Tan Uoc – Cac du ngon

    Ngài dùng dụ ngôn
    này nói với đoàn lũ
    người tụ họp đến từ
    mọi thành phố:

    “Một người gieo
    giống đi gieo hạt. Khi ông gieo vãi,
    có hạt rơi bên vệ đường
    và bị người ta dẫm lên
    hoặc chim đến ăn mất. Có hạt
    rơi trên đá và khi nó mọc
    lên nó bị khô héo ngay vì không
    có nước. Có hạt rơi giữa
    bụi gai, cũng mọc lên nhưng bị gai
    lấn lướt mà chết. Và
    có hạt rơi vào đất mầu
    mỡ, nó mọc lên và cho hoa trái
    gấp trăm”.

    Khi Ngài kể xong, Ngài
    còn thêm:

    “Hãy nghe cho rõ, tất
    cả những người có tai để
    nghe”.

    Các môn đệ của
    Ngài hỏi về ý nghĩa của dụ
    ngôn này. Chúa Giêsu trả lời:

    “Các con có thể
    hiểu được mầu nhiệm về
    nước Thiên Chúa, còn đối
    với các người khác chỉ
    là các dụ ngôn, như có lời
    rằng, họ có thể nhìn mà không
    thấy, nghe mà không hiểu (Is 6,9)

    Ðây là ý nghĩa
    của dụ ngôn: hạt giống là lời
    Thiên Chúa. Những hạt rơi trên
    vệ đường là những
    người nghe lời Chúa nhưng
    rồi ma quỉ đến và lấy đi
    khỏi lòng họ kẻo họ tin và được
    Chúa cứu chữa. Những hạt
    rơi trên đá là người
    ban đầu nghe và vui mừng đón
    nhận lời Chúa, nhưng không ăn
    rể sâu, họ tin trong một thời gian
    và rồi khi gặp thử thách, họ
    bỏ ngay. Còn về phần những
    hạt rơi trong bụi gai, là những
    người có nghe nhưng trên đường
    đi các lo toan và tiền của bóp
    nghẹt và không lớn lên được.
    Còn về những hạt rơi trên
    đất tốt, là những người
    có tâm hồn quảng đại và
    tinh tế; nghe lời Chúa thì ghi giữ
    lại và mang hoa trái nhờ sự
    trung kiên của họ”.

    (Lc 8,4-15)

    Có một luật gia đứng
    lên và hỏi Chúa Giêsu để
    gài bẫy Ngài:

    “Thưa Thầy, tôi phải
    làm cái gì để được
    hưởng sự sống đời
    đời?”

    Chúa Giêsu trả lời
    ông:

    “Trong luật lệ có chép
    như thế nào? Ông đọc thấy
    gì?”

    Ông ta đáp:

    “Con phải yêu mến
    Chúa, là Thiên Chúa của con với
    hết tâm hồn, hết sức lực
    và hết tâm trí và yêu người
    bên cạnh như chính mình vậy”.

    Chúa Giêsu đáp:

    “Ông hãy làm như
    vậy và sẽ có sự sống”.

    Nhưng người đó
    muốn phô trương nên nói:

    “Vậy ai là người
    bên cạnh của tôi?”

    Chúa Giêsu đáp:

    “Có một người
    trên đường từ Giêrusalem
    đến Giêricô bị rơi vào
    tay những người trộm cướp.
    Họ lấy tất cả những gì
    ông có, đánh đập ông
    rồi bỏ đi để ông nửa
    sống nửa chết. Một thầy tư
    tế cũng đi trên con đường
    ấy, nhìn thấy ông, đi tránh
    sang phía bên kia. Một thầy thuộc dòng
    họ Lêvi đi tới nơi cũng
    làm như vậy. Nhưng một người
    Samaritanô nhìn thấy ông và động
    lòng thương. Người này đến
    gần bên ông và băng bó các
    vết thương, xức dầu và
    đổ rượu vào các vết
    thương. Sau đó người này
    vác ông lên vai và đưa tới
    quán trọ để săn sóc. Ngày
    hôm sau, người này lấy ra hai
    đồng tiền đưa cho người
    chủ quán và nói: “Xin ông săn
    sóc cho nạn nhân và khi trở về
    tôi sẽ thanh toán số tiền còn
    thiếu ông đã bỏ ra”.

    Theo ý ông, ai trong những
    người này tỏ ra mình là
    người bên cạnh của người
    rơi vào tay bọn trộm cướp?”

    Người thông luật
    trả lời:

    “Thưa đó là
    người đã tỏ lòng thương
    ông ta”.

    Chúa Giêsu nói:

    “Hãy về và làm
    như vậy”.

    (Lc 10,25-37)

    Chúa Giêsu nói:

    “Các ngươi hãy
    coi chừng tính hà tiện. Cuộc sống
    con người không tùy thuộc những
    gì mình có”.

    Rồi Ngài lại nói
    với họ một dụ ngôn:

    “Ngày kia có một
    người giầu có sau khi được
    vụ mùa lớn liền nghĩ: “ta
    phải làm gì bây giờ? Tôi
    không còn đủ chỗ để
    chứa hoa mầu”. Thế rồi ông
    ta lại nghĩ: “Tôi sẽ phá cái
    kho đó đi và xây cái lớn
    hơn và chứa các lúa gạo,
    của cải trong đó. Hãy ung dung, ăn
    uống và vui chơi”. Nhưng Thiên Chúa
    nói với ông ta: “Thật ngu dại,
    đêm nay ngươi không còn sống
    nữa, thì các cái ngươi tích
    trữ thuộc về ai?” Ðiều này
    cũng xảy đến cho người
    tích trữ của cải cho mình thay
    vì làm giầu có trước
    mắt Thiên Chúa”.

    (Lc 12,5-21)

    Một trong những người
    khách nói với Chúa:

    “Hạnh phúc thay người
    nào được dự tiệc trong
    Nước Thiên Chúa”.

    Chúa Giêsu đáp:

    “Có một người
    mở tiệc và mời một số
    đông người đến dự.
    Khi tới giờ ăn tiệc, ông
    sai đầy tớ đi gọi những
    người được mời
    “Các vị có thể vào bàn,
    mọi sự đã sẵn”. Nhưng tất
    cả đều tìm lý lẽ để
    xin kiếu. Người đầu tiên
    nói: “tôi mới mua một miếng
    đất và phải đi xem, xin cho tôi
    kiếu lỗi”. Người thứ
    hai lại nói: “Tôi mới mua năm
    cặp bò và phải đi xem lại, xin
    lỗi đành phải kiếu”. Một
    người khác nói: “tôi mới
    lập gia đình nên không thể đến
    được”. Người đầy
    tớ đi về và trình lại
    cho ông chủ. Thế là ông chủ
    nổi giận nói với đầy
    tớ: “hãy mau ra ngoài đường
    phố và mời tất cả những
    người nghèo khó, bệnh tật,
    người què quặt và đui mù
    vào. Người đầy tớ
    nói “Thưa ông, lệnh truyền của
    ông đã được thi hành,
    nhưng vẫn còn chỗ trống”. Rồi
    ông chủ bảo: “Hãy đi đến
    các nẻo đường và nài
    kéo người ta đến, làm
    sao cho nhà đầy hết. Bởi vì
    ta nói với ngươi, không một
    người nào đã được
    mời sẽ nếm được mùi
    bữa tiệc của ta”.

    (Lc 14,15-24)

    Những người thu
    thuế và tội lỗi thường
    tìm đến với Chúa Giêsu
    để nghe các điều người
    nói. Những người Pharisêu
    và ký lục chê trách và nói:
    “người này đón tiếp
    những người tội lỗi và
    ăn chung với chúng”.

    Vì thế mà Chúa
    nói với họ dụ ngôn này:

    “Có người nào
    trong các ông có một trăm con chiên
    mà lạc mất một, sẽ không bỏ
    chín mươi chín con trong đồng cỏ
    và đi tìm con chiên lạc cho tới
    khi tìm thấy? Rồi khi đã tìm
    thấy, ông ta vui mừng vác trên
    vai. Trở về nhà, ông mời
    bạn bè và người láng giềng,
    và nói: “Hãy vui cùng tôi,
    vì tôi đã tìm thấy con chiên
    bị lạc mất”. Cũng vậy, tôi
    nói với các ông rằng trên
    trời sẽ còn vui mừng hơn
    vì một người tội lỗi thống
    hối hơn là chín mươi chín
    người đạo đức không
    cần phải thống hối”.

    (Lc 15,1-7)

    “Nếu một người
    đàn bà có mười đồng
    bạc và mất một, bà sẽ thắp
    đèn lên, lau quét nhà và
    tìm cho được mới thôi
    và khi đã tìm thấy bà ta
    lại chẳng gọi bạn bè, hàng xóm
    đến và nói với họ: “Hãy
    chia vui với tôi, tôi đã tìm
    thấy đồng tiền lạc mất”.

    (Lc 15,8-10)

    Và Chúa Giêsu nói
    tiếp:

    “Một người kia
    có hai đứa con. Ðứa con
    thứ hai thưa với cha: “Thưa cha,
    xin cha chia cho con phần gia tài”. Vì thế
    người cha chia tài sản cho hai người.
    Ít ngày sau, cậu trẻ thu góp mọi
    của cải đi miền xa. Cậu phung phí
    tiền bạc sống hoang đàng. Khi cậu
    đã xài hết tiền, miền ấy
    lại trải qua một cơn đói khủng
    khiếp và cậu sống cơ cực
    vì không còn đồng tiền nào
    nữa. Cậu tự đi xin việc làm
    và làm trong một nông trại, chi heo
    ăn. Cậu ước ao được
    ăn đồ ăn heo đang ăn, nhưng
    chẳng ai cho. Vì thế cậu hồi tâm
    lại và nói: “Bao nhiêu tôi tớ
    làm công trong nhà cha tôi có dư
    thừa thức ăn, còn tôi ở
    đây đang sắp chết vì đói.
    Tôi sẽ bỏ nơi này và về
    nhà cha tôi và thưa: “Thưa cha, con
    đã lỗi phạm đến trời
    và đến cha. Con không đáng
    gọi là con cha nữa, hãy đối
    xử với con như một người
    tôi tớ”. Nghĩ rồi cậu ta
    bỏ nơi đó và về nhà
    cha mình.

    Khi cậu ta còn ở
    xa xa, cha cậu đã nhìn thấy và
    động lòng thương. Cha cậu chạy
    tới và hôn cậu âu yếm.
    Lúc ấy, người con thưa: “Thưa
    cha, con đã lỗi phạm đến trời
    và đến cha, con không còn đáng
    gọi là con cha nữa”. Nhưng người
    cha đã ra lệnh cho các tôi tớ:
    “Hãy mau, đem ra đây áo tốt
    nhất và mặc cho cậu, xỏ nhẫn
    vào tay cậu và đôi dép vào
    chân cậu. Hãy mang một con bê béo
    và giết đi để mở tiệc
    mừng vì con ta chết nay đã sống
    lại, lạc mất nay đã tìm thấy”.
    Và tiệc mừng bắt đầu.

    Cậu con trai cả vắng mặt,
    ở ngoài ruộng. Trên đường
    về nhà anh nghe thấy tiếng đàn
    hát và nhảy múa. Anh gọi một
    người tôi tớ đến
    và hỏi mọi sự. Người
    tôi tớ nói: “Em cậu đã
    trở về, và cha cậu truyền giết
    con bê chúng ta đã nuôi béo
    vì em cậu đã về an toàn và
    khỏe mạnh”. Cậu anh cả nổi giận
    và không chịu bước vào
    nhà, nên người cha phải ra để
    nài nỉ cậu; cậu nói với
    cha: “Con đã tận tụy phục vụ
    cha và không bao giờ trái lệnh
    cha. Thế mà cha chưa bao giờ cho con
    dù chỉ con bê non để vui vẻ với
    các bạn hữu. Còn bây giờ,
    đứa con kia của cha đã tiêu
    tán gia tài của cha, trở về
    và cha giết một con bê đã nuôi
    béo”. Nhưng người cha nói:
    “Này con, con ở với cha luôn
    và mọi cái của cha là của con.
    Nhưng chúng ta phải mừng vui vì
    em con đã chết nay sống lại, đã
    lạc mất nay tìm thấy”.

    (Lc 15,11-32)

    “Nước Trời
    giống như chủ ruộng kia đi thuê
    người làm công cho vườn
    nho mình. Sau khi đã thỏa thuận với
    các người làm tiền lương
    một đồng một ngày, ông đưa
    họ đến vườn nho. Sau đó,
    ông lại ra khu chợ và nhìn thấy
    nhiều người khác đứng
    không. Ông liền bảo họ: “Các
    anh hãy đến vườn nho của
    tôi và tôi sẽ trả tiền công
    đích đáng”. Và họ cũng
    đã đến vườn nho làm
    việc. Ðến trưa và chiều, ông
    chủ cũng ra đi và thuê thợ
    như vậy. Gần chiều, ông lại đi
    ra và gặp thấy còn nhiều người
    nữa đứng đó. Ông
    hỏi họ: “Tại sao các anh đứng
    nhàn rỗi suốt ngày vậy?” Họ
    trả lời: “Vì không có ai
    thuê chúng tôi”. Ông nói với
    họ: “Các ông hãy đến vườn
    nho của tôi”.

    Ðến chiều tối,
    ông chủ vườn nho bảo người
    cai thợ: “Anh hãy gọi những
    người làm công lại và trả
    lương cho họ, bắt đầu từ
    những người đến sau cùng
    rồi sau mới là người tới
    trước nhất. Thế là người
    được thuê lúc sau trưa mỗi
    người nhận được một
    đồng, và những người
    đến trước nhất trông chờ
    được nhiều hơn, nhưng họ
    cũng chỉ nhận được có
    một đồng mà thôi. Họ nhận
    nhưng cằn nhằn với ông chủ
    và nói: “Những người
    khác họ chỉ làm có một giờ
    mà ông đãi ngộ họ như chúng
    tôi mặc dầu chúng tôi đã
    làm công việc nặng nhọc dưới
    sức nắng gắt!” Nhưng ông
    chủ trả lời cho một người
    trong họ: “Này bạn, tôi không có
    bất công với bạn, nào chúng
    ta đã chẳng thỏa thuận một đồng
    sao? Hãy cầm lấy tiền công và
    đi về. Tôi có thể trả cho người
    tới trể nhất như đã trả
    cho anh. Tôi không được tự
    do dùng tiền của theo ý tôi muốn
    hay sao? tại sao bạn lại ghen tức vì
    tôi rộng rãi?” Như vậy, người
    sau rốt sẽ trở thành trước
    hết và người trước
    hết sẽ trở thành rốt bét”.

    (Mt 20,1-16)

    Sứ điệp
    của Chúa Giêsu về tình yêu
    thương bao la của Thiên Chúa có
    thể gây hiểu lầm cho rằng con người
    không cần phải cố gắng gì.
    Dụ ngôn những nén bạc làm
    sáng tỏ rằng những ân huệ
    của Thiên Chúa có những đòi
    hỏi tương ứng. Người
    nào nhận được nhiều, những
    người được cảm nghiệm
    tình yêu thương của Thiên Chúa,
    phải chia sẻ tình yêu thương này
    và phải nỗ lực làm việc
    cho Nước Thiên Chúa.

    Tất cả
    chúng ta đều phải trả lời
    về những ân huệ và tài
    năng do Thiên Chúa ban. Trong ngày phán
    xét, Chúa Giêsu sẽ không hỏi
    về những lời nói hay chương
    trình, Ngài sẽ hỏi về những
    hành động cụ thể. Ngài sẽ
    phán xét chúng ta dựa trên cách
    cư xử của chúng ta đối với
    người khác, đặc biệt và
    với những người túng
    thiếu.

    Chúa Giêsu
    không cho là một tình yêu Thiên
    Chúa đích thực nếu không
    có tình yêu cho nhân loại. Trong dụ
    ngôn về sự phán xét Thiên
    Chúa đồng hóa chính mình với
    những người túng thiếu.

Rate this post

Viết một bình luận