họ vì cảm thấy họ đáng thương. Họ sẽ nói “không, tôi không đáng thương, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy điều đó”, hoặc cũng có thể giận người khác vì thấy họ đáng thương.
Nếu gặp sự chống đối, họ phản ứng một cách đối đầu để tự bảo vệ mình. Họ không ngừng cố gắng để “chiếm ưu thế” trong mọi tình huống, trong tiềm thức, hoặc bằng cách la lớn hơn và tốt hơn so với những người xung quanh, hoặc hạn chế hơn và do đó tốt nổi trội hơn những đang mất dần sự bình tĩnh.
Họ sẽ “thách thức” người khác một cách hung hãn để người khác phải tôn trọng mình. Họ tin rằng điều quan trọng là phải “chứng minh bản thân”.
Khác với người melancholic, họ có khuynh hướng hay cãi lý. Họ bị điều khiển bởi mong muốn chứng minh bản thân hơn là để đạt đến cái gì đó như chân lý hay sự thỏa hiệp. Họ có thể nói dối để duy trì sự chi phối. Cuộc tranh luận với họ thường là một cuộc chiến của cái tôi hơn là một cuộc tìm kiếm chân lý.
Họ nói những câu đại loại như “nếu ai đó cố gắng để gây rối với tôi, tôi sẽ làm cho họ ước muốn rằng giá mà họ đã không bắt đầu làm điều này với tôi “.
Họ yêu thích sự cạnh tranh….nhưng lại ghét bị thua.
Họ đổ lỗi cho người khác vì những lỗi lầm của họ, thường là vì không để bị mất mặt.
Họ cảm thấy rằng họ có thể xác định và hiểu và tư vấn cho những người khác, nhưng cười với ý nghĩ rằng những người khác có thể làm tương tự như họ. Điều này là do họ xác định vị trí của họ cao hơn của người khác.
Hướng ngoại
Người cholerics hướng ngoại trong ý nghĩa rằng họ sẽ can thiệp vào những vấn đề của người khác và nói về “tâm trí người khác” nếu họ thấy cần hơn là quan tâm về những công chuyện của bản thân.
Họ thường đáp ứng tốt với hoàn cảnh mới, và thường tìm kiếm cảm giác mạnh.
Họ tìm cách chứng tỏ bản thân ra bên ngoài, để bộc lộ rằng họ là tuyệt vời và tốt nhất và những điều tương tự như thế. Họ nhất thiết phải chứng minh rằng mình rất mạnh mẽ.
Họ nói về tâm trí họ nhưng thường lại không quan tâm đến lời nói của mình.
Niềm tự hào của họ và việc hướng đến sự chi phối, cũng như biểu hiện mở của họ về cảm xúc, một cách tự nhiên sẽ dẫn đến gây hấn ngay khi bị thách thức. Họ sẽ nói lên tiếng nói của họ và tức giận để bộc lộ rằng họ là lớn nhất và mạnh nhất, và để khẳng định sự ưu việt.
Họ khoe khoang và tự hào để bộc lộ họ tuyệt vời như thế nào, trong câu nói kiểu như “Tôi là tốt hơn người khác”.
Họ thực dụng, làm những gì cần phải được thực hiện một cách thẳng thắn hơn là lo lắng về các kịch bản tưởng tượng.
Tự hào
Họ thường tin rằng họ đúng, và rất bướng bỉnh khi thừa nhận sai sót của họ, TRỪ KHI việc thừa nhận những sai sót sẽ làm cho họ được người ta đánh giá họ tốt hơn so với những người khác ( “Tôi đủ mạnh để thừa nhận tôi là sai, không giống như bạn”).
Họ đòi hỏi sự tôn trọng từ những người khác, và sẽ giữ mối hận thù chống lại những người mà họ cho là đối thủ.
Điều quan trọng đối với họ là họ rất mạnh, can đảm và không sợ bất cứ điều gì. Nếu họ sợ, họ sẽ từ chối nó (một lần nữa, trừ khi thừa nhận điều đó sẽ khiến họ trông mạnh mẽ).
Họ thường – nhưng không nhất thiết phải – có lòng tự trọng cao.
Họ có trong nhiều cách trái ngược với người phlegmatic trong kiểm soát, quyết đoán, nhìn thấy xung đột, thách thức và cạnh tranh như một hình thức mong muốn của sự tương tác.
Họ có điểm tương đồng với người melancholic trong đó cả hai đều bướng bỉnh và ngoan cố, nhưng người choleric mạnh mẽ hơn và ‘khó khăn’ so với người melancholic trong sự không chắc chắn và nhạy cảm.
Người cholerics phấn đấu cho độc lập, vì phải phụ thuộc là dựa vào người khác, không được ở vị trí cao. Sự phụ thuộc là sự yếu đuối.
Vai trò
Trong tổ tiên xa xôi của chúng ta, các thành viên choleric là các nhà lãnh đạo. Họ sẽ chỉ huy cấp dưới, và khẳng định sự thống trị của họ sử dụng vũ lực. Nếu thử thách, họ sẽ phản ứng bằng cách giận dữ, lớn hơn, để đe dọa và để chứng minh rằng HỌ là mạnh nhất, phù hợp nhất để dẫn dắt.
Trong xã hội hiện nay, họ thường có xu hướng về vai trò lãnh đạo, chẳng hạn như các nhà quản lý, các chính trị gia, thuyền trưởng, lãnh đạo đội bóng, và như vậy, mặc dù không nhất thiết lúc nào cũng như vậy. Trong tưởng tượng, họ có thể là những chiến binh tự hào, các vị vua đáng kính.
Tóm lại:
- Thường nhanh nhẹn, nóng nảy, ồ ạt
- Rất tích cực, say mê
- Phản ứng mạnh và kiên quyết
- Các rung cảm diễn ra với nhịp điệu nhanh
- Cảm xúc bộc lộ rõ rệt qua nét mặt, ngôn ngữ
- Thường là người thật thà, thẳng thắn, không quanh co.
Tính phản ứng mạnh thường lấn át tính tích cực. Đặc biệt say mê trong công việc nhưng nhiều khi lại mất cân bằng, dễ có những thay đổi đột ngột trong tâm trạng. có những cảm xúc bột phát.
- Dễ bốc, dễ xẹp
- Gay gắt, cục cằn
Các đại diện: A. Puskin, nhà quân sự A.E. Xuvôrốp, nhà cách mạng M. Rôbespie.
Những em học sinh thuộc kiểu khí chất này là những học sinh:
- Hay xung phong nhận nhiệm vụ và quyết tâm làm cho bằng được bất chấp khó khăn.
- Thường là những học sinh hăng hái, đi đầu.
- các em hay hứng thú với những hoạt động có tính chất động.
- Hăng hái, sôi nổi nhưng thiếu kiên trì hay vội vàng, hấp tấp.
- Đối với bạn hay nhiệt tình, hay giúp đỡ nhưng cũng hay cáu gắt khi không vừa ý.
- Dễ bị khích
- Tính tự kiềm chế kém. Hay tự ái, dễ nổi nóng, dễ phát khùng dẫn đến hành động vô tổ chức, vô kỉ luật bất chấp hậu quả.
4. Kiểu ưu tư (Melancholic ) (kiểu thần kinh yếu):
Nói một cách ngắn gọn: Melancholic là người rất nhạy cảm về mặt cảm xúc, theo chủ nghĩa hoàn hảo hướng nội.
Chủ nghĩa hoàn hảo
Các đặc tính xác định thái độ của người melancholic theo chủ nghĩa hoàn hảo. Họ là những người lý tưởng, họ mong muốn cho những thứ theo một cách nào đó, và khi nó không theo cách đó thì họ đau khổ.
Họ giữ bản thân và những người khác theo tiêu chuẩn cao đến mức phi thực tế, và đau khổ khi các tiêu chuẩn này không được đáp ứng.
Điều này dẫn họ đến sự tự ti – bởi vì họ không đáp ứng các tiêu chuẩn riêng của họ – và sự chỉ trích của người khác – bởi vì những người khác này không đáp ứng được các tiêu chuẩn của họ.
Thái độ thường khắc khổ của họ đến từ cuộc đấu tranh nội tâm của họ giữa một thế giới không hoàn hảo và một mong muốn cho sự hoàn hảo.
Họ tò mò và đặt câu hỏi cụ thể để đi đến một sự hiểu biết rõ ràng hơn.
Điều này dẫn họ đến họ trở thành những người lo lắng quá thái.
Họ rất cứng đầu, bởi vì họ cố hết sức để bám vào quan điểm và tiêu chuẩn của sự hoàn hảo, và không dễ dàng chuyển ra khỏi con đường này. Họ không đi theo dòng chảy. Họ phấn đấu cho sự hoàn hảo.
Họ suy nghĩ và kế hoạch trước khi hành động; và sẽ hoảng sợ nếu họ không thể lập kế hoạch trước.
Họ hay tranh luận, bởi vì họ không thể chỉ đơn giản mặc kệ mọi việc nếu mọi việc có vẻ sai. Họ lập luận bằng lý lẽ, bằng chứng, logic, và giải thích, phân tích hoặc biện hộ. Họ chỉ tranh luận để thiết lập phải trái, chứ không phải là để khẳng định sự chi phối.
Họ đáp ứng kém với lời khen ngợi, thường “phản bác” những lời khen bằng cách nói rằng rốt cục họ không phải là tuyệt vời như vậy.
Hướng nội
Người melancholic là người có tính cách hướng nội nhất.
Họ có thể thích dành thời gian với những người khác, nhưng điều này tiêu tốn năng lượng của họ, và họ cần thời gian một mình để nạp lại năng lượng.
Phần lớn hướng nội của họ xuất phát từ tính cầu toàn. Họ là cầu kỳ về các loại người mà họ liên giao; những người đáp ứng được các tiêu chuẩn của họ và chia sẻ quan điểm của họ. Những người mà sẽ không làm cho họ khó chịu; họ không muốn “ai cũng nói chuyện cùng”.
Một khi họ có một người nào đó để nói chuyện trong một môi trường yên tĩnh và thoải mái, họ có thể nói chuyện rất nhiều và sẽ thích thú chia sẻ những suy nghĩ và ý tưởng.
Họ rất thận trọng với việc kết bạn. Không giống như người sanguines, họ cần một thời gian rất dài để họ xem ai đó như một ‘người bạn’, nhưng một khi họ đã đạt đến thời điểm này, họ sẽ có khả năng gắn bó với người đó một cách trung thành.
Họ thích có một vài người bạn thân và rất nhiều người quen.
Họ có thể bị coi là ích kỷ, bởi vì họ thích ở một mình với những suy nghĩ của họ, có những thứ của riêng mình, chứ không phải chia sẻ thời gian hay của cải xã hội với những người khác.
Họ thường rất thích chiếm hữu về những thứ mà họ sở hữu và không muốn cho người khác mượn hoặc sử dụng chúng, vì họ đối xử tốt với những thứ của riêng mình, quan tâm đến tất cả mọi thứ sâu sắc, và sẽ lo lắng rằng những người khác sẽ không chăm sóc những thứ đó tốt như họ.
Họ có thể được mô tả như là “dữ dội”, chứ không phải là “dễ dãi”. Nhạy cảm
Người melancholics rất tình cảm. Họ xúc động trước cái đẹp, và sự khốn cùng. Họ rất dễ bị tổn thương, vì khuynh hướng cầu toàn của họ.
Thường thì tâm trạng của họ cũng giống như tác phẩm điêu khắc kính tinh tế; được xây dựng lên từ từ, cố gắng và cẩn thận, nhưng dễ dàng bị phá vỡ, và khó có thể sửa chữa một khi đã tan vỡ.
Họ phản ứng với những điều mà họ không thích bằng sự đau khổ và nước mắt hơn là giận dữ.
Họ có thể trở nên rất “buồn”, và họ có thể khó tương tác với là vì họ rất dễ bị tổn thương.
Họ không hung dữ, và muốn chạy trốn khỏi những điều làm cho họ căng thẳng.
Vai trò
Trong tổ tiên xa xôi của chúng ta, các thành viên melancholic là các nhà phân tích, những người thu lượm thông tin. Họ do thám các mối nguy hiểm tiềm tàng, hoặc cho thức ăn, và báo cáo lại cho các chủ nhân. Những phát hiện của họ, càng chính xác càng tốt; điều này dẫn đến một xu hướng cầu toàn, các nhà phân tích càng hoàn hảo càng sống sót tốt hơn so với những người lầm lỗi cẩu thả.
Trong xã hội chúng ta, họ thường có vai trò phân tích như các nhà khoa học, các nhà phân tích, người làm chương trình, nhà logic học và v.v.
Tóm lại:
- Kiểu người có thiên hướng ngẫm nghĩ sâu
- Nhạy cảm, đa sầu. đa cảm
- ít cởi mở, dễ bị ức chế, dễ bi quan, lo lắng, dễ bị mếch lòng, hay nghĩ ngợi một cách ốm yếu.
- Lúng túng, vụng về trong hoàn cảnh mới
Theo Páplốp, những người thuộc kiểu khí chất này là loại người có “tính đau khổ” cao.
Những đại diện: Gôgôn, P.I. Traicốpxki.
Những học sinh thuộc kiểu khí chất này là những học sinh:
- Bề ngoài uỷ mị, yếu đuối, hay lo lắng
- Rụt rè, nhút nhát hay tự ti, khép kín
- Nhận thức chậm nhưng sâu sắc
- Suy nghĩ chín chắn, biết nhìn xa trông rộng
- Giàu ấn tượng, nhạy bén, tinh tế
- Xa lánh/ không thích những hoạt động náo nhiệt Đặc điểm nổi bật là hiền dịu, dễ cảm thông với mọi người
- Tình cảm tế nhị, bền vững
- Thường mơ mộng, đắm chìm trong thế giới nội tâm
- Kiên trì chịu đựng, khắc phục khó khăn. Trong hoàn cảnh quen thuộc, bình thường họ làm việc tốt, đạt kết quả cao.
IV. Trắc nghiệm kiểm tra tính khí (khí chất)
Trắc nghiệm tính khí (nguồn: Topica)
Bạn là người hướng nội hay hướng ngoại?
Bạn có muốn biết mình thuộc người hướng nội hay hướng ngoại? Hay mình thuộc Tính khí gì? Hãy đọc kỹ 57 câu hỏi dưới đây. Nếu thấy câu nào đúng với bản thân bạn thì ghi dấu “+”, còn nếu câu nào không đúng với bản thân thì ghi dấu “–” vào phần lựa chọn trong bảng dưới đây. Hãy trả lời một cách trung thực, không bỏ quãng. Nếu bạn gặp những câu không quen thuộc, hãy cứ trả lời theo ý bạn. Hãy trả lời theo những ý nghĩ nảy sinh trong đầu trước tiên vì ở đây không có câu trả lời nào có hàm ý là tốt hay xấu.
CÁCH CHẤM ĐIỂM
– Chấm điểm theo cách (A):
- Với những câu trả lời là có (+), cho 1 điểm với những câu sau đây: 1, 3, 8, 10, 13, 17, 22, 25, 27, 39, 44, 46, 49, 53, 56.
- Với những câu trả lời là không (–), cho 1 điểm với những câu sau đây: 5, 15, 20, 29, 32, 34, 37, 41, 51.
– Chấm điểm theo cách (B):
- Cho mỗi câu 1 điểm, nếu trả lời là có (+), không cho điểm nào(0 điểm) nếu câu trả lời là không (–) với các câu sau đây: 2, 4, 7, 9, 11, 14, 16, 19, 21, 23, 26, 28, 31, 33, 35, 38, 40, 43, 45, 47, 50, 52, 55, 57.
– Chấm điểm theo cách (C):
- Với những câu trả lời là có (+), cho mỗi câu 1 điểm với những câu sau đây: 6, 24, 36.
- Với những câu trả lời là không (–), cho mỗi câu 1 điểm với những câu sau đây: 12, 18, 30, 42, 48, 54.
CÁCH ĐÁNH GIÁ
– Để tìm hiểu Tính khí:
Sử dụng các điểm số thuộc cách chấm (A) và (B).
Số điểm của cách chấm (A) nói lên mức độ hướng ngoại và hướng nội của bạn. Nếu tổng số điểm mục này lớn hơn 12 thì bạn là người hướng ngoại, còn nhỏ hơn 12 thì bạn là người hướng nội.
Số điểm cách chấm (B) nói lên bạn thuộc loại tâm lý ổn định (điềm tĩnh) hay không ổn định (hay phản ứng mạnh). Nếu điểm cách chấm (B) từ 0 đến 12 thì bạn thuộc loại điềm tĩnh, còn điểm cách chấm (B) từ 12 đến 24 thì bạn thuộc phản ứng mạnh.
– Để kiểm tra Tính trung thực:
Sử dụng số điểm của cách chấm (C). Nếu tổng số điểm của cách chấm (C) lớn hơn 4 có nghĩa là bạn trả lời không hoàn toàn trung thực với bản thân mình, và tờ phiếu trả lời coi như không có giá trị.
– Để tìm hiểu khí chất:
Tính số điểm cách chấm (A), rồi xác định nó trên trục “hướng nội, hướng ngoại” ở hình dưới. Tính tổng số điểm ở cách chấm (B), rồi xác định nó trên trục “ổn định – không ổn định” trong hình vẽ. Tìm tọa độ 2 điểm trên, xem nó rơi vào góc vuông nào thì khí chất đặc trưng của bạn là vậy.
V. Ý nghĩa của các kiểu khí chất
Khí chất có cơ sở thần kinh nhưng mang bản chất xã hội, chịu sự chi phối của đặc điểm xã hội, biến đổi do rèn luyện và giáo dục.
Không có kiểu khí chất tốt, kiểu khí chất xấu, chúng bổ sung cho nhau và còn phụ thuộc vào tính cách của cá nhân. Ít có một con người chỉ có một khí chất thuần nhất, thông thường là kiểu khí chất hỗn hợp có các tỷ lệ khác nhau.
(Nguồn: tổng hợp)
5/5 – (1 bình chọn)