Ơn Công Chính Hóa Theo Thư Rôma Của Phaolô

ƠN CÔNG CHÍNH HOÁ THEO THƯ RÔMA CỦA PHAOLÔ

DẪN NHẬP

Nền móng để xây dựng cuộc sống vững bền không thể đặt
trên sự nổi trôi của cảnh đời tranh đua xua nịnh, hay bằng sự khôn khéo của bản
thân. Những thứ đó luôn đặt mình trước nguy cơ sụp đổ, vì nó được đặt trên nền
cát của cái tạm bợ, chứ không phải trên nền đá của chiều kích vĩnh cửu. Cũng
vậy, ơn cứu độ hay ơn công chính hoá được thánh Phaolô diễn tả nơi thư Rôma
không phải là kết quả của một quá trình giữ luật tỉ mỉ hay những cố gắng bản
thân, nhưng là ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc được thực hiện trong Đức Kitô
Giêsu.

Chắc hẳn, đây cũng là kinh nghiệm của Thánh Phaolô, từ một con người duy luật, đặt những khả năng của mình
như những bậc thang đạt tới Thiên Chúa, nhưng qua ánh sáng của Chúa Kitô Phục sinh, ngài nhận ra: những gì xưa kia cho là có lợi,
là vinh quang thì nay, những thứ đó là thiệt thòi và không đáng kể so với Đức
Kitô. Đối với thánh nhân, cái làm nên những
điều cao cả không hệ tại lề luật, cũng chẳng phải cố gắng bản thân, mà nhờ gặp gỡ Chúa Kitô và được ở trong Ngài. Vậy nguyên do nào mà thánh Phaolô lại đề cập đến ơn công chính hoá do đức tin, trong khi
mình từng là một Pharisêu chính hiệu, duy luật? Tại sao ngài lại
nhấn mạnh khía cạnh này với giáo đoàn Rôma, một giáo đoàn không do ngài thiết lập, nhưng lại ít
đề cập đến trong các thư khác? Phải chăng thánh Phaolô muốn tách ơn công chính ra khỏi lề luật?
Ơn công chính hoá nơi thánh Phaolô có đi ngược lại với lời hứa không? Đâu là ơn công chính
của người kitô hữu?

Để phần nào làm sáng tỏ những vấn nạn trên, chúng ta cùng
nhau tìm hiểu những điểm sau.

I  Đôi Nét Về Thánh Phaolô Và Thư Rôma

1  Con Người Phaolô

Dựa và sách Công Vụ Tông Đồ và các thư của Phaolô, chúng
ta biết ngài là “người Israel, thuộc dòng
dõi Ap1raham, thuộc chi tộc Benjamin
” (Rm 11,1). Nơi thư gửi tín hữu
Philiphê, ngài cũng nói lên điều đó: “Tôi
chịu cắt bì vào ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Israel, họ Benjamin, là người
Hipri, con của người Hipra, giữ luật đúng như một người Pharisi
êu
(Pl 3, 5). Mặc dầu khẳng định mình thuộc về người Do thái (x.
2Cr 11, 22), thánh nhân là một người Do thái kiều cư: “Tôi đây là người Do thái, quê ở Tarso miền Kilikia, công dân của một
thành không phải là không có tiếng tăm
” (Cv 22, 3. 39). Tuy
nhiên, từ nhỏ ngài đã lên Giêrusalem
để tu luyện dưới sự hướng dẫn của thầy Gamaliên để giữ luật cha ông một cách nghiêm nhặt (x. Cv 7, 20-
23). Ngài tự xưng mình là người Biệt phái (Pl 3, 5). Có lẽ, thánh nhân được gửi
tới Giêrusalem để học với hy vọng trở thành một Rabbi. Trong môi trường này,
ngài được đào luyện về Kinh thánh, luật, tập tục cha ông để chuẩn bị trở thành
một Biệt phái.

Như vậy, thánh Phaolô là người được cấu thành bởi môi trường đa văn hoá, có
học thức và được rèn luyện cách nghiêm nhặt để chuẩn bị cho mình một tương lai bằng nghề Rabbi. Cho nên, khi đối diện với một đạo mới
đang làm xáo trộn và có nguy cơ xói mòn nền tảng Đạo cha ông, ngài tỏ ra nhiệt
thành trong việc khử trừ cái dằm này. Ngài tự thú trong thư gửi tín hữu Galat:
Trong việc giữ đạo Do thái, tôi vượt xa
nhiều đồng bào cùng trang lứa, hơn ai hết tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các
truyền thống cha ông
” (Gl 1, 14). Sự nhiệt thành là chất men khiến thánh
nhân thêm hăng say bắt bớ và muốn tiêu diệt Hội thánh của Thiên Chúa (x. Pl 3,
5- 7). Sách công Vụ Tông Đồ cho ta cái nhìn về thánh Phaolô: “Tôi được giáo
dục để giữ luật cha ông một cách nghiêm nhặt… tôi đã bắt bớ đạo này, không
ngần ngại giết kẻ theo đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà

(Cv 22, 3- 5). Sự nhiệt thành với lề luật đã thúc đẩy thánh nhân ra khỏi biên
giới Do thái, đến với các thành khác để tìm bắt những ai tuyên xưng niềm tin
vào Đức Giêsu Kitô: “Ông Saolô còn hằm hằm đe doạ và giết chóc đối với
các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp các Thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội
đường Đamas, để nếu thấy ai theo đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói
giải về Gi
êrusalem” (Cv 9, 1- 2). Tới đây, cha Nguyễn Văn Trinh cho biết nguyên nhân dẫn thánh Phaolô tới cuộc bách đạo: “Điểm
quyết định của cuộc bách hại, chính là ki
hữu tuyên xưng Đấng Phục Sinh là Cứu Chúa, là Đấng cứu
độ. Nếu Đấng Phục sinh thực sự là Đấng cứu độ thì lề luật sẽ dư thừa, Do thái
sẽ bị dẹp tan. Địa vị tương lai của Phaol
ô sẽ gặp nguy hiểm. Như thế vì đạo đức, vì lề luật, vì
công nghị, vì cái tôi tương lai, Phaol
ô gán cho nhóm kitô hữu này là một nhóm phái nguy hiểm,
gây nguy cơ cho chính Do thái giáo, phải tiêu diệt nhóm phản loạn này để Do
thái giáo tồn tại
”.

Cũng như bao nhiêu người Do thái khác, Phaolô nghĩ rằng
đạo cha ông truyền lại là “number one”. Đàng khác, người ta được nên công chính
bằng cách tuân giữ lề luật, chứ không phải nhờ niềm tin vào Đức Kitô, Đấng chịu
đóng đinh, điều mà người Hy lạp cho là điên rồ và người Do thái cho ô nhục,
không thể chấp nhận được (x. 1Cr 1, 22- 23). Như vậy, sự bách hại của thánh
Phaolô không do dụng ý xấu, nhưng khởi đi từ tình
yêu và lòng nhiệt thành với Đạo cha ông. Thiên Chúa đã nhận ra điểm son này nơi
thánh Phaolô, nên đã kêu gọi và biến ngài thành khí cụ
mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. Thánh nhân nhiều lần nhắc lại ơn gọi của mình
như muốn xác tín hơn tình thương Thiên Chúa dành cho mình. Ngài nói: “Trước đây tôi là người nói lộng ngôn, bắt
đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người xót thương, vì tôi đã hành động một
cách vô ý thức, trong lúc chưa có l
òng tin” (1Tx
1, 13). Nơi khác, ngài chân nhận mình là kẻ tội lỗi được Thiên Chúa thương cứu
vớt và trao cho sứ vụ làm rạng danh Ngài: “Đức
Gi
êsu đã
đến thế gian để cứu người tội lỗi mà người thứ nhất là tôi. Sỡ dĩ tôi được
Người xót thương như thế là vì Thiên Chúa muốn đưa tôi ra làm gương cho tất cả
những ai tin vào Ngài
” (1Tm
1, 15- 16).

Qua biến cố Đamas, thánh Phaolô đã được chuyển hướng, không phải bằng một tư tưởng,
nhưng qua sự hiện diện không thể chống cự của Đấng Phục Sinh. Nói cách khác,
với thị kiến trên đường Đamas đã biến đổi hoàn toàn con người, quan niệm của
thánh Phaolô về Đức Giêsu, về ơn cứu độ và giá trị lề
luật. Từ một con người muốn đặt mình trên danh- lợi- quyền, nay lại coi tất cả
là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt với là được biết Đức Kitô và ở lại trong
Người.

 

2  Thư Gửi Giáo Đoàn Rôma

Cộng đoàn tín hữu Rôma hiện diện trước khi ngài viết thư
này. Như vậy, giáo đoàn này không do ngài thiết lập. Nhờ hai ông bà Aquila và
Pơritca mà thánh Phaolô, bây giờ đang ở Côrintô biết được về tình trạng xung
khắc nội bộ giữa kitô hữu Do thái và kitô hữu gốc dân ngoại.

Thánh Phaolô viết cho những người Rôma không những để
giải quyết vấn đề nơi họ, nhưng còn chuẩn bị cho kế hoạch truyền giáo tại Tây
Phương (Rm 15, 24). Ngài cần sự hỗ trợ của người Rôma cho công tác này. Lá thư như bước đầu dọn đường cho
một hướng đi trong sứ vụ mà ngài hằng ôm ấp. Đàng khác, ngài muốn nói lên quan
niệm và lời rao giảng của mình với anh em ở Rôma. Cách gián tiếp, lá thư mang tính tranh luận với họ về
vấn đề thần học ân sủng của ngài (x. Rm 6, 1- 5). Bởi vì giáo đoàn này nảy sinh
cuộc tranh luận về ân sủng và sự công chính, lề luật và tự do, đức tin và tình
yêu. Phaolô nói lên những suy nghĩ của mình về lịch sử
cứu độ qua bức thư này; một sự cứu độ phát xuất từ sự công chính và tình yêu
Thiên Chúa, và bây giờ đến với nhân loại qua con đường niềm tin của mỗi người
vào Đức Giêsu. Thánh Phaolô
nhận thức rằng sự công chính và ơn cứu độ không do bởi tuân giữ lề luật, nhưng
nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, Người Con mà Chúa Cha sai đến trần gian.
Nhờ đức tin, con người có thể tham dự vào công nghiệp của Đức Kitô, chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện qua cái
chết và phục sinh của Người Con yêu dấu.

Có thể nói trong cách thư Phaolô viết, thư Rôma chiếm một vị trí quan trọng, vì đề cập đến nhiều chủ
đề nóng bỏng mà giáo đoàn này đang gặp phải. Mặc dầu thảo luận một số chủ đề đã
được viết trong tư Galat, nhưng thay vì lối văn minh giáo, thì ngài lại chọn giọng điệu hoà nhã. Tuy giọng văn nhẹ nhàng, nhưng với lối lập luận khúc chiết, mạnh mẽ, thánh Phaolô phần nào giải gở những khó khăn đang gây lấn cấn giữa các tín hữu Do thái
và các tín hữu gốc ngoại giáo. Lá thư này như một sợi chỉ đỏ nối kết hai trường phái lại
với nhau, khi hướng họ đến một đích điểm chính yếu là nguồn ơn cứu độ trong Đức Kitô. Như vậy, “cùng
với thư  gửi tín hữu Galat, thư gửi tín
hữu R
ôma làm
nổi bật tương quan giữa Do thái và Kit
ô giáo. Kitô giáo là
viên mãn của niềm tin trong Cựu Ước. Giao ước thời M
ôsê chỉ là giai đoạn chuẩn bị, phải nhường bước cho giao ước
mới và hoàn hảo trong Chúa Kit
ô. Từ
nay, Chúa Gi
êsu Kitô là nguồn mạch đem lại ơn cứu độ cho bất cứ
ai tin vào Người
”.

3  Khái Niệm Về Ơn Công Chính Hoá

Filipe Gomez s.j- Học Viện Pio X nêu lên khái niệm như
sau: “Theo nghĩa thông thường, công chính
hoá là làm cho l
ý lẽ của
mình thắng lý lẽ đối phương, làm cho quyền lợi chính đáng của mình được công
nhận… Đàng khác, được công chính hoá có nghĩa là trong cơn thử thách hay trong
cuộc xung đột, ta không những chứng minh được l
òng vô tội mà còn nói lên được tất cả hành vi của mình là
chính đáng: công chính hoá có nghĩa là làm cho đức công bình của mình được tỏ
lộ ra
”.

Dưới
cái nhìn của J. Theilln thì: “Công chính
trước nhất là sự phù hợp với luật pháp và công lý. Với danh nghĩa này, công
chính chi phối mối quan hệ giữa con người với đồng loại, nhất là phạm vi luật
pháp. Công chính theo nghĩa rộng hơn còn có nghĩa là thánh đức, hay ít là thói
quen thực hành nhân đức hằng ngày. Công chính khi ấy đối lập với tội lỗi. Từ
đó, công chính chủ yếu là hành động phù hợp với Thiên Chúa
”.

Uỷ
Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đưa ra khái niệm về
công chính: “Công chính là hành động nhân
từ vô điều kiện của Thiên Chúa
, phát sinh từ tình yêu vô biên của Ngài, hầu tha thứ tội
lỗi và làm cho con người nên công chính thánh thiện
”.

Giáo lý Hội Thánh Công giáo trình
bày về công chính hoá như một cái nhìn chung
cuộc: “Sự công chính hoá là công trạng
nhờ cuộc khổ nạn của Đức Ki
cho
chúng ta. Nó được ban cho chúng ta nhờ phép rửa. Nó làm cho chúng ta phù hợp
với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta nên công chính. Sự công
chính hoá có mục tiêu là vinh quang của Thiên Chúa và của Đức Kit
ô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu. Nó là
công trình hết sức tuyệt vời của lòng thương xót của Thiên Chúa
”.

Như vậy, xét trên bình diện tự nhiên, công chính hoá là
sự thể hiện đức công bình, làm cho quyền lợi của mình được công nhận và tôn
trọng. Nó cũng là sự phù hợp với luật pháp và công lý. Với cái nhìn tôn giáo,
công chính hoá là hành động nhân từ của Thiên Chúa, được thể hiện qua cuộc khổ
nạn và phục sinh của Đức Kitô,
hầu tha thứ tội lỗi và giúp con người đạt tới ơn cứu độ. Hướng đích của công
chính hoá là Thiên Chúa và hồng ân của đời sống vĩnh cửu.

II  Công Chính Hoá Và Lề Luật

1  Được Nên Công Chính Nhờ Đức Tin

Đối với thánh Phaolô cũng như những người cùng thời với ngài, lề luật là
khuôn thức, và vách ngăn chống lại các áp lực đang hăm doạ căn tính Israel: đức tin, Thiên
Chúa duy nhất và các lời hứa của Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ lề luật là con
người nắm trong tay quyền lợi đòi Thiên Chúa kết cho mình một vòng hoa công
chính.

Tuy nhiên, khi được biến đổi và nhận ra tình yêu Thiên
Chúa, ngài đã hiểu được giá trị căn bản và không thể thay thế của đức tin: “Chúng tôi nhận ra rằng, người ta được nên
công chính nhờ đức tin,

chứ không phải vì làm những gì luật dy
(Rm 3, 28). Thánh Phaolô cho thấy giá trị cuộc sống không hệ tai những việc ta
làm, nhưng tuỳ thuộc vào ân sủng của Thiên Chúa, bởi vì, chúng ta “được nên công chính là do ân huệ Thiên Chúa
ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kit
ô Giêsu” (Rm 3,
24). Việc làm có giá trị cộng tác, chứ không đóng vai trò quyết định ơn công
chính của chúng ta. Do đó, điểm quy chiếu cho con người đạt tới ơn cứu độ là
đức tin. Nhờ đức tin được Thiên Chúa nhìn nhận là công chính: “Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin
vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho
người ấy được Thiên Chúa kể là công chính
” (Rm 4, 5).

Thánh Phaolô đưa ra cho ta một tấm gương về đức tin là tổ Phụ
Apraham: “Ông Apraham đã tin Thiên Chúa,
và vì thế được kể là người công chính
” (Rm 4, 3). Để minh chứng cho ông
Apraham được nên công chính do bởi đức tin, chứ không phải nhờ việc làm, thánh
nhân làm sáng tỏ dưới dạng câu hỏi: “Ông
được nên công chính khi nào? Trước hay sau cắt bì? Không phải sau mà là trước
khi được cắt bì! Ông nhận được phép cắt bì như dấu hiệu chứng thực rằng: nhờ
tin mà được nên công chính, trước khi được cắt bì
” (Rm 8, 10- 11). Nhờ sống
chiều kích đức tin, Apraham đã thông truyền cho thế hệ sau một kho tàng vô tận:
thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Như vậy, ông xứng đáng là tổ phụ của những ai có
lòng tin. Thánh Phaolô nói: “
tin mà chúng ta thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa, như thế là ân huệ Thiên Chúa ban
không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Apraham, nghĩa là không phải chỉ
có những ai tuân giữ lề luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là
tổ phụ của chúng ta hết thảy
” (Rm 4, 6).

Dĩ nhiên, thánh Phaolô không nhằm hạ giá hay huỷ bỏ lề luật, nhưng để “củng cố lề luật” (Rm 8, 31). Ngài chỉ
muốn đặt đức tin vào đùng vị trí và mục đích của nó, cũng như giúp chúng ta nhận ra vai trò thiết yếu của đức
tin trong tiến trình giúp mỗi người đón nhận ơn công chính hoá ngang qua con
người Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ
bất cứ ai có lòng tin. Như vậy, thành quả mà đức tin mang lại không gì khác
ngoài Đức Kitô. Nhờ Người, cuộc sống chúng
ta trở nên an vui và ý nghĩa (x. Rm 5, 1). Nói theo ngôn ngữ của Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô XVI: “Đức tin có nghĩa là nhìn Đức Kitô, đặt mình vào Đức Kitô, gắn bó với Đức Kitô, đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, với đời sống của Người”. Chúng được nên công chính khi bước vào trong sự thông
hiệp với Đức Kitô, một sự ràng buộc triệt để chúng ta với Ngài (Rm 1, 17).

Ở đây, thánh Phaolô đã có một cái nhìn thay đổi hoàn
toàn. Từ một con người bám vào lề luật như bậc thang đạt tới vinh quang, ngài
lại coi nó như không đáng kể so với ơn công chính nhờ tin vào Đức Kitô và được
kết hợp với Người. Nhờ ánh sáng của Đấng phục sinh, thánh nhân đã được Thiên
Chúa “rẽ” sang một lối đi mới dưới sự hướng dẫn của đức tin. Điều này đồng
nghĩa những công lao ngài gầy dựng trước đây, giờ chỉ còn “công dã tràng xe cát
biển đông”. Và thật sự, ngài chấp nhận sự mất mát này để bước theo Đức Kitô,
biết Người và được ở trong Người. Có lẽ, đây cũng là nhận định của Filipe
Gomez, s.j: “Ý niệm về sự công chính đã
thay đổi hoàn toàn. Từ nay con người tin tưởng nơi Thiên Chúa và Thiên Chúa làm
cho họ trở nên công chính, nghĩa là đảm bảo cho ơn cứu rỗi nhờ đức tin và việc
kết hợp với Chúa Kitô
”.

Với thánh Phaolô, đức tin là lối ngõ dẫn mỗi người đạt
tới ơn cứu độ, là niềm hy vọng cho những gì ta mong chờ. Cho nên, “cần phải tái khám phá hành trình đức tin để
ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ gặp
gỡ Chúa Giêsu
”.

2  Giải Gở Khỏi Lề Luật

Lề luật chỉ ràng buộc và có hiệu lực bao lâu con người
còn sống (x. Rm 7, 1). Vậy, người kitô hữu một khi cùng chết với Đức Kitô thì
không còn bị lề luật ràng buộc nữa. Trong Đức Kitô, chúng ta là một con người mới, vì con người cũ đã chết
đối với tội lỗi; một con người sống nhờ ân sủng, chứ không phải bởi lề luật. Thánh
Phaolô xác quyết: “Chúng ta không còn bị lề luật ràng buộc nữa, vì chúng ta đã chết đối
với cái giam hãm chúng ta. Như vậy, chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần
mới, chứ không phải theo bản văn của lề luật
” (Rm 7, 6). Người đặt niềm tin
vào Đức Kitô là con người của tự do, được giải thoát khỏi sự giam hãm của lề
luật. Ở đây, thánh nhân không đề xướng một cuộc sống thiếu trật tự, đứng ngoài
hay coi thường pháp luật, vì “lề luật là
thánh, và điều răn cũng là thánh, đúng và tốt
” (Rm 7, 12). Đúng hơn, ngài
nhấn mạnh đến sự tự do của con cái Thiên Chúa, sự tự do vượt lên trên biên
cương hạn hẹp của lề luật. Nó có khả năng giúp con người nhìn xa, nhìn rộng và
hướng về thực tại vĩnh hằng mà Thiên Chúa mời gọi. Bao lâu còn lệ thuộc vào lề
luật, bấy lâu tội lỗi còn chi phối chúng ta. Đàng khác, nại vào lề luật để lên
mặt, làm thầy dạy nhưng lại vi phạm lề luật là chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa
và anh chị em mình. Điều này thánh Phaolô đã nói: “Mang tên
là người Do thái, lại ỷ rằng mình có lề luật, và tự hào vì có Thiên Chúa; b
n được biết ý Người, được lề luật dạy điều
hay lẽ phải; bạn xác tín mình là người dẫn dắt kẻ mù loà, là ánh sang cho kẻ
ngồi trong bóng tối, là nhà giáo dục cho kẻ u mê, là thầy dạy người non dại, vì
bạn tưởng mình có lề luật là có tất cả tri thức và chân lý: Vậy bạn biết dạy
người khác, mà lại không dạy chính mình… Bạn tự hào vì có lề luật, mà bạn vi
phạm lề luật, như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa
” (Rm 2, 17- 23).

Cứu
cánh của lề luật không hệ tại ở lề luật, nhưng là Thiên Chúa, khiến bất cứ ai
tin đều được nên công chính (x. Rm 10, 4). Bởi đó, trên con đường đạt tới cứu
cánh, con người cần giải gở những rào cản hay những níu kéo làm xa hướng đích. Hành
trang chúng ta mang trên mình phải là đức tin, một đức tin sắt son vào Đức Kitô,
hầu bước đi khung trời mầu nhiệm cứu độ mà Chúa đã hứa ban. Thiên Chúa cứu độ
chúng ta không phải bằng một khoản luật hay nhờ một việc làm ngoại thường,
nhưng bằng một tình yêu nhưng không. Đó cũng là ý kiến của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô: “Chúa không cứu chúng ta bằng
một sắc lệnh hay lề luật; Chúa cứu chúng ta bằng lòng nhân hậu. Chúa cứu chúng
ta bằng cử chỉ yêu thương, Chúa cứu chúng ta bằng mạng sống của Người
”.


một người Do thái chính hiệu, thánh Phaolô đã được học hỏi việc tuân giữ lề
luật như một phận vụ bảo vệ các ân huệ của Thiên Chúa, bảo vệ gia sản đức tin
vào một Thiên Chúa duy nhất. Tuy nhiên, điều mà thánh Phaolô coi như một đảm
bảo cho ơn công chính thì bị tự do của các kitô hữu hăm doạ. Chỉ sau khi gặp
Đấng Phục sinh, ngài đã thay đổi cảm thức về lề luật. Từ đây, “vách ngăn lề luật không còn quan trọng nữa,
vì chúng ta sống trong sự đa dạng với Đức Kitô và chính Người sẽ làm cho chúng
ta nên công chính, tức là được hiện hữu với Đức Kitô và trong Đức Kitô
”.

Một
câu nói chúng ta cảm thấy quen, nhưng lại có giá trị cho trường hợp của Thánh
Phaolô: “Lề luật là phương tiện, nó không
phải là cứu cánh. Nó là con đường, nó không phải là mục đích
”. Thánh Phaolô không đả
phá hay muốn kéo con người ra khỏi vòng pháp luật, cho bằng giải gở hình thức
vụ luật, một cách thức giam hãm con người trong vòng luẩn quẩn của ác cảm tội
lỗi, vì “lề luật làm cho con người ý thức
về tội
” (Rm 3, 20). Chỉ có trong Đức Kitô, con người mới thực sự bắt gặp
được chân lý tuyệt đối, một chân lý có khả năng giải thoát con người khỏi mọi
ràng buộc để đạt tới sự tự do đích thực mà Thiên Chúa hứa ban.

III 
Ơn Công Chính Với Lời Hứa

1  Ơn
Công Chính Không Đi Ngược Với Lời Hứa

Thánh
Phaolô cảm thấy đau buồn trước tình trạng của người Do Thái, những người anh em,
những người đồng bào của mình đã không đón nhận Đức Kitô. Có thể nói, nỗi đau
buồn của thánh Phaolô trào dâng đến cực độ, vì thánh nhân biết những ưu đãi
trong quá khứ của Israel: được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng. Hơn nữa,
chính Đức Kitô cũng đã xuất thân từ dòng tộc này. Đó là một ân huệ lớn lao mà
các dân tộc khác không thể có được. Thư Rôma cho ta cái nhìn này của thánh
nhân: “Họ là người Israel, họ được Thiên
Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề
luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các Tổ phụ; và sau hết,
chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một dòng giống với họ
” (Rm
9, 4- 5). Thánh Phaolô cho biết: Israel được tuyển chọn không bởi họ là một dân
hùng cường, đạo đức hay có những ưu điểm vượt trội, nhưng là vì được Thiên Chúa
xót thương (x. Rm 9, 16).

Tất
nhiên, Thiên Chúa vẫn luôn trung tín và giang rộng vòng tay đón nhận con cái
mình trở về. Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa không phải vì nhu nhược, cho bằng tạo
một cơ hội cho những kẻ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ được nhận lãnh vinh quang
như Người đã hứa. Thánh nhân nói: “Người
đã hết lòng kiên nhẫn chịu đựng những kẽ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ và chờ
ngày diệt vong. Thiên Chúa cũng muốn cho biết vinh quang của Người dồi dào biết
mấy đối với những kẻ được Người thương xót, những kẻ mà Người chuẩn bị trước
cho họ được lãnh nhận vinh quang
” (Rm 9, 22- 23).                       

Phaolô
chân nhận rằng họ có lòng nhiệt thành với Thiên Chúa, nhưng lòng nhiệt thành
thiếu sáng suốt này là bức màn che khuất khả năng nhận ra một Thiên Chúa đích
thật. Thay vì tìm kiếm một Thiên Chúa chân thật, họ tác tạo Thiên Chúa theo
nhãn quan của mình, một Thiên Chúa “ngẫu tượng”. Ngài viết: “Họ có lòng nhiệt thành với Thiên Chúa, nhưng
lòng nhiệt thành của họ không được sang suốt, họ không nhận biết rằng chính
Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự sức
mình
” (Rm 10,2-3). Nói theo cách của Filipe Gomez: “Ảo tưởng có quyền làm vinh danh mình trước mặt Thiên Chúa (Rm 3, 27)
đưa đến một sự nhầm lẫn nền tảng trong việc giải thích giao ước, nghĩa là tách
lề luật ra khỏi lời hứa, và mong tìm nơi lề luật một phương thế khả dĩ giúp họ
nên công chính trước mặt Thiên Chúa
”.

Thánh
Phaolô muốn đưa ra ánh sang sự thật mà người Israel đang nhầm lẫn: ơn công
chính hoá được thể hiện qua niềm tin vào Đức Kitô không làm giảm giá trị hay đi
ngược lại lời Thiên Chúa đã hứa với cha ông. Trái lại, Đức Kitô đến để kiện
toàn những gì Thiên Chúa đã hứa từ xưa. Ngang qua Đức Kitô, những ước vọng của
họ sẽ được đền đáp cân xứng, và những gì còn dang dở được Ngài kiện toàn cách
tốt đẹp. Hơn nữa, cho dù họ có đóng khung trong vỏ bọc cố thủ của mình, Thiên
Chúa vẫn chọn họ vì kế hoạch của Người. Người chọn họ không dựa trên tiêu chuẩn
của việc làm hay thước đo của lề luật, nhưng theo như ý Người định. Thánh
Phaolô xác quyết: “Để giữ kết hoạch Thiên
Chúa đã tự do chọn lựa, mà chọn không dựa trên việc người ta làm, nhưng dựa vào
ý muốn của Thiên Chúa là Đấng kêu gọi
” (Rm 
9, 11- 12).

Như
vậy, Thiên Chúa đã đi bước trước trong tiến trình tuyển chọn, thánh hoá và kiện
toàn dân Người đã tuyển chọn. Đó là cánh cửa mở ra chân trời hy vọng, ân sủng
và tình yêu. Nơi chân trời này, Thiên Chúa luôn dành một chỗ xứng hợp cho con
cái mình khi quay gót trở về; nghĩa là tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa làm
người, Đấng đã đến để kiện toàn những gì Thiên Chúa đã hứa với cha ông.


Niềm Hy Vọng Cho Israel

Khi
đối diện với số đông người Do Thái không tin vào Đức Kitô, thánh Phaolô phê
phán ý kiến cho rằng Israel đã bị ruồng bỏ, đồng thời ngài thắp lên nơi họ niềm
hy vọng: “Thiên Chúa không ruồng bỏ dân
Người, dân mà Người đã tuyển chọn từ trước
” (Rm 11, 2), và sẽ “còn sót lại một số người được tuyển cho nhờ
ân sủng của Thiên Chúa
” (Rm 11, 5). Là người con của dân tộc ưu tuyển,
thánh Phaolô cũng mang nơi mình ước nguyện ngày mai tươi đẹp cho Israel, đó là
đạt được nguồn ơn cứu độ: “Lòng tôi những
ước mong và cầu xin cho người Do Thái được cứu độ”
(Rm 10, 1), tức là “có ngày cũng sẽ được giải thoát… được cùng
với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang
” (Rm 8, 21).

Thánh
Phaolo nhắc cho họ biết rằng thảm trạng mà họ đang hứng chịu chỉ là phiến diện
và nhất thời. Bóng mây ngoan cố không chịu tin, bây giờ đang chờ một bình minh
ló rạng: Thiên Chúa sẽ thâu nhận họ lại và thừa khả năng tháp nhập họ lại một
lần nữa. Bởi vì, dân ngoại là cành ô liu dại mà còn tháp nhập được, thì dân Do
Thái là cành ô liu chính hiệu chắc hẳn sẽ được tháp nhập lại cách dễ dàng và
tốt đẹp (x. Rm 11, 23- 34). Cánh cửa của ân sủng Thiên Chúa vẫn luôn rộng mở
đón nhận họ trở về, vì họ là người được tuyển chọn từ trước qua các tổ phụ, cho
nên Ngài không hề thay đổi. Thánh nhân khẳng định: “Theo ơn tuyển chọn, họ là những người được yêu, và đó là nhờ các tổ
phụ. Quả thế, khi Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý

(Rm 11, 28- 29).

Dân
ngoại là người “ngoài” mà còn được chung phần vinh phúc, tức là được hoà giải
với Thiên Chúa, thì dân Do Thái là những người con “hoang đàng”, một khi quay
gót trở về chẳng lẽ Thiên Chúa lại không đón nhận. Quả thật, cho dù bây giờ họ
không tin vào Đức Kitô, Người con mà Thiên Chúa gởi đến cứu độ những ai có lòng
tin, nhưng hiện trạng này sẽ được cải thiện và hồi sinh. Ngài nhấn mạnh: “Nếu vì người Do thái sa ngã mà thế giới được
ân phúc dồi dào… thì khi họ trở về đầy đủ, tình trạng tốt đẹp hơn biết mấy. Nếu
họ bị gạt ra một bên mà thế giới hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu
nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống
” (Rm 11,
12. 15). Phaolô chân nhận rằng, việc đi lệch đường của họ không mang tính chống
đối, nhưng muốn bảo vệ gia sản đức tin của cha ông. Cho nên, họ rất dễ có phản
ứng tiêu cực khi một “luồng gió mới” xâm nhập và làm xáo trộn niềm tin của
mình. Chắc hẳn, Thiên Chúa thấy lòng nhiệt thành của họ. Ngài muốn uốn nắn, đưa
về nẻo chính đường ngay, để họ được nên công chính và chung hưởng phúc vinh
quang như đã tiền định từ trước. Bởi vì, “những
ai đã được Thiên Chúa tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu
gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công
chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang
” (Rm 8, 29- 30).

Với
cái nhìn của thánh Phaolô, người Do Thái chính hiệu không phải là người tuân
giữ nghiệm nhặt theo mặt chữ của lề luật, nhưng theo tinh thần của nó, và những
việc làm đó được Thiên Chúa khen thưởng, chứ không phải để người đời ca ngợi
tán dương (x. Rm 2, 29). Đàng khác, là con người mang dòng máu dân tộc, ngài
không thể chấp nhận một dân được tuyển chọn lại đi vào vực thẳm của diệt vong.
Ngài xác tín rằng Israel sẽ quay trở lại khi tin nhận Đức Kitô để được giải thoát
khỏi ách nô lệ tội lỗi và gông cùm của lề luật hầu đạt đến ơn cứu độ mà Thiên
Chúa đã hứa ban. Cánh cửa của ân sủng và tình yêu Thiên Chúa luôn rộng mở đón
nhận Israel.

IV 
Ơn Công Chính Hoá Của Người Kitô Hữu


Giải Thoát Khỏi Tội Và Sự Chết

Tội
lỗi và sự chết là cái hố chôn vùi cuộc đời trong đau thương. Hai thái cực này
luôn đi đôi với nhau như hình với bóng: hệ luận của tội là sự chết. Ở đây, cái
chết không những xảy ra lúc kết thúc cuộc hành trình dương thế, nhưng gặm nhấm
từng ngày, khiến cho những ai vướng vào vòng tội lụi luôn cảm thấy bất an và
thất vọng.

Tuy
nhiên, với niềm tin sắt son vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức
Kitô, thì tội lỗi và sự chết không còn là ngõ cụt, mà có thể trở nên phương thế
giúp ta tiến bước nhờ ân sủng Thiên Chúa ban không. Thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng
chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không
có sức làm được gì vì là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã
chết vì chúng ta… ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi, đó là bằng chứng
Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công
chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa
” (Rm 5, 5- 7. 9). Như vậy, con người được giải cứu khỏi ách
nô lệ tội lỗi không do bởi sức riêng, nhưng được khởi đi từ Thiên Chúa, ngang
qua thập giá Đức Kitô. Dĩ nhiên, con đường thập giá của Đức Kitô không phải là
một gánh nặng đè nén con người, cho bằng là lối ngõ mang đến cho con người niềm
hy vọng; nghĩa là: “Được nên công chính
do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức
Kitô Giêsu
” (Rm 3, 24).

Thánh
Phaolô thật khéo léo khi mô tả tình trạng của người tín hữu sau khi được nên
công chính và được giao hoà với Thiên Chúa, bằng so sánh tình trạng của nhân
loại trước khi Đức Kitô đến. Ngài đưa ra hai nhân vật: Adam, tổ tiên của nhân
loại, và Đức kitô là đầu của nhân loại mới. Sự so sánh này nhằm làm nổi bật
tình yêu và sức năng biến đổi của ân sủng: “Nếu
chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều
Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn
biết mấy… Nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân
sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời
đời, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”
(Rm 5, 17. 21). Về điểm này,
Fitzmyer thật có lý khi nói: “Vì Phaolô
muốn minh định cách rõ ràng điểm dị biệt và tính cách siêu phong phú của ân sủng
Đức Kitô, ân sủng này bây giờ đang thống trị thế gian, thay cho tội lỗi và sự
chết đã thống trị thế gian từ Adam. Chỉ vì tội lỗi đến trần gian qua Adam, thì
qua Đức Kitô, công chính đã đến
”.

Như vậy,
chúng ta không còn nô lệ cho tội nữa, nhưng là con cái ánh sang và tự do. Bởi
vì, “con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng
đinh vào thập giá với Đức Kitô
” (Rm 6, 6), cho nên “cũng như Người đã sống lại từ cõi chết, nhờ quyền năng của Thiên Chúa
Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới
” (Rm 6, 4). Nhờ mầu nhiệm
vượt qua của Đức kitô, lương bỏng của tội lỗi là sự chết đã được tẩy xoá. Bây
giờ chúng ta bắt đầu viết nên những trang giấy mới của cuộc đời “bằng chính ân huệ Thiên Chúa ban không, là
sự sống đời đời trong Đức Giêsu Kitô
” (Rm 6, 23). Ân ban này vượt quá sức
mong đợi của con người, bởi vì dưới sức nặng của tội lỗi và sự chết, con người
cảm thấy bất lực. Nhưng điều mà con người không thể, thì Thiên Chúa lại có thể
làm tất cả cho những ai yêu mến Ngài (x. Rm 8, 28).

Chính
Thiên Chúa đã đi bước trước khi sai Đức Giêsu “làm hy lễ xá tội nhờ máu của Người” (Rm 3, 25). Nhờ máu Đức Kitô đã
đổ ra trong cuộc khổ nạn đã giải gở chúng ta khỏi vòng của tội luỵ và sự chết.
Nói cách khác, Thiên Chúa đã tẩy rửa chúng ta sạch hết mọi tội lỗi bằng giá máu
của Đức Kitô. Nhờ đó, chúng ta được giải thoát khỏi sự vây hãm của tội và sự
chết để cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang.


Giao Hoà Với Thiên Chúa

Trong
Đức Kitô, chúng ta đã nhận được đời sống mới, một sự tái tạo con người. Nhờ
phép rửa, chúng ta được sống mầu nhiệm sự chết và sống lại của Đức Kitô, nên
bản chất nội tại của nó đã được biến đổi: “
chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta
cũng nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại
” (Rm 6, 5).
Dưới cái nhìn của thánh Phaolô, phép rửa đã thiết lập quyền sở hữu Đức Kitô
trên chúng ta. Nói theo cách của Fitzmyer: “Thánh
Phaolô muốn nhận mạnh rằng chúng ta không những đồng nhất với cái chết của Đức
Kitô, Người đã chiến thắng tội lỗi, nhưng còn được đưa vào trong chính hành
động chiến thắng đó. Vì thế, người tín hữu là người chết đối với tội lỗi, được
liên kết với Đức Kitô ngay vào thời điểm chính thức trở thánh Đấng Cứu Thế
”. Sự chiến thắng tội lỗi
của chúng ta là nhờ tháp nhập vào Đức Kitô, Đấng đã tiêu diệt tội lỗi và thần
chết: “Người đã chết, là chết đối với tội
lỗi và một lần là đủ. Nay Người sống là sống cho Thiên Chúa
” (Rm 6, 10).

Như
vậy, chúng ta đươc giao hoà với Thiên Chúa không gì hơn không gì hơn là được đi
vào trong quỉ đạo tình yêu của Ngài, được trở nên nghĩa tử và Thiên Chúa cho
đồng thừa kế với Đức Kitô. Đó là ý tưởng mà Thánh Phaolô muốn nói: “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng
ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con thì cũng là thừa kế, mà
được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô
” (Rm 8,
16- 17). Trong Đức Kitô, chúng ta không còn là người xa lạ hay người tạm trú,
nhưng là người được quyền ở trong nhà Cha và chung phần gia sản Cha ban. Do đó,
cái chết và phục sinh của Đức Kitô là chất keo nối kết chúng ta với Thiên Chúa,
được chung chia sự sống của Người. Ở đây, thánh Phaolô đưa ra một viễn tượng
đầy hy vọng: “Nếu ngay khi chúng ta còn
thù địch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã cho con của Người phải chết mà cho chúng
ta được giao hoà với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được giao hoà rồi,
hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. Như vậy, không phải chỉ
có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, Đấng nay đã giao hoà chúng ta với Thiên Chúa
” (Rm 5, 10- 11).

Thánh
Phaolô không dừng lại ơn công chính hoá ở mức độ lề luật hay khả năng bản thân,
mà đưa lên một tầm mức cao: Lập mối tương giao với Thiên Chúa. Ý tưởng này,
chúng ta cũng gặp thấy nơi Đức Thánh cha Bênêđictô XVI: “Được nên công chính nghĩa là được làm thành chính trực, được sự công
minh đầy thương xót của Thiên Chúa chấp nhận để được đi vào sự hiệp thong với
Ngài, và nhờ đó có khả năng thiết lập mối liên hệ đích thực… và điều này xảy ra
dựa trên việc Thiên Chúa hoàn toàn tha thứ các tội lỗi của chúng ta
”. Nhờ mối tương giao này,
chúng ta can đảm tiến bước ngay cả lúc gặp phải những chướng ngại, khó nguy và
cám dỗ, vì xác tín rằng: “Không có gì
tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa
chúng ta
” (Rm 8, 39). Nói theo ngôn ngữ của Đức Thánh cha Phanxicô: “Chúa Giêsu là cửa ngõ của ơn cứu độ. Cửa ngõ
của Chúa Giêsu không bao giờ đóng kín, mà luôn luôn rộng mở cho tất cả mọi
người, không phân biệt một ai, không loại trừ một người nào, và cũng không một
đặc ân cho một a
i”.

Chúa
Giêsu là điểm hội tụ giữa Thiên Chúa và con người. Nơi đó, con người bắt gặp
được ánh mắt yêu thương, an ủi và khích lệ của Thiên Chúa. Đó là động năng thúc
đẩy con người vượt trên và vượt ra ngoài những lầm lỗi và sa ngã, vì biết rằng
Thiên Chúa đang cầm tay tôi và cùng đồng hành với tôi.

Chúng
ta là “những người được kêu gọi để thuộc
về Thiên Chúa
” (Rm 1, 6). Điều này đồng nghĩa chúng ta phải nói tiếng
“không” với những mãnh lực đang làm xói mòn đức tin hay lôi kéo ta xa Thiên
Chúa. Nhờ đó, ân sủng Thiên Chúa đến với ta cách viên mãn, được biến đổi nên
một con người mới, giống hình ảnh Thiên Chúa và được sống trong mối than tình
Cha- con.

KẾT LUẬN

Ơn
công chính hoá không phải là một đề tài mới, nhưng đã được thánh Phaolô diễn tả
theo một chiều kích khác: Ơn công chính hoá không dựa trên lề luật hay tự sức
mình đạt được, mà được thụ đắc nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô.
Giáo lý này tạo nên một bước ngoặt cho niềm tin nơi những kitô hữu gốc Do Thái.
Bởi đó, để tránh ngộ nhận, thánh nhân nêu lên những điểm chính yếu trong đạo Do
Thái là lề luật và lời hứa, rồi đối chiếu ơn công chính nhờ đức tin để nói lên
rằng: Ơn công chính hoá không đi ngược lại với lời hứa và lề luật. Thật ra, nó
giải gở lề luật ra khỏi cái khung của hình thức và kiện toàn các lời hứa.

Thư
gửi tín hữu Do thái là bản tóm lược những nét thần học căn bản của Phaolô, đồng
thời cũng hàm chứa những ưu tư, kinh nghiệm và ước vọng của ngài. Đàng khác, lá
thư này như một sự dọn đường cho hành trình truyền giáo tại Tây Phương mà ngài
đang dự tính. Sở dĩ như thế, vì giáo đoàn Rô ma không do ngài thiết lập và ngài
cũng chưa đặt chân tới đó bao giờ.

Những
gì ngài viết trong thư là các vấn nạn mà giáo đoàn đang gặp phải, nhất là ơn
công chính hoá. Với vai trò tông đồ của Đức Kitô, ngài đưa ra những hướng đi
khả dĩ giúp các tín hữu Rôma có một cái nhìn chung và đúng đắn với niềm tin đã
lãnh nhận. Thánh nhân cho thấy, ơn công chính hoá không hệ tại làm những gì
luật dạy, hay bằng những cố gắng bản thân. Trước hết, nó là sáng kiến của Thiên
Chúa để con người đạt được nguồn ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô. Chính Đức Kitô
đã chết vì tội lỗi con người và ngài đã sống lại để ban cho con người sự sống
sung mãn của Thiên Chúa, một sự sống được xây đắp bởi tự do và ân sủng của
Thiên Chúa.

        

Montfort Nguyễn Xuân Pháp CT

 

                                SÁCH THAM KHẢO

 

  • Các
    Giờ Kinh Phụng Vụ
    . Nxb: Hà Nội 1995.

    Kinh Thánh Tân Ước. Nhóm phiên dịch. Nxb: Hà Nội 1995.

  • Tài Liệu Học Hỏi
    Về Năm Thánh Phaolô
    . Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh dịch. Nxb: Hà Nội 2009.

    Hội đồng giám mục đức.. Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh dịch. Nxb: Hà Nội 2009.

  • Huấn Từ Về Năm Thánh
    Phaolô
    . Lm Aug. nguyễn Văn Trinh dịch. Nxb: Hà Nội 2009.

    ĐGH Bênêđíctô XVI.. Lm Aug. nguyễn Văn Trinh dịch. Nxb: Hà Nội 2009.

  • Tông Huấn Porta Fidei.
    Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh dịch. Nxb: Hà Nội 2012.

    ĐGH Bênêđíctô XVI.. Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh dịch. Nxb: Hà Nội 2012.

  • Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo. Bản dịch của ủy Ban Giáo Lý Đức Tin- trực thuộc HĐGM Việt Nam. Nxb: Hà Nội 2011.

  • Từ Điển Công Giáo- 500 Mục Từ. Nxb: Hà Nội 2011.

    Hội Đồng Giám Mục Việt Nam- ủy Ban Giáo Lý Đức Tin.. Nxb: Hà Nội 2011.

  • Thư Thánh Phaolô Gửi Tín Hữu Rôma,
    1990. Tài liệu tham khảo

    J.A.Fitzmyer, sj., 1990. Tài liệu tham khảo

  • Điển Ngữ
    Thần Học Thánh Kinh
    . Năm 1973.

    Filipe Gomez, sj- Học Viện Pio X.. Năm 1973.

  • Một Kitô Hữu Trước Các Tôn
    Giáo Lớn
    . Nguyễn Thị Chung dịch. Nxb: Hà Nội, 2009.

    Francois Varillon.. Nguyễn Thị Chung dịch. Nxb: Hà Nội, 2009.

  • Từ Điển Thánh Kinh I
    (A- C).

    J. Theilln.I (A- C).

  • Internet. Vietcatholic.org/Sydney.

Rate this post

Viết một bình luận