Phân tích hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ lòng

Bài thơ Tỏ lòng trình bày hào khí Đông A luôn sục sôi được toát ra nhờ thủ pháp gợi thiên về ấn tượng bao quát, văn pháp hoành tráng, có tính sử thi với hình tượng thơ lớn lao, kì vĩ. Để hiểu hơn về bài thơ này, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ lòng dưới đây nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm tri thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Tỏ lòng.

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài cụ thể

a. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả tác phẩm.

– Ví dụ: Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Hiện thực cuộc sống là chất liệu thô sơ nhưng nhà văn làm mềm mại trên trang sách. “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão là trang thơ mang đậm ý thức của thời đại nhưng nó ra đời như thế, thời đại quân dân nhà Trần kháng chiến chống quân Mông Nguyên, dội vang âm hưởng của hào khí Đông A.

b. Thân bài:

* Hào khí Đông A:

– Đông A là triết tự của chữ Trần trong tiếng hán, gồm bộ A và chữ Đông.

– Hào khí Đông A là khí thế đấu tranh hào hùng của một thời đại vàng son lịch sử, là thời kì bùng lên sức mạnh dân tộc tự lập tự cường, ý chí quyết thắng của quân và dân.

– Hào khí Đông A là thành phầm của thời đại hào hùng của tổ quốc, là kết tinh sức mạnh toàn dân, là ngọn lửa vút cao ý chí dân tộc.

– Âm vang của hào khí Đông A có nhẽ cũng là một nguồn cảm hứng cho sáng tác “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.

* Hào khí Đông A trong bài thơ “Thuật hoài”

– Hào khí Đông A trình bày ở sự ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh con người thời đại nhà Trần: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

+ Hai chữ “hoành sóc” làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng đấu tranh bảo vệ tổ quốc.

+ “Giang sơn”: gợi ko gian rộng lớn.

+ “Kháp kỉ thu”: thời kì dài dằng dặc.

– Vẻ đẹp của tư thế được đặt trong ko gian rộng lớn giữa dòng thời kì vô tận, hình ảnh thơ mang tính ước lệ đã tô đậm tầm vóc lớn lao, kì vĩ của người tráng sĩ. Thời gian đã nhấn mạnh vào sự dẻo dai, ý thức luôn sẵn sàng của người lính.

– Người tráng sĩ có tầm vóc sánh ngang với vũ trụ, khí thế như bao trùm trời đất.

– Thể hiện xúc cảm ngưỡng mộ, tự hào của thi sĩ: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

+ Vẻ đẹp tư nhân đã trở thành vẻ đẹp tập thể.

+ “Tam quân”: cách nói ước lệ, chỉ toàn thể quân đội nhà Trần.

+ “Tì hổ”: so sánh ngầm quân nhà Trần có sức mạnh hùng dũng như loài hổ báo.

+ “Khi thôn ngưu”: khí thế trận đấu xoá sổ giặc của quân đội nhà Trần. Đó có thể hiểu là khí thế của những con người trẻ tuổi có khí phách người hùng, cũng có thể hiểu là khí thế ra trận hùng dũng làm mờ cả sao Ngưu.

=> Cả hai cách hiểu trên đều làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế đấu tranh hào hùng của quân đội nhà Trần. Người lính ra trận với tư thế quyết đấu quyết thắng, đã đấu tranh là phải thắng lợi, lập nên kì tích lừng lẫy trong lịch sử, tạo thành sức mạnh dội vang cho thời đại.

=> Hai câu thơ đã trình bày xúc cảm ngưỡng mộ, tự hào về sức mạnh tự cường, ý thức tự trọng về dân tộc, làm bừng lên khí thế hào hùng, là thời đại cao đẹp với những con người cao đẹp.

* Hào khí Đông A trình bày qua nỗi băn khoăn, suy tư về khát vọng lập công danh của con người thời loạn

– “Nam nhi vị liễu công danh trái”

+ Câu thơ nhắc tới chí hướng của nam nhi. Trong văn học trung đại, chữ “nam nhi” gắn liền với lí tưởng công danh; kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập công danh, tạo dựng sự nghiệp, để lại tiếng vang trong đời. Lí tưởng công danh đã khích lệ biết bao nam tử hán, để họ sẵn sàng rèn luyện, tu thân sao cho đủ phẩm chất để lập được công danh cho riêng mình.

+ Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh kì tích, vẫn nhưng vẫn băn khoăn “Nam nhi vị liễu công danh trái” trình bày ý chí vươn lên, ko ngừng tu thân để hoàn thiện chính mình. Nó là bộc lộ của nhiệt tâm tâm huyết của một người chí sĩ muốn hiến dâng cho tổ quốc dân tộc.

– “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

+ “Vũ Hầu”: nhiều mưu lược, vị quân sự nổi tiếng với tài thao lược. Vũ Hầu từng giúp Lưu Bị lập nên Thục Hán, sau đã xả thân nơi trận mạc.

+ Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Hầu làm mẫu mực cho công danh sự nghiệp của mình, lấy làm thẹn lúc chưa lập được công danh như Vũ Hầu.

+ Câu thơ đã tăng lên tư cách của Phạm Ngũ Lão, trình bày lòng nung nấu khát vọng lập công, bộc bạch lòng tận trung với tổ quốc và khát vọng hiến dâng cả đời cho dân tộc.

+ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân với ý chí lập công sắt đá. Đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, “Thuật hoài” có thể được coi là lời đáp của con cháu với “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tạo nên truyền thống vẻ vang cha dũng con hùng.

* Thẩm định:

– Hào khí Đông A đã góp phần tạo nên thắng lợi lừng lẫy, tạo nên một thời đại với những kì tích rực rỡ lưu danh sử sách.

– Hào khí Đông A ko chỉ là tư tưởng chung của bài thơ nhưng còn là của cả thời đại nhà Trần, làm cho thế hệ trẻ phải suy nghĩ mình sẽ làm gì để xứng đáng với ông cha.

– Hào khí Đông A là dòng mạch chung của văn học cùng thời kì với bài thơ.

c. Kết bài:

– Nêu cảm nhận chung của bản thân.

– Ví dụ: Thời đại nào, văn thơ đó. “Thuật hoài” mang đậm sắc màu quả cảm hào hùng, mang theo mạch nguồn hào khí Đông A đi từ cuộc sống vào trang giấy. Bài thơ đã đưa người đọc sống lại một thời rực rỡ đã qua và khiến ta phải suy ngẫm về phận sự và trách nhiệm của chính mình.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết bài văn ngắn phân tích hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

Trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam thì triều đại để lại nhiều dấu ấn nhất có nhẽ là triều Trần. Không đạt được những thành tựu to lớn về mặt kinh tế, văn hóa nhưng thời Trần còn lừng lẫy sử sách với thắng lợi của ba lần chống quân Mông -Nguyên. Phcửa ải chăng chính những thắng lợi vẻ vang đó đã tạo nên một hào khí vô cùng to lớn, mạnh mẽ, chỉ có ở thời Trần nhưng ko phải bất kì một triều đại nào khác của Việt Nam – hào khí Đông A. Chỉ có ở thời Trần, người ta mới cảm được sức mạnh to lớn nhưng hào hùng vô cùng của hào khí này. Và nó đã nghiễm nhiên trở thành niềm cảm hứng đi vào ko ít tác phẩm thơ ca nổi tiếng vào thời đó, trong đó có tác phẩm thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.

Nhắc về hào khí Đông A, hẳn ko ít người đã từng nghe thấy rất nhiều lần nhưng vẫn luôn băn khoăn tự hỏi, hào khí Đông A là gì? Vì sao nó lại được phát huy mạnh mẽ nhất vào thời nhà Trần? Hào khí Đông A là hào khí của thời Trần, hai chữ Đông và A lúc ghép lại trong nguyên văn chữ Hán sẽ tạo nên chữ Trần, vậy nên mới nói, hào khí này là hào khí của nhà Trần, của quân và dân đời Trần. Nó cũng là cái khí thế oai hùng, hào sảng của nhà Trần, trong khi ở thời kì này, chúng ta đã ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên – đội quân hung hãn nhất toàn cầu thời bấy giờ. Hào khí Đông A cũng chính là cái khí thế đầy tâm huyết, hừng hực trong thú vui thắng lợi quân địch, là sự khát khao mang tính thời đại bởi đói người nào cũng muốn góp một phần sức lực bảo vệ non sông, xây dựng Tổ quốc mình. Đồng thời, cũng phải nói rằng hào khí Đông A là kết tinh thâm thúy của lòng yêu nước nồng nàn của con người Việt Nam ta thời đó.

Bài thơ Thuật hoài trình bày rõ hào khí Đông A thời Trần. Hai câu thơ đầu là tiêu biểu cho sự trình bày đó:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

Dịch thơ:

“Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

“Hoành sóc giang sơn” có tức là cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ tổ quốc. Thời nhà Trần phải chống lại quân địch nguy hiểm nhất, mạnh nhất thời bấy giờ. Giặc Nguyên Mông bấy giờ hung hãn và mọi rợ nhất, vó ngựa của chúng đi tới thảo nguyên nào thì thảo nguyên đó ko còn một ngọn cỏ. Sức càn quét và xâm chiếm của chúng làm cho nhiều nước khác phải kinh sợ. Thế nhưng tổ quốc ta phải đương đầu với những tên giặc nguy hiểm này thì quân dân nhà Trần ko hề sợ sệt. Trên dưới một lòng bảo vệ tổ quốc giang sơn. Ngọn giáo giống như quốc bảo của người quân tử thời Trần, nó được đo bởi chiều rộng và chiều cao của tổ quốc. Sứ mệnh của quân dân nhà Trần là bảo vệ tổ quốc, từ lâu nay nay vẫn thế há gì gặp giặc ngoại xâm nguy hiểm nhất lại phải chùn bước.

Câu thơ trình bày ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc và người quân tử thời Trần tự ý thức được trách nhiệm của mình với tổ quốc. Chính bởi đồng lòng cho nên ba quân của nhà Trần mạnh mẽ như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Khí thế đó tưởng chừng có thể nuốt hết một con trâu lớn. Hai câu thơ trình bày sự hào hùng, quật cường của quân đội nhà Trần. Đó chính là sự trình bày của hào khí Đông A.

Nếu hai câu thơ đầu, thi sĩ trình bày hào khí Đông A của một thời đại đầy hào hùng thì tới hai câu thơ cuối thi sĩ bộc bạch nỗi “thẹn” của mình:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”)

Xưa kia, sinh tiền phận làm trai thì phải có công danh và sự nghiệp. Một người nam nhi chân chính là phải có danh với núi sông, có công với tổ quốc. Chỉ có như thế mới xứng đáng là phận nam tri đầu đội trời chân đạp đất. Cái nợ công danh của thi sĩ vẫn còn trong lúc ông đã từng đánh nam dẹp bắc, chặn biết bao nhiêu trục đường của giặc đi. Phạm Ngũ Lão – một vị tướng tài hoa của nhà Trần thế nhưng ông vẫn khiêm tốn về công danh của mình với vua, với nước. Ông “thẹn” lúc nghe chuyện Vũ Hầu bởi vì Vũ Hầu cũng là phận bề tôi như ông. Nhưng Vũ Hầu làm được nhiều việc có công lớn với tổ quốc với vua hơn. Chính vì thế nhưng dù Phạm Ngũ Lão tài giỏi và hết lòng vì tổ quốc nhưng bản thân thi sĩ vẫn ko cảm thấy ưng ý với những gì mình đã làm. Theo thi sĩ, có nhẽ bấy nhiêu thôi chưa đủ để gọi là công danh với tổ quốc.

Qua đây ta có thể thấy rõ được hào khí Đông A thời nhà Trần và nỗi thẹn của người quân tử, người tướng quân hết lòng ra sinh vào tử vì vua vì nước. Có thể nói hào khí Đông A là yếu tố cơ bản làm nên ba lần thắng lợi giặc nguyên Mông. Đồng thời ta có thể thấy được tấm lòng của vị tướng quân tài hoa với tổ quốc mình. Dẫu có bao nhiêu chiến công hiển hách, Phạm ngũ Lão vẫn thấy chưa đủ để phục vụ cho vua và cho tổ quốc.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Tỏ lòng là một tác phẩm nổi tiếng của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Dù được xếp vào loại thơ trữ tình, nhưng từng câu từng chữ lại toát lên cái hào khí Đông A ngút trời của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một người văn võ song toàn, sống thời thời Trần, là vị danh tướng trăm trận trăm thắng. Ông được biết tới sau những chiến công hiển hách chống lại giặc xâm lược Mông – Nguyên. Phạm Ngũ Lão sáng tác ko nhiều, hiện nay tác phẩm còn lại của ông chỉ có hai bài thơ chữ Hán, trong đó có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Tỏ lòng

Tỏ lòng được sáng tác trong một bối cảnh đặc thù, bối cảnh an nguy của nước nhà đang bị dọa nạt bởi quân Mông – Nguyên hung tàn, bối cảnh mọi từng lớp của dân tộc nhất trí đồng lòng chống lại ách xâm lược, giữ vững non sông gấm vóc ông cha để lại.

Bài thơ được chia làm hai phần rất rõ ràng. Hai câu mở đầu trình bày hình tượng của quân đội và con người thời Trần, hai câu sau chính là lời bộc bạch nỗi lòng của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh tráng lệ của con người và quân đội thời Trần, qua âm hưởng sảng khoái, hào hùng:

“Hoành sóc sơn hà kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Qua hai câu thơ này, hình ảnh đấng nam nhi lẫm liệt uy phong đang xả thân vì nước như hiện lên rõ ràng trước mắt. Cũng từ đó, ta cảm thu được một hào khí Đông A ngút trời của một thời đại người hùng trong lịch sử.

Trong đó, câu thơ “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” trình bày hình ảnh người lính cầm ngang ngọn giáo, luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn sàng tấn công, áp đạo quân thù xâm lược một cách hùng dũng để bảo vệ giang sơn rộng lớn suốt thời kì dài. Có thể nói, đây cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc Việt mạnh mẽ, quật cường, ko bao giờ chịu khuất phục, là ánh hào quang tỏa sáng ngời ngời của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa.

Câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), dịch tức là khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời, còn có cách dịch khác là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Cho dù hiểu theo cách nào thì người đọc cũng đều cảm thu được sức mạnh vô cùng to lớn, ko đối thủ nào có thể địch nổi của quân dân ta.

Là một thành viên của đạo quân người hùng đó, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng lúc tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sục sôi khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh đó chính là ý muốn được đấu tranh, hiến dâng đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Do đó cho nên lúc chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài hoa của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đối phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó nhưng so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần thiết ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh kế bên chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi cương vực. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi xanh với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Nhưng tương tự là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ, ông muốn sống xứng đáng với thời đại người hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Xúc cảm hào sảng thuở đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở thành trầm lặng, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài hoa nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bộc bạch được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi xanh đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất thâm thúy về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

—–Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp—–

.

Thông tin thêm

Phân tích hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ lòng

[rule_3_plain]

[rule_3_plain]

Bài thơ Tỏ lòng trình bày hào khí Đông A luôn sục sôi được toát ra nhờ thủ pháp gợi thiên về ấn tượng bao quát, văn pháp hoành tráng, có tính sử thi với hình tượng thơ lớn lao, kì vĩ. Để hiểu hơn về bài thơ này, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ lòng dưới đây nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm tri thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Tỏ lòng.

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài cụ thể

a. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả tác phẩm.

– Ví dụ: Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Hiện thực cuộc sống là chất liệu thô sơ nhưng nhà văn làm mềm mại trên trang sách. “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão là trang thơ mang đậm ý thức của thời đại nhưng nó ra đời như thế, thời đại quân dân nhà Trần kháng chiến chống quân Mông Nguyên, dội vang âm hưởng của hào khí Đông A.

b. Thân bài:

* Hào khí Đông A:

– Đông A là triết tự của chữ Trần trong tiếng hán, gồm bộ A và chữ Đông.

– Hào khí Đông A là khí thế đấu tranh hào hùng của một thời đại vàng son lịch sử, là thời kì bùng lên sức mạnh dân tộc tự lập tự cường, ý chí quyết thắng của quân và dân.

– Hào khí Đông A là thành phầm của thời đại hào hùng của tổ quốc, là kết tinh sức mạnh toàn dân, là ngọn lửa vút cao ý chí dân tộc.

– Âm vang của hào khí Đông A có nhẽ cũng là một nguồn cảm hứng cho sáng tác “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.

* Hào khí Đông A trong bài thơ “Thuật hoài”

– Hào khí Đông A trình bày ở sự ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh con người thời đại nhà Trần: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

+ Hai chữ “hoành sóc” làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng đấu tranh bảo vệ tổ quốc.

+ “Giang sơn”: gợi ko gian rộng lớn.

+ “Kháp kỉ thu”: thời kì dài dằng dặc.

– Vẻ đẹp của tư thế được đặt trong ko gian rộng lớn giữa dòng thời kì vô tận, hình ảnh thơ mang tính ước lệ đã tô đậm tầm vóc lớn lao, kì vĩ của người tráng sĩ. Thời gian đã nhấn mạnh vào sự dẻo dai, ý thức luôn sẵn sàng của người lính.

– Người tráng sĩ có tầm vóc sánh ngang với vũ trụ, khí thế như bao trùm trời đất.

– Thể hiện xúc cảm ngưỡng mộ, tự hào của thi sĩ: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

+ Vẻ đẹp tư nhân đã trở thành vẻ đẹp tập thể.

+ “Tam quân”: cách nói ước lệ, chỉ toàn thể quân đội nhà Trần.

+ “Tì hổ”: so sánh ngầm quân nhà Trần có sức mạnh hùng dũng như loài hổ báo.

+ “Khi thôn ngưu”: khí thế trận đấu xoá sổ giặc của quân đội nhà Trần. Đó có thể hiểu là khí thế của những con người trẻ tuổi có khí phách người hùng, cũng có thể hiểu là khí thế ra trận hùng dũng làm mờ cả sao Ngưu.

=> Cả hai cách hiểu trên đều làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế đấu tranh hào hùng của quân đội nhà Trần. Người lính ra trận với tư thế quyết đấu quyết thắng, đã đấu tranh là phải thắng lợi, lập nên kì tích lừng lẫy trong lịch sử, tạo thành sức mạnh dội vang cho thời đại.

=> Hai câu thơ đã trình bày xúc cảm ngưỡng mộ, tự hào về sức mạnh tự cường, ý thức tự trọng về dân tộc, làm bừng lên khí thế hào hùng, là thời đại cao đẹp với những con người cao đẹp.

* Hào khí Đông A trình bày qua nỗi băn khoăn, suy tư về khát vọng lập công danh của con người thời loạn

– “Nam nhi vị liễu công danh trái”

+ Câu thơ nhắc tới chí hướng của nam nhi. Trong văn học trung đại, chữ “nam nhi” gắn liền với lí tưởng công danh; kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập công danh, tạo dựng sự nghiệp, để lại tiếng vang trong đời. Lí tưởng công danh đã khích lệ biết bao nam tử hán, để họ sẵn sàng rèn luyện, tu thân sao cho đủ phẩm chất để lập được công danh cho riêng mình.

+ Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh kì tích, vẫn nhưng vẫn băn khoăn “Nam nhi vị liễu công danh trái” trình bày ý chí vươn lên, ko ngừng tu thân để hoàn thiện chính mình. Nó là bộc lộ của nhiệt tâm tâm huyết của một người chí sĩ muốn hiến dâng cho tổ quốc dân tộc.

– “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

+ “Vũ Hầu”: nhiều mưu lược, vị quân sự nổi tiếng với tài thao lược. Vũ Hầu từng giúp Lưu Bị lập nên Thục Hán, sau đã xả thân nơi trận mạc.

+ Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Hầu làm mẫu mực cho công danh sự nghiệp của mình, lấy làm thẹn lúc chưa lập được công danh như Vũ Hầu.

+ Câu thơ đã tăng lên tư cách của Phạm Ngũ Lão, trình bày lòng nung nấu khát vọng lập công, bộc bạch lòng tận trung với tổ quốc và khát vọng hiến dâng cả đời cho dân tộc.

+ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân với ý chí lập công sắt đá. Đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, “Thuật hoài” có thể được coi là lời đáp của con cháu với “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tạo nên truyền thống vẻ vang cha dũng con hùng.

* Thẩm định:

– Hào khí Đông A đã góp phần tạo nên thắng lợi lừng lẫy, tạo nên một thời đại với những kì tích rực rỡ lưu danh sử sách.

– Hào khí Đông A ko chỉ là tư tưởng chung của bài thơ nhưng còn là của cả thời đại nhà Trần, làm cho thế hệ trẻ phải suy nghĩ mình sẽ làm gì để xứng đáng với ông cha.

– Hào khí Đông A là dòng mạch chung của văn học cùng thời kì với bài thơ.

c. Kết bài:

– Nêu cảm nhận chung của bản thân.

– Ví dụ: Thời đại nào, văn thơ đó. “Thuật hoài” mang đậm sắc màu quả cảm hào hùng, mang theo mạch nguồn hào khí Đông A đi từ cuộc sống vào trang giấy. Bài thơ đã đưa người đọc sống lại một thời rực rỡ đã qua và khiến ta phải suy ngẫm về phận sự và trách nhiệm của chính mình.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết bài văn ngắn phân tích hào khí Đông A trong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

Trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam thì triều đại để lại nhiều dấu ấn nhất có nhẽ là triều Trần. Không đạt được những thành tựu to lớn về mặt kinh tế, văn hóa nhưng thời Trần còn lừng lẫy sử sách với thắng lợi của ba lần chống quân Mông -Nguyên. Phcửa ải chăng chính những thắng lợi vẻ vang đó đã tạo nên một hào khí vô cùng to lớn, mạnh mẽ, chỉ có ở thời Trần nhưng ko phải bất kì một triều đại nào khác của Việt Nam – hào khí Đông A. Chỉ có ở thời Trần, người ta mới cảm được sức mạnh to lớn nhưng hào hùng vô cùng của hào khí này. Và nó đã nghiễm nhiên trở thành niềm cảm hứng đi vào ko ít tác phẩm thơ ca nổi tiếng vào thời đó, trong đó có tác phẩm thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.

Nhắc về hào khí Đông A, hẳn ko ít người đã từng nghe thấy rất nhiều lần nhưng vẫn luôn băn khoăn tự hỏi, hào khí Đông A là gì? Vì sao nó lại được phát huy mạnh mẽ nhất vào thời nhà Trần? Hào khí Đông A là hào khí của thời Trần, hai chữ Đông và A lúc ghép lại trong nguyên văn chữ Hán sẽ tạo nên chữ Trần, vậy nên mới nói, hào khí này là hào khí của nhà Trần, của quân và dân đời Trần. Nó cũng là cái khí thế oai hùng, hào sảng của nhà Trần, trong khi ở thời kì này, chúng ta đã ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên – đội quân hung hãn nhất toàn cầu thời bấy giờ. Hào khí Đông A cũng chính là cái khí thế đầy tâm huyết, hừng hực trong thú vui thắng lợi quân địch, là sự khát khao mang tính thời đại bởi đói người nào cũng muốn góp một phần sức lực bảo vệ non sông, xây dựng Tổ quốc mình. Đồng thời, cũng phải nói rằng hào khí Đông A là kết tinh thâm thúy của lòng yêu nước nồng nàn của con người Việt Nam ta thời đó.

Bài thơ Thuật hoài trình bày rõ hào khí Đông A thời Trần. Hai câu thơ đầu là tiêu biểu cho sự trình bày đó:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

Dịch thơ:

“Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

“Hoành sóc giang sơn” có tức là cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ tổ quốc. Thời nhà Trần phải chống lại quân địch nguy hiểm nhất, mạnh nhất thời bấy giờ. Giặc Nguyên Mông bấy giờ hung hãn và mọi rợ nhất, vó ngựa của chúng đi tới thảo nguyên nào thì thảo nguyên đó ko còn một ngọn cỏ. Sức càn quét và xâm chiếm của chúng làm cho nhiều nước khác phải kinh sợ. Thế nhưng tổ quốc ta phải đương đầu với những tên giặc nguy hiểm này thì quân dân nhà Trần ko hề sợ sệt. Trên dưới một lòng bảo vệ tổ quốc giang sơn. Ngọn giáo giống như quốc bảo của người quân tử thời Trần, nó được đo bởi chiều rộng và chiều cao của tổ quốc. Sứ mệnh của quân dân nhà Trần là bảo vệ tổ quốc, từ lâu nay nay vẫn thế há gì gặp giặc ngoại xâm nguy hiểm nhất lại phải chùn bước.

Câu thơ trình bày ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc và người quân tử thời Trần tự ý thức được trách nhiệm của mình với tổ quốc. Chính bởi đồng lòng cho nên ba quân của nhà Trần mạnh mẽ như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Khí thế đó tưởng chừng có thể nuốt hết một con trâu lớn. Hai câu thơ trình bày sự hào hùng, quật cường của quân đội nhà Trần. Đó chính là sự trình bày của hào khí Đông A.

Nếu hai câu thơ đầu, thi sĩ trình bày hào khí Đông A của một thời đại đầy hào hùng thì tới hai câu thơ cuối thi sĩ bộc bạch nỗi “thẹn” của mình:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”)

Xưa kia, sinh tiền phận làm trai thì phải có công danh và sự nghiệp. Một người nam nhi chân chính là phải có danh với núi sông, có công với tổ quốc. Chỉ có như thế mới xứng đáng là phận nam tri đầu đội trời chân đạp đất. Cái nợ công danh của thi sĩ vẫn còn trong lúc ông đã từng đánh nam dẹp bắc, chặn biết bao nhiêu trục đường của giặc đi. Phạm Ngũ Lão – một vị tướng tài hoa của nhà Trần thế nhưng ông vẫn khiêm tốn về công danh của mình với vua, với nước. Ông “thẹn” lúc nghe chuyện Vũ Hầu bởi vì Vũ Hầu cũng là phận bề tôi như ông. Nhưng Vũ Hầu làm được nhiều việc có công lớn với tổ quốc với vua hơn. Chính vì thế nhưng dù Phạm Ngũ Lão tài giỏi và hết lòng vì tổ quốc nhưng bản thân thi sĩ vẫn ko cảm thấy ưng ý với những gì mình đã làm. Theo thi sĩ, có nhẽ bấy nhiêu thôi chưa đủ để gọi là công danh với tổ quốc.

Qua đây ta có thể thấy rõ được hào khí Đông A thời nhà Trần và nỗi thẹn của người quân tử, người tướng quân hết lòng ra sinh vào tử vì vua vì nước. Có thể nói hào khí Đông A là yếu tố cơ bản làm nên ba lần thắng lợi giặc nguyên Mông. Đồng thời ta có thể thấy được tấm lòng của vị tướng quân tài hoa với tổ quốc mình. Dẫu có bao nhiêu chiến công hiển hách, Phạm ngũ Lão vẫn thấy chưa đủ để phục vụ cho vua và cho tổ quốc.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Tỏ lòng là một tác phẩm nổi tiếng của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Dù được xếp vào loại thơ trữ tình, nhưng từng câu từng chữ lại toát lên cái hào khí Đông A ngút trời của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một người văn võ song toàn, sống thời thời Trần, là vị danh tướng trăm trận trăm thắng. Ông được biết tới sau những chiến công hiển hách chống lại giặc xâm lược Mông – Nguyên. Phạm Ngũ Lão sáng tác ko nhiều, hiện nay tác phẩm còn lại của ông chỉ có hai bài thơ chữ Hán, trong đó có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Tỏ lòng

Tỏ lòng được sáng tác trong một bối cảnh đặc thù, bối cảnh an nguy của nước nhà đang bị dọa nạt bởi quân Mông – Nguyên hung tàn, bối cảnh mọi từng lớp của dân tộc nhất trí đồng lòng chống lại ách xâm lược, giữ vững non sông gấm vóc ông cha để lại.

Bài thơ được chia làm hai phần rất rõ ràng. Hai câu mở đầu trình bày hình tượng của quân đội và con người thời Trần, hai câu sau chính là lời bộc bạch nỗi lòng của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh tráng lệ của con người và quân đội thời Trần, qua âm hưởng sảng khoái, hào hùng:

“Hoành sóc sơn hà kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Qua hai câu thơ này, hình ảnh đấng nam nhi lẫm liệt uy phong đang xả thân vì nước như hiện lên rõ ràng trước mắt. Cũng từ đó, ta cảm thu được một hào khí Đông A ngút trời của một thời đại người hùng trong lịch sử.

Trong đó, câu thơ “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” trình bày hình ảnh người lính cầm ngang ngọn giáo, luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn sàng tấn công, áp đạo quân thù xâm lược một cách hùng dũng để bảo vệ giang sơn rộng lớn suốt thời kì dài. Có thể nói, đây cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc Việt mạnh mẽ, quật cường, ko bao giờ chịu khuất phục, là ánh hào quang tỏa sáng ngời ngời của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa.

Câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), dịch tức là khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời, còn có cách dịch khác là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Cho dù hiểu theo cách nào thì người đọc cũng đều cảm thu được sức mạnh vô cùng to lớn, ko đối thủ nào có thể địch nổi của quân dân ta.

Là một thành viên của đạo quân người hùng đó, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng lúc tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sục sôi khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh đó chính là ý muốn được đấu tranh, hiến dâng đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Do đó cho nên lúc chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài hoa của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đối phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó nhưng so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần thiết ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh kế bên chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi cương vực. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi xanh với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Nhưng tương tự là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ, ông muốn sống xứng đáng với thời đại người hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Xúc cảm hào sảng thuở đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở thành trầm lặng, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài hoa nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bộc bạch được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi xanh đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất thâm thúy về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

—–Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp—–

Phân tích hai câu đầu bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

1489

Vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần qua bài thơ Tỏ lòng

585

Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng

1660

[rule_2_plain]

[rule_2_plain]

#Phân #tích #hào #khí #Đông #trong #bài #thơ #Tỏ #lòng

  • Tổng hợp: Thư Viện Hỏi Đáp
  • Nguồn: https://hoc247.net/tu-lieu/phan-tich-hao-khi-dong-a-trong-bai-tho-to-long-doc34985.html

Rate this post

Viết một bình luận