Cách làm bài văn nghị luận văn học và nghị luận xã hội
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.74 KB, 16 trang )
Nội dung chính
- Cách làm bài văn nghị luận văn học và nghị luận xã hội
- Văn nghị luận là gì, các dạng văn nghị luận thường gặp
- Văn nghị luận : Khái niệm văn nghị luận là gì và cách làm bài đạt điểm cao
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
- Dàn ý phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
- Dàn ý phân tích nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng
- Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Nghị Luận Văn Học Là Gì ?
- Một số yêu cầu chung cần nắm khi viết một bài văn nghị luận
- I. Khái niệm, mục đích, đặc điểm cơ bản của Văn nghị luận
- 1. Khái niệm
- 2. Mục đích
- 3. Đặc điểm
- Video liên quan
CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC VÀ NGHỊ
LUẬN XÃ HỘI
Văn nghị luận là một loại văn phổ biến sử dụng trong nhà trường hiện nay. Văn
nghị luận có tính khoa học, và đòi hỏi tư duy cao nhất nhằm kiểm tra khả năng
phân tích, tổng hợp và tư duy khoa học của học sinh mà vẫn đánh giá được ở
học sinh khả năng diễn đạt và cảm thụ.
Có 2 dạng nghị luận: Nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
Trong đó, nghị luận văn học dường như gây khó dễ cho học sinh hơn cả, bởi lẽ
học sinh từ trước tới nay dựa dẫm quen vào văn mẫu, ít có tư duy của riêng
mình, đặc biệt là nghị luận xã hội thì rất phong phú, không bị cố định như NLVH.
Dưới đây là những kiến thức cần thiết cho học sinh về kiểu bài văn nghị luận phổ
biến trong nhà trường: nghị luận văn học và nghị luận xã hội nhằm nâng cao kỹ
năng viết văn của bản thân.
A. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
1. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
a. Các dạng bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học và cách lập ý
– Nghị luận về văn học sử
Ví dụ:
Đề 1. Anh (chị) hãy phân tích và làm sáng tỏ mọi đặc điểm cơ bản của văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954: Chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn.
Đề 2. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: “Nhìn chung văn học Việt Nam
phong phú, đa dạng; nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dòng chính, quần
thông kim cổ, thì đó là văn học yêu nước” (Dẫn theo Trần Văn Giàu tuyển tập,
NXB Giáo dục, 2010).
Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) với ý kiến trên (Ngữ văn 12, tập một tr.91).
Nghị luận về văn học sử thường là các ý kiến bàn bạc, nhận định, khái quát
chung về văn học Việt Nam, về các giai đoạn văn học, về các tác giả văn học,…
Để lập ý cho bài văn viết, học sinh cần nắm được các yếu tố về hoàn cảnh lịch
sử của giai đoạn văn học hoặc đặc điểm thời đại và hoàn cảnh sống của tác giả,
lí giải được tại sao có những đặc điểm đó, nêu những biểu hiện của đặc điểm đó
trong các tác phẩm, thấy đóng góp của vấn đề trong tiến trình phát triển của văn
học.
– Nghị luận về lí luận văn học
Ví dụ:
Đề 1. Bàn về truyện ngắn, có người viết: “Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện
ngắn, là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn
ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết” (Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Giáo dục, 1992, tr.253).
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến trên?
Đề 2. Bàn về đọc sách, nhất là đọc tác phẩm văn học lớn, người xưa nói: “Tuổi
trẻ đọc sách như nhìn trăng qua cái kẽ, lớn tuổi đọc sách như ngắm trăng ngoài
sân, tuổi già đọc sách như thưởng trăng trên đài” (Dẫn theo Lâm Ngữ Đường,
sống đẹp, Nguyễn Hiền Lê dịch, NXB Tao đàn, Sài Gòn, 1965).
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? (Ngữ văn 12, tập một, tr.1965).
Nghị luận về lí luận văn học thường là các ý kiến bàn về những đặc trưng cơ
bản của văn học, các thể loại tiêu biểu như truyện, thơ, kịch,… các vấn đề thuộc
phạm vi lí luận văn học như tiếp nhận văn học, phong cách nghệ thuật,… Để lập
ý cho bài viết, học sinh cần xác định rõ vấn đề nghị luận, bàn đến vấn đề gì,
thuộc phạm vi nào? Tại sao lại nói như thế? Nội dung ấy được biểu hiện như thế
nào qua tác phẩm văn học tiêu biểu?
– Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn học
Ví dụ:
Đề 1. Trong truyện Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi có nêu lên quan
niệm: Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi
trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, “mà biển thì rộng lắm […],
rộng bằng cả nước ra và ra ngoài cả nước ta”.
Anh (chỉ) có cho rằng, trong thiên truyện của Nguyễn Thi quả đã có một dòng
sông truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha,
cho đến lớp người đi sau: Chị em Chiến, Việt (Ngữ văn 12, tập hai, tr.68)
Đề 2. Trong đoạn trích Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng),
Nguyễn Khoa Điềm viết:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Có thể nói hai câu thơ trên đã thể hiện tập trung những đặc sắc nổi bật về nội
dung và nghệ thuật của đoạn trích. Qua sự phân tích đoạn thơ, anh (chị) hãy làm
sáng tỏ điều đó.
Nghị luận về vấn đề trong tác phẩm văn học: Thường là các ý kiến đánh giá,
nhận xét về một khía cạnh nào đó của tác phẩm như những giá trị nội dung,
những đặc sắc nghệ thuật, những quy luật, khám phá, chiêm nghiệm về đời
sống toát lên từ tác phẩm, những nhận xét về các nhân vật,… Để lập ý, học sinh
cần hiểu kĩ, hiểu sâu về tác phẩm, biết cách huy động kiến thức để làm sáng tỏ
vấn đề. Cụ thể như: nêu xuất xứ của vấn đề (Xuất hiện ở phần nào của tác
phẩm? Ai nói? Nói trong hoàn cảnh nào?,…), phân tích những biểu hiện cụ thể
của vấn đề (Được biểu hiện như thế nào? Những dẫn chứng cụ thể để chứng
minh,…). Từ đó đánh giá ý nghĩa của vấn đề trong việc tạo nên giá trị của tác
phẩm văn học.
b. Cách lập dàn ý
Tùy theo đối tượng và phạm vi các vấn đề được đưa ra bàn bạc mà có thể có
các cách triển khai khác nhau. Tuy vậy, mục đích của bài học vẫn phải là hướng
đến việc rèn luyện các kĩ năng tạo dựng một bài văn bản nghị luận nên nội dung
có thể hết sức phong phú nhưng người viết vẫn phải tuân theo những thao tác
và các bước cơ bản của văn nghị luận. Có thể khái quát mô hình chung để triển
khai bài viết như sau:
• Mở bài:
– Dẫn dắt vấn đề.
– Nêu xuất xứ và trích dẫn ý kiến.
– Giới hạn phạm vi tư liệu.
• Thân bài:
– Giải thích, làm rõ vấn đề:
+ Giải thích, cắt nghĩa các từ, cụm từ có nghĩa khái quát hoặc hàm ẩn trong đề
bài. Để tạo chất văn, gây hứng thú cho người viết, những đề văn thường có
cách diễn đạt ấn tượng, làm lạ hóa những vấn đề quen thuộc. Nhiệm vụ của
người làm bài là phải tường minh, cụ thể hóa những vấn đề ấy để từ đó triển
khai bài viết.
+ Sau khi cắt nghĩa các từ ngữ cần thiết cần phải giải thích, làm rõ nội dung của
vấn đề cần bàn luận. Thường trả lời các câu hỏi: Ý kiến trên đề cập đến vấn đề
gì? Câu nói ất có ý nghĩa như thế nào?
– Bàn bạc, khẳng định vấn đề. Có thể lập luận theo cách sau:
+ Khẳng định ý kiến đó đúng hay sai? Mức độ đúng sai như thế nào?
+ Lí giải tại sao lại nhận xét như thế? Căn cứ vào đâu để có thể khẳng định
được như vậy?
+ Điều đó được thể hiện cụ thể như thế nào trong tác phẩm, trong văn học và
trong cuộc sống?
– Mở rộng, nâng cao, đánh giá ý nghĩa của vấn đề đó với cuộc sống, với văn
học.
• Kết bài:
+ Khẳng định lại tính chất đúng đắn của vấn đề.
+ Rút ra những điều đáng ghi nhớ và tâm niệm cho bản thân từ vấn đề.
2. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
a. Các dạng bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ và cách lập ý
– Đối tượng của bài văn nghị luận về thơ rất đa dạng: Có thể là một đoạn thơ, bài
thơ, một hình tượng, có thể là giá trị chung của đoạn thơ, bài thơ, có thể chỉ là
một khía cạnh, một phương diện nội dung hoặc nghệ thuật.
Ví dụ:
Đề 1. Hãy phân tích khổ thơ sau trong bài Tràng giang của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Ngữ văn 12, tập một)
Đề 2. Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh.
Đề 3. Tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” trong đoạn thơ:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chống yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chin con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiêng
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạn Long thành thắng cảnh
Người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
(Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước, trích trường ca Mặt đường khát vọng)
Đề 4. Cảm nhận của em về vẻ đẹp lãng mạn và chất bi tráng của hình ảnh người
lính Tây Tiến.
– Các bước tìm ý, lập ý cho làm bài vưn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ:
+ Đọc kỹ bài thơ, đoạn thơ, đi vào tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp
điệu, câu từ… của bài thơ, đoạn thơ đó; rút ra những nét đặc sắc về nội dung,
nghệ thuật, làm cơ sở để nêu nhận xét đánh giá.
+ Nêu nhận xét, đánh giá về bài thơ, đoạn thơ.
+ Sử dụng luận cứ để thuyết phục người đọc về nhận xét của mình.
b. Cách lập dàn ý
Đảm bảo bố cục: 3 phần
– Mở bài: Giới thiệu khái quát đoạn thơ, bài thơ và vấn đề cần nghị luận.
– Thân bài: Bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
– Kết bài: Đánh giá chung về đoạn thơ, bài thơ.
c. Một vài lưu ý
– Khi làm bài nghị luận về một đoạn thơ, cần đặt đoạn thơ trong chỉnh thể toàn
bài.
– Để tìm được những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật làm cơ sở, đề nêu
nhận xét, đánh giá phải nắm vững đặc điểm của thơ: Thơ là tiếng nói của xúc
cảm, tình cảm mãnh liệt, của sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú; ngôn ngữ
thơ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Đọc thơ và nhận xét đánh giá
tác phẩm thơ cần nhận biết cái đẹp, cái độc đáo của ngôn từ, hình ảnh, nhạc
điệu, tứ thơ, ý thơ,…
Ví dụ: Đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là đến với vẻ đẹp độc đáo của hình
tượng sóng qua ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu và kết cấu sóng đôi của hai hình
thượng sóng và em. Từ đó, khám phá vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình
yêu qua cách thể hiện độc đáo của Xuân Quỳnh.
Tứ thơ độc đáo khiến bài thơ có sức ám ảnh đối với người đọc. Sức hấp dẫn
của Đò Lèn (Nguyễn Duy) chính là ở cấu tứ bài thơ. Tái hiện hai không gian hư –
thực với hình ảnh người bà lam lũ, tần tảo và tiên, Phật, thánh, thần trong dòng
kỉ niệm của nhân vật trữ tình, nhà thơ đem đến cho người đọc những chiêm
nghiệm thấm thía, sâu sắc về giá trị đích thực, thiêng liêng của cuộc sông. Sự
vận động của tứ thơ thể hiện sự vận động của nhận thức trong dòng sông cuộc
đời vô cùng, vô hạn.
Lời kể từ của một bài thơ cũng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tìm hiểu
văn bản. Bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên là tiếng hát của một hồn
thơ được hồi sinh bởi Ánh sáng và phù sa của cuộc đời. Bài thơ thể hiện những
dòng suy nghĩ sâu sắc của người nghệ sĩ về mối quan hệ với đất nước, nhân
dân và chiêm nghiệm về cuộc sống và nghệ thuật. Ý tưởng sâu sắc của bài thơ
đã được thể hiện ngay ở khổ thơ đề từ. Tìm hiểu khổ thơ đề từ là mở ra cánh
cửa để đến với thế giới nghệ thuật của bài thơ.
Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ cũng góp phần làm nên vẻ đẹp độc đáo của
bài thơ. Tim hiểu Việt Bắc không thể bỏ qua cách sử dụng đại từ mình, ta rất
thành công của Tố Hữu. Hai đại từ mình, ta song song đi suốt từ đầu đến cuối
bài thơ được sử dụng khéo léo trong hình thức đối đáp, tâm tình; vừa góp phần
tạo nên một hình thức thơ nhuần nhị, sâu lắng mang hồn dân gian, dân tộc, vừa
thể hiện được một cách thấm thía nghĩa tình cách mạng chung thủy, sắt son.
– Khi nêu nhận xét, đánh giá về tác phẩm thơ cần quan tâm đến vai trò của chủ
thể sáng tạo trong quá trình sáng tác (vấn đề tài năng và tâm hồn người nghệ sĩ)
và vai trò của bạn đọc trong quá trình tiếp nhận; sức sống của bài thơ là ở trong
trái tim, tâm hồn bạn đọc.
Ví dụ:
Để nhận xét, đánh giá bài thơ Tiếng hát con tàu trước hết phải hiểu được hành
trình tư tưởng của Chế Lan Viên (“từ chân trời của một người tới chân trời tất cả,
từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”) và nám được phong cách nghệ
thuật của ông (chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và thế giới hình ảnh
phong phú được sáng tạo bởi ngòi bút thông minh tài hoa).
Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu viết về một sự kiện chính trị có tính thời sự nhưng
chạm tới phần sâu thẳm trong tâm linh mỗi con người bởi thơ Tố Hữu mang tính
chất trữ tình chính trị sâu sắc; giọng thơ tâm tình rất tự nhiên, đằm thắm, chân
thành.
3. Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
a. Các dạng bài nghị luận về đoạn trích,tác phẩm văn xuôi và cách lập dàn
ý
Đối tượng nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi rất đa dạng. Có
thể là giá trị nội dung và nghệ thuật nói chung, có thể chỉ là một phương diện,
thậm chí một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật của một tác phẩm, của các tác
phẩm, đoạn trích khác nhau.
– Nghị luận về giá trị nội dung tác phẩm, đoạn trích
Ví dụ:
Đề 1. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài).
Đề 2. Bức tranh ngày đói và ý nghĩa tố cáo trong Vợ nhặt (Kim Lân).
Nghị luận về giá trị nội dung thường xoay quanh hai giá trị cơ bản là giá trị nhân
đạo, giá trị hiện thực. Học sinh cần bám vào các biểu hiện của giá trị nhân đạo
(trân trọng đề cao, ngợi ca, bênh vực phẩm chất tốt đẹp, cảm thông, chia sẻ với
nỗi đau khổ bất hạnh của con người, lên án tố cáo thế lực áp bức trong xã hội,
…) và giá trị hiện thực (tính chân thật, sâu sắc, mức độ điển hình trong miêu tả
và phản ánh tực tại cuộc sống,…) để lập ý cho bài viết.
– Nghị luận về giá trị nghệ thuật
Ví dụ:
Đề 1. Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
và Vợ nhặt để làm rõ vai trò của việc xây dựng tình huống trong truyện ngắn.
Đề 2. Nghệ thuật châm biếm, đả kích trong truyện ngắn “Vi hành” (Nguyễn Ái
Quốc).
Nghị luận về giá trị nghệ thuật thường bàn về các đặc điểm thể loại văn xuôi và
giá trị chúng như: cách xây dựng cốt truyện, tình huống, nhân vật, điểm nhìn trần
thuật, ngôn ngữ kể chuyện, giọng điệu trần thuật, chi tiết nghệ thuật,…
– Nghị luận về một nhân vật
Ví dụ:
Đề 1. Vai trò của người “vợ nhặt” trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Kim
Lân.
Đề 2. Hình ảnh bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội (Nguyễn Khải).
Nghị luận về một nhân vật có nội dung xoay quanh các biểu hiện về phẩm chất,
lối sống, tư tưởng của nhân vật, trên cơ sở đó có những đánh giá về vai trò ý
nghĩa của nhân vật trong việc thể hiện chủ đề về tác phẩm, về thành công trong
việc xây dựng nhân vật của tác giả.
– Nghị luận về một giá trị nội dung, nghệ thuật, một phương diện hay một khía
cạnh của nhiều tác phẩm, đoạn trích khác nhau.
Ví dụ:
Đề 1. Tính thống nhất và sự vận động trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân qua hai tác phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò Sông Đà.
Đề 2. So sánh vẻ đẹp hai dòng sông qua hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà và
Ai đă đặt tên cho dòng sông? Để thấy nét riêng trong phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường.
– Nghị luận về một giá trị nội dung, nghệ thuật, một phương diện hay một khía
cạnh của nhiều tác phẩm, đoạn trích khác nhau yêu cầu chỉ ra nét chung và nét
riêng trên cơ sở một số tiêu chí về nội dung và nghệ thuật cho hợp lí.
b. Cách lập dàn ý
Đảm bảo bố cục 3 phần:
– Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận.
– Thân bài: Mỗi ý kiến nhận xét về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của đoạn
trích hay tác phẩm triển khai thành một luận điểm. Trong từng luận điểm sử dụng
các luận cứ (lí lẽ và dẫn chứng) làm sáng tỏ.
– Kết bài: Đánh giá về ý nghĩa, vị trí, vai trò của tác phẩm trong sự nghiệp tác giả,
trong giai đoạn văn học, đối với thời đại; vị trí, ý nghĩa của đoạn trich trong toàn
tác phẩm, hoặc của vấn đề nghị luận.
c. Lưu ý
– Các bước tiến hành làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn
xuôi:
+ Đọc kĩ tác phẩm, đoạn trích, nắm chắc nội dung, cốt truyện, các nhân vật, các
chi tiết tiêu biểu thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm.
+ Nêu nhận xét, đánh giá về tác phẩm, đoạn trích theo định hướng của đề hoặc
một số khía cạnh đặc sắc nhất của tác phẩm, đoạn trích.
+ Triển khai các luận cứ phù hợp.
+ Lựa chọn các thao tác lập luận: Ngoài các thao tác thường gặp như giải thích,
phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận, … trong bài văn
nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi rất cần kết hợp các phương thức
biểu đạt tự sự (thuật kể tóm tắt nội dung, cốt truyện, nhân vật, chi tiết,…), miêu
tả, thuyết minh.
– Khi làm kiểu bài này, học sinh hay rơi vào thuật, kể lại chi tiết mà thiếu sự phân
tích, đánh giá cụ thể trên cơ sở khoa học – hiểu văn bản. Để tránh đưa ra những
ý kiến chung chung, người viết cần nắm chắc đặc trưng của văn bản truyện.
Đồng thời phải biết kể lại tình huống truyện, nhớ chính xác những từ ngữ quan
trọng miêu tả đặc điểm nhân vật, thuật lại những chi tiết nghệ thuật đắt giá, thuộc
được những câu văn hay, đặc sắc,… Chỉ như thế, người viết mới có thể nêu ra
nhận định cụ thể, thuyết phục. Đây cũng là điểm riêng làm nên độ khó nhất định
của kiểu bài nghị luận một tác phẩm hay đoạn trích văn xuôi so với nghị luận về
một đoạn thơ, bài thơ.
– Nếu đề bài trích dẫn cả đoạn văn ngắn cần phân tích, học sinh phải biết vận
dụng hiểu biết tác phẩm, tác giả để đọc ra được nội dung của đoạn thông qua
cách kể chuyện, cách sử dụng chi tiết, cách xây dựng nhân vật, các biện pháp tu
từ,… Nhất thiết phải đặt đoạn văn trong chỉnh thể tác phẩm mới có những đánh
giá xác đáng về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
4.Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
a. Các dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Các vấn đề có ý nghĩa được đưa ra trong tác phẩm văn học được đưa ra từ hai
nguồn chính:
– Từ các tác phẩm văn học đã được học trong chương trình.
– Từ các mẩu truyện nhỏ hoặc những văn bản ngắn gọn học sinh có thể chưa
được học nhưng tương đối dễ tiếp nhận.
Ví dụ:
Đề 1. Triết lí vê việc đỗ, trượt trong thi cử của thân phụ Đặng Huy Trứ (văn bản
Cha tôi trong Ngữ văn 11 Nâng cao) gợi cho anh chị suy nghĩ gì về việc thi cử
của bản thân?
Đề 2. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, nhân vật
Trương Ba nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn”.
Câu nói trên để lại cho anh (chị) những suy nghĩ gì?
Đề 3. Từ bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến, nghĩ về danh và thực trong xã
hội chúng ta ngày nay.
Đề 4. Bài thơ Tôi yêu em của Pu-skin và những suy nghĩ của anh (chị) về một
tình yêu tuyệt đẹp.
Đề 5. Suy nghĩ của anh (chị) từ câu chuyện sau:
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh
sống cách chỗ anh khoảng 300 kilomet. Khi bước ra khỏi xe anh thấy một bé gái
đang đứng khóc trên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.
– Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu – nó khóc nức nở –
nhưng cháu chỉ có bảy mươi lăm xu trong khi giá hoa hồng lên đến hai đô la.
Anh mỉm cười và nói với nó:
– Đến đây, chú sẽ mua cho cháu.
Anh liền mua hoa cho cô bé và đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi,
anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhìn anh và trả lời:
– Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu.
Rồi nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa
mới đắp. Nó chỉ ngôi mộ và nói:
– Đây là nhà của mẹ cháu.
Nói xong nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ.
Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ mua hoa vừa rồi và mua một
bó hoa hồng thật đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch 300 kilomet về nhà mẹ
anh để trao tận tay bà bó hoa.
Để làm tốt dạng bài này, học sinh trước hết phải đọc kĩ văn bản, xác định đúng
vấn đề nghị luận, từ đó vận dụng kiến thức và sự hiểu biết về đời sống xã hội,
những kinh nghiệm và sự trải nghiệm của chinh bản thân để làm bài. Bài viết có
thể được lập với hai phần lớn:
– Nêu và phân tích ngắn gọn vấn đề được đặt ra trong tác phẩm.
– Phát biểu nhứng suy nghĩ và tình cảm của mình về vấn đề đó nhân đọc tác
phẩm.
b. Cách lập dàn ý
Đảm bảo bố cục 3 phần:
– Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm có vấn đề nghị luận.
+ Giới thiệu vấn đề được đưa ra bàn bạc.
– Thân bài:
+ Nêu vấn đề được đặt ra trong tác phẩm văn học, phần này người viết phải vận
dụng kĩ năng đọc – hiểu văn bản để trả lời các câu hỏi: Vấn đề đó là gì? Được
thể hiện như thế nào trong tác phẩm? Cần nhớ, tác phẩm văn học chỉ là cái cớ
để nhân ý kiến đó mà bàn bạc, nghị luận về vấn đề xã hội, vì thế không nên đi
quá sâu vào việc phân tích tác phẩm mà chủ yếu rút ra ý nghĩa khái quát để bàn
bạc vấn đề có ý nghĩa xã hội.
+ Từ vấn đề được rút ra, người viết tiến hành làm bài nghị luận xã hội, nêu
những suy nghĩ của bản thân mình về vấn đề ấy. Học sinh nên tham khảo lại
cách thức làm bài nghị luận xã hội (về tư tưởng đạo lí, về một hiện tượng của
đời sống) để làm tốt phần này.
– Kết bài:
+ Khẳng định ý nghĩa của vấn đề trong việc tạo nên giá trị của tác phẩm.
+ Từ vấn đề được bàn luận rút ra bài học cho bản thân.
B. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
I. Các dạng bài văn nghị luận xã hội và thao tác làm một bào văn nghị luận
xã hội
1. Các dạng bài văn nghị luận xã hội
– NLXH thường là những vấn đề rất rộng của đời sống, học sinh lại thiếu hiểu
biết xã hội, nên không có vốn để viết.
– NLXH hay có những câu danh ngôn, định nghĩa, khái niệm, nên chúng thường
rất trừu tượng, học sinh sẽ gặp khó khăn khi phải hiểu, phải lý giải được ý nghĩa
của nó, ngay từ bước đầu đã vướng phải những vấn đề “khó nuốt” như vậy
huống hồ phải triển khai thành bài văn với hệ thống ý chặt chẽ, kín kẽ, thuyết
phục
– NLXH cần ở học sinh sự linh hoạt trong nhận thức vấn đề, và từ nhận thức đi
đến trình bày cái hiểu là cả 1 quá trình, để áp dụng và diễn đạt những cái mình
hiểu đâu phải chuyện dễ dàng gì với nhiều học sinh.
Chính vì thế nhiều em đã dở khóc dở cười với văn NLXH, trong khi áp lực của
thi cử và các bài kiểm tra luôn đè nặng lên các em. Thực ra, ở Trung Quốc và
nhiều nước phương Tây đã có những đề mở này từ rất lâu và áp dụng trong kỳ
thi tốt nghiệp và ĐH. Nên việc các em phải tập làm quen với văn nghị luận XH là
1 yêu cầu cần thiết, và các em phải tập với hình thức tư duy của dạng đề này.
* Khi bắt gặp 1 đề NLXH, các em phải tự đặt ra cho mình 2 câu hỏi và phải
tự trả lời 2 câu hỏi ấy:
1/ Đề yêu cầu nội dung nghị luận về chủ đề gì?
2/ Thao tác nghị luận chính dùng để nghị luận trong quá trình viết để đáp ứng
yêu cầu của đề là gì?
* Các chủ đề quen thuộc của văn nghị luận XH:
– Đạo dức – nhân sinh.
– Tư tưởng văn hoá.
– Lịch sử.
– Kinh tế.
– Chính trị.
– Địa lý, môi trường.
* Các thao tác chính hay dùng: Chứng minh, Giải thích, Bình luận.
=> Đề ra thường vừa yêu cầu về kiến thức (nằm ở các chủ đề khác nhau), vừa
yêu cầu về kĩ năng (nằm ở các thao tác yêu cầu cần thực hiện). Nên các em vừa
phải chịu học để bổ sung kiến thức cho phong phú, vừa phải rèn luyện các kĩ
năng để thực hiện thao tác nghị luận cho đúng phương pháp.
– Về mặt kiến thức, buộc các em phải tự trang bị, vì không có 1 loại biện pháp
vạn năng giúp nhét kiến thức vào đầu các em, mà đó phải là 1 quá trình tích luỹ
dần dần, đồng thời phải có ý thức học kiến thức trên nhà trường 1 cách đầy đủ.
Ở đây, chúng ta chỉ có thể bàn về yêu cầu phương pháp.
Đề bài thường yêu cầu các em phải làm theo 1 thao tác chủ yếu: giải thích,
chứng minh hay bình luận.
2. Các thao tác của một bài văn NLXH
2.1. Giải thích:
+ Yêu cầu đặt ra:
Đi sâu vào những phát ngôn rất súc tích để tìm hiểu và lý giải nội dung ý nghĩa
bên trong. Tức là ta phải làm sáng tỏ, giảng giải, bóc tách vấn đề cho người đọc
hiểu được thấu đáo cái đang được đề cập khi chúng còn đang mơ hồ.
+ Công việc cụ thể:
Để làm sáng tỏ vấn đề, ta phải đi vào lý giải từ ngữ, điển tích, khái niệm, đi vào
nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng, đi vào những cách nói tế nhị
bóng bẩy để hiểu được đến nơi đến chốn điều người ta muốn và cái lẽ khiến
người ta nói như vậy.
Trong thao tác giải thích, ta vừa dùng lý lẽ để phân tích, lý giải là chủ yếu; vừa
dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, xác lập 1 cách hiểu đúng đắn, sâu sắc
có tính biện chứng nhằm chống lại cách hiểu sai, hiểu không đầy đủ, không hết
ý.
Bước kết thúc của thao tác giải thích là rút ra điều chúng ta cần vận dụng khi đã
tìm hiểu được chân lý. Phương hướng để vận dụng những chân lý này vào cuộc
sống hàng ngày, tuỳ theo cho cá thể hay cho cộng đồng mà có hướng vận dụng
phù hợp, và mỗi chúng ta phải như thế nào?
=> Từ những điều nói trên, ta rút ra 1 sơ đồ tổng quát theo 3 bước:
– Làm sáng tỏ điều mà người ta muốn nói.(giải thích)
– Trả lời vì sao người ta đã nói như vậy?(tại sao?)
– Từ chân lý được nói lên, rút ra bài học gì trong thực tiễn?(để làm gì)
2.2. Chứng minh:
+ Yêu cầu đặt ra:
Làm sáng tỏ chân lý bằng các dẫn chứng và lý lẽ. Khi ta đã chấp nhận cái chân
lý thể hiện trong 1 phát ngôn nào đó, nhiệm vụ là ta sẽ phải thuyết phục người
khác cũng chấp nhận như mình = những dẫn chứng rút ra từ thực tế cuộc sống
xưa và nay, từ lịc sử, từ văn học (nếu đề yêu cầu) và kèm theo dẫn chứng là
những lý lẽ dẫn dắt, phân tích tạo ra lập luận vững chắc, mang đến niềm tin cho
người đọc.
+ Công việc cụ thể:
Bước đầu tiên là phải tìm hiểu điều cần phải chứng minh , không những chỉ bản
thân mình hiểu, mà còn phải làm cho người khác thống nhất, đồng tình với mình
cách hiểu đúng nhất.
Tiếp theo là việc lựa chọn dẫn chứng. Từ thực tế cuộc sống rộng lớn, tư liệu lịch
sử rất phong phú, ta phải tìm & lựa chọn từ trong đó những dẫn chứng xác đáng
nhất, tiêu biểu, toàn diện nhất (nên chỉ cần vài ba cái để làm sáng tỏ điều cần
CM). Dẫn chứng phải thật sát với điều đang muốn làm sáng tỏ và kèm theo dẫn
chứng phải có lý lẽ phân tích – chỉ ra những nét, những điểm ta cần làm nổi bật
trong các dẫn chứng kia. Để dẫn chứng và lý lẽ có sức thuyết phục cao, ta phải
sắp xếp chúng -> 1 hệ thống mạc lạc và chặt chẽ: theo trình tự thời gian, không
gian, từ xưa đến nay, từ xa đến gần, từ ngoài vào trong hoặc ngược lại miễn
sao hợp logic.
Bước kết thúc vẫn là bước vận dụng, đặt vấn đề vào thực tiễn cuộc sống hôm
nay để đề xuất phương hướng nỗ lực. Chân lý chỉ giá trị khi soi rọi cho ta sống,
làm việc tốt hơn. Ta cần tránh công thức và rút ra kết luận cho thoả đáng, thích
hợp với từng người, hoàn cảnh, sự việc.
=> Từ những điều nói trên, ta rút ra 1 sơ đồ tổng quát theo 3 bước:
– Làm rõ điều cần chứng minh trong luận đề được nêu lên.
– Lần lượt đưa ra các dẫn chứng và lý lẽ để làm sáng tỏ điều cần chứng minh.
– Rút ra kết luận về phương hướng nỗ lực.
2.3. Bình luận:
Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải thích lẫn chứng
minh. Nên những yêu cầu của giải thích và chứng minh cũng là yêu cầu đối với
văn bình luận, nhưng giải thích và chứng minh sẽ được viết cô đọng, ngắn gọn
hơn so với chỉ 1 thao tác chứng minh hoặc giải thích để tập trung cho phần việc
quan trọng nhất là bình luận – phần mở rộng vấn đề.
Trước khi bình luận, ta thường phải bày tỏ thái độ, để khách quan và tránh phiến
diện, ta phải xem xét kĩ luận đề để từ đó có thái độ đúng đắn, có 3 khả năng:
– Hoàn toàn nhất trí.
– Chỉ nhất trí 1 phần. (có giới hạn, có điều kiện)
– Không chấp nhận. (bác bỏ)
Sau đó, ta bình luận – mở rộng lời bàn để vấn đề được nhìn nhận sâu hơn, toàn
diện hơn, triệt để hơn.
Cuối cùng, ta lại chỉ ra phương hướng vận dụng để đưa lý luận vào áp dụng
thực tế cuộc sống.
=> Bố cục của một bài văn bình luận gồm:
– Mở bài:
Dẫn dắt, giới thiệu luận đề.
– Thân bài:
+ Xác định ý nghĩa cơ bản của luận đề. (ý nghĩa)
+ Bày tỏ thái độ của chúng ta trên những nét bao quát nhất. (đánh giá)
+ Trình bày nội dung cơ bản: bình luận. (mở rộng, bổ sung lời bàn)
– Kết bài:
Kết thúc luận đề (rút ra kết luận thực tiễn).
> Khi làm bài bình luận, chúng ta phải rất linh hoạt, tránh cái nhìn phiến diện 1
chiều, và không bị sa bẫy vào những câu nói nghe có vẻ tưởng chừng đúng
nhưng lại còn tồn tại những cách hiểu lệch lạc, chưa đúng đắn. Bằng vốn tri
thức, vốn sống của bản thân ta tìm ra cách hiểu đúng đắn nhất, rồi từ đó bằng
lập luận, lý lẽ và dẫn chứng, ta lôi cuốn mọi người đồng ý, đồng tình với cách
đánh giá, lời bàn của ta 1 cách bị chinh phục.
II. Một số dạng bài nghị luận xã hội phổ biến và cách lập dàn ý
***NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG , ĐẠO LÝ
1. Khái niệm, đề tài, yêu cầu và các thao tác chính:
a) Khái niệm
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp những thao tác lập luận để
làm rõ những vấn đề tư tưởng đạo lí trong cuộc đời.
b) Đề tài
Đề tài của nghị luận về tư tưởng, đạo lí là vô cùng phong phú, bao gồm:
– Các vấn đề về nhận thức như lí tưởng , mục đích sống,…
– Các vấn đề về tâm hồn, tính cách như:
+ Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng,…
+ Tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn,…
+ Thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi,
– Về các quan hệ gia đình như tình mẫu tử, anh em,
– Về quan hệ xã hội như tình đồng bào, tình thầy trò, bạn bè,…
– Về cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống.
c) Yêu cầu
– Hiểu được vấn đề cần nghị luận qua phân tích, giải thích để xác định vấn đè
– Phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí so sánh,
bàn bạc, bãi bỏ,… nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập luận.
– Phải biết rút ra ý nghĩa của vấn đề.
– Người thực hiện nghị luận phải có lí tưởng và đạo lí.
d) Các thao tác lập luận cơ bản
Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là giải
thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.
2. Cách làm bài
a) Mở bài
– Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận.
– Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh
ngôn.
– Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai.
b) Thân bài
– Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư
tưởng, đạo lí này).
– Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai
lệch (nếu có).
– Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và
hành động.
– Lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu).
c) Kết bài
Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc
dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.
3. Tổng kết
Muốn làm bài văn
Văn nghị luận là gì, các dạng văn nghị luận thường gặp
Ngoài thể loại văn biểu cảm thì văn nghị luận là kiến thức quan trọng trong chương trình ngữ văn lớp 7. Trong bài viết ngày hôm nay, chúng ta tìm hiểu thể loại này với các nội dung như văn nghị luận là gì, đặc điểm và phương pháp làm bài văn nghị luận. Kiến thức ngữ văn 7 quan trọng.
Văn nghị luận : Khái niệm văn nghị luận là gì và cách làm bài đạt điểm cao
THPT Sóc Trăng
Send an email
0
18 phút
Bài viết này sẽ nói đầy đủ về văn nghị luận.
Không chỉ chia sẻ các khái niệm quan trọng, những nội dung trong bài viết còn giúp bạn làm được những bài văn nghị luận đạt điểm cao.
Bạn đang xem: Văn nghị luận : Khái niệm văn nghị luận là gì và cách làm bài đạt điểm cao
Chúng ta cùng bắt đầu…
Bài viết gần đây
-
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
-
Dàn ý phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
-
Dàn ý phân tích nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng
-
Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Nội dung
-
1
I Khái niệm về văn nghị luận cần ghi nhớ
-
1.1
1. Văn nghị luận là gì ?
-
1.2
2. Đặc điểm của văn nghị luận
-
1.3
3. Bố cục của một bài văn nghị luận
-
1.4
4. Các loại văn nghị luận
-
-
2
II Các thao tác lập luận trong văn nghị luận
-
3
III Cách làm bài văn nghị luận xã hội
-
3.1
1. Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
-
3.1.1
Các bước làm bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
-
3.1.2
Dàn ý bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
-
-
3.2
2. Cách làm bài văn nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống
-
3.2.1
Các bước làmbài văn nghị luận về một sự việchiện tượng đời sống
-
3.2.2
Dàn ý bài văn nghị luận về một sự việchiện tượng đời sống
-
-
3.3
3. Cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra trong tác phẩm văn học
-
3.3.1
2 bước thực hiện
-
3.3.2
Dàn ý chung
-
-
3.4
4. Các lưu ý khi viết bài văn nghị luận xã hội
-
-
4
IV Cách làm bài văn nghị luận văn học
-
4.1
1. Cách làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
-
4.2
2. Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện
-
Nghị Luận Văn Học Là Gì ?
Nghị luận văn học là dùng những lý lẽ của mình để bàn bạc thuyết phục người khác về vấn đề mình đang nói tới. Để thuyết phục người khác nghe theo quan điểm, ý kiến cá nhân của mình và từ đó nhận ra những vấn đề nào là đúng và vấn đề nào là sao.
Trong văn nghị luận ta sẽ gọi thái độ là tình, còn ý kiến là lý. Để thuyết phục được ý kiến của mình thì chúng ta cần có phải có lập luận sắc bén, dẫn chứng rõ ràng, có như vậy thì mọi người mới cảm thấy thuyết phục và đồng ý với quan điểm của mình. Nghị Luận Văn Học Là Gì
Một số yêu cầu chung cần nắm khi viết một bài văn nghị luận
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC LÀ GÌ?
- Bài văn nghị luận cần phải đúng hướng, phải có trật tự, mạch lạc, câu từ phải trong, sáng sinh động và không kém phần hấp dẫn. Một số thao tác chính của bài văn nghị luận là giải thích, chứng minh, phân tích và luận.
- Còn đối với nghị luận văn học thì là dạng đưa ra các vấn đề bàn luận là các vấn đề bàn bạc về văn học, có thể là tác giả, tác phẩm, ý kiến nhận định về tác phẩm, nhân vật trong tác phẩm.
- Khi làm bài nghị luận văn học thì chúng ta cần phải nắm chắc kiến thức cơ bản ở mỗi tác phẩm, tác giả.
- Đối với thơ thì cần chú ý đến hình thức như nhịp điệu, cách gieo vần, cấu trúc.
- Đối với tác phẩm văn xuôi thì chú ý đến cốt truyện, nhân vật, tình tiết, các dẫn chứng cần chính xác, chọn lọc, chú ý đến các giá trị: nhân đạo, tình huống truyện.
I. Khái niệm, mục đích, đặc điểm cơ bản của Văn nghị luận
1. Khái niệm
Văn nghị luận là kiểu văn bản mà ở đó người nói, người viết chủ yếu sử dụng lí lẽ, dẫn chứng, lập luận nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một quan điểm, tư tưởng nhất định. Văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống, xã hội thì mới có ý nghĩa.
2. Mục đích
Giúp người đọc, ngươi nghe tin, hiểu, tán đồng hành đông theo mình.
3. Đặc điểm
Gồm luận điểm và luận cứ. Luận cứ gồm lý lẽ, chứng cứ. Lập luận là trình tự sắp xếp, tổ chức, bố cục của vấn đề nêu ra