Cần khám toàn diện nhưng các triệu chứng ngoài mắt có thể đánh giá khi cần thiết.
Kiểm tra thị lực là mấu chốt. Nhiều bệnh nhân không cố gắng hết sức. Dành đủ thời gian và động viên bệnh nhân để có kết quả khám chính xác hơn.
Thị lực lý tưởng được đo khi bệnh nhân đứng cách bảng Snellen được treo trên tường 6 m (khoảng 20 ft). Nếu không thể thực hiện được, thị lực có thể được đánh giá bằng một bảng cách mắt 36 cm (14 inch). Đo thị lực gần nên được kết hợp với chỉnh kính đọc tại chỗ cho bệnh nhân > 40 tuổi. Mỗi mắt được thử riêng biệt trong khi mắt kia được che bởi một vật đặc (không phải là ngón tay của bệnh nhân, có thể có khe hở trong quá trình thử). Nếu bệnh nhân không thể đọc được dòng trên cùng của bảng Snellen ở 6 m, thị lực sẽ được thử ở 3 m. Nếu không đọc được bảng, bệnh nhân sẽ thử thị lực đếm ngón tay. Nếu không, người khám sẽ kiểm tra xem bệnh nhân có thể nhận ra bóng bàn tay không. Nếu không, kiểm tra khả năng nhận biết sáng tối của bệnh nhân.
Bệnh nhân được thử thị lực không kính và có kính. Nếu thị lực cải thiện với kính tức là bệnh nhân có tật khúc xạ. Nếu bệnh nhân không đeo kính thì sử dụng kính lỗ khúc xạ. Nếu không có kính lỗ khúc xạ phiên bản thương mại, có thể tạo ra kính lỗ tại giường bằng cách dùng kim 18G chọc một lỗ trên một tấm bìa che mắt và thay đổi nhẹ đường kính của các lỗ khác nhau. Bệnh nhân chọn lỗ giúp điều chỉnh thị lực tốt nhất. Nếu thị lực sắc nét lên nhờ kính lỗ, thì tật khúc xạ là nguyên nhân gây mờ. Kính lỗ khúc xạ là một cách nhanh, hiệu quả để chẩn đoán tật khúc xạ, nguyên nhân gây mờ phổ biến nhất. Tuy nhiên với khúc xạ qua kính lỗ, thị lực điều chỉnh tốt nhất thường chỉ đạt 20/30 chứ không bao giờ lên tới 20/20.
Khám mắt cũng rất quan trọng. Kiểm tra phản xạ trực tiếp và phản xạ liên ứng được thực hiện khi làm khám nghiệm đảo đèn chiếu. Thị trường được đánh giá sơ bộ bằng khám nghiệm che mắt và lưới Amsler.
Đục giác mạc được kiểm tra trên sinh hiển vi. Tyndall tiền phòng có thể được phát hiện qua khám sinh hiển vi mặc dù những kết quả thăm khám này không giải thích được triệu chứng mờ mắt ở những bệnh nhân không có đau hoặc đỏ mắt.
Khám thủy tinh thể đục trên soi đáy mắt, khám sinh hiển vi hoặc cả hai.
Khám đáy mắt bằng máy soi đáy mắt trực tiếp. Có thể khám chi tiết hơn nếu giãn đồng tử bằng một giọt cường giao cảm (ví dụ phenylephrine 2,5%), liệt điều tiết (ví dụ, 1% tropicamide hoặc 1% cyclopentolate), hoặc cả hai; giãn tối đa sau khoảng 20 phút. Có thể quan sát được phần lớn đáy mắt, bao gồm võng mạc, hoàng điểm, hố trung tâm, mạch máu, đĩa thị và bờ đĩa. Để quan sát được toàn bộ võng mạc (tức là để khám bong võng mạc ngoại vi), người khám, thường là bác sĩ mắt, phải sử dụng đèn soi đáy mắt gián tiếp.
Đo nhãn áp.