Thành phố mang tên nữ thần Athena

TTO – Trên quê hương Hy Lạp, mỗi thành phố đều có một vị thần bảo hộ. Thuở xa xưa, phía nam đồng bằng Attique có một vùng đất giàu có, tươi đẹp nhưng chưa vị thần nào cai quản. Nữ thần Athena – vị thần của trí tuệ, trí thức và chiến thắng – liền ghi tên mình vào đó, cùng lúc thần Poseidon cũng nộp đơn.

TTO – Trên quê hương Hy Lạp, mỗi thành phố đều có một vị thần bảo hộ. Thuở xa xưa, phía nam đồng bằng Attique có một vùng đất giàu có, tươi đẹp nhưng chưa vị thần nào cai quản. Nữ thần Athena – vị thần của trí tuệ, trí thức và chiến thắng – liền ghi tên mình vào đó, cùng lúc thần Poseidon cũng nộp đơn.

Thế mới thật gay go. Một bên là thần biển Poseidon đầy quyền năng và là anh ruột của thần Zeus, còn một bên là nữ thần Athena – con gái cưng của thần Zeus, được sinh ra từ chính cái đầu của vị thần này. Để tránh những rắc rối xảy ra, thần Zeus tổ chức một cuộc thi dưới sự giám định của hội đồng các thần Olympia, nội dung: thần nào ban cho vùng đất ấy một tặng vật có ý nghĩa nhất thì sẽ giành được quyền bảo trợ. Thần Poseidon hăm hở ra tay: “Hãy xem, đây là tặng vật của ta”. Đoạn thần xoay cây đinh ba giáng một phát vào vách đá, từ vết nứt của vách đá, một con ngựa chiến tuyệt đẹp vọt ra – biểu tượng cho sức mạnh và chiến trận. Đến phiên nữ thần Athena, đầu đội mũ trụ, tay cầm giáo dài, oai phong và quyến rũ, “Còn đây là tặng vật của ta”. Nói xong, nàng xoay người phóng mạnh ngọn giáo xuống đất. Từ vết nứt của đất, một ngọn cây từ từ mọc lên, cành lá xanh tươi, xum xuê trái chín. Đó là cây ôliu, biểu tượng của hòa bình, trí tuệ, tự do và phồn vinh. Hội đồng giám khảo nhất trí quyết định, phần thắng thuộc về nữ thần Athena. Thế là từ đó, vùng đất do nữ thần Athena bảo hộ có tên là Athenes, và cành ôliu không chỉ biểu tượng cho Athenes mà còn cho cả Hy Lạp.

Athenes, một trong những thành phố nổi tiếng nhất thế giới

Athenes có lịch sử ngót nghét 3.000 năm tuổi, dân số hiện nay khoảng 5 triệu người. Athenes trở thành thủ đô Hy Lạp từ năm 1832 sau khi thoát khỏi ách thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ. Thành phố được quy hoạch và xây dựng lại dưới triều vua Otto I theo thiết kế của các kiến trúc sư người Đức. Thời cổ đại, Athenes là quốc gia thành bang lẫy lừng nhất Hy Lạp. Đặc biệt sau thắng lợi trong cuộc chiến chống quân xâm lược Ba Tư, trong việc thực hiện thành công định chế dân chủ, và dưới sự lãnh đạo xuất sắc của Pericles (461-429 trước Công nguyên), Athenes trở thành trung tâm văn hóa rực rỡ. Thử hình dung, khi nhân loại hãy còn như cánh đồng um tùm cây cỏ thì Athenes đã là mảnh đất nở rộ hoa thơm quả ngọt, với những thành tựu về kiến trúc, điêu khắc, hội họa, văn học, thi ca, kịch nghệ, sử học, triết học, y học, toán học, thể chế dân chủ… và cả thi đấu thể thao; với những nhà tư tưởng, nghệ sĩ, kiến trúc sư, điêu khắc gia, chính trị gia, khoa học gia lỗi lạc mà công trình của họ còn mãi với thời gian. Athenes trở thành chiếc nôi của nền văn minh Tây phương. Ngày nay, Athenes là một trong những thành phố lịch sử nổi tiếng nhất thế giới.

Tôi đến Athenes một ngày sau khai mạc Olympic 2004. Từ phi trường, xe bus đưa chúng tôi về thành phố. Trước mắt tôi, Acropole lồng lộng dưới nắng chiều – đẹp đến ngẩn ngơ. Đêm, Athenes dạt dào giai điệu của quá khứ, cái nồng nàn của hiện tại, cái bay bổng của tương lai, nó khiến lòng ta lâng lâng niềm cảm khái. Thế là tôi bị bỏ bùa – Athenes với hàng ngàn năm văn hóa đã quyến rũ tôi hơn cả so với những cuộc thi đấu dưới cái nóng nhừ người ở các sân vận động chẳng mấy ai xem.

Tôi bắt đầu những ngày lang thang với Athenes. Acropole là ưu tiên số một, tất nhiên. Acropole tên gọi từ Akro polis, nghĩa là thành phố trên cao. Acropole là quần thể kiến trúc đẹp đẽ, huy hoàng, tráng lệ nhất mà con người từng sáng tạo nên. Acropole ngự trị trên một ngọn đồi phía tây thành phố, và vẫn tồn tại như thế từ 2.500 năm nay như để ấn chứng cho vinh quang của nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Nổi bật nhất trong các công trình của quần thể kiến trúc Acropole là đền Parthenon – thờ nữ thần Athena. Đó là công trình kiến trúc bằng đá cẩm thạch, được xây dựng từ năm 447 đến 432 trước Công nguyên, do hai kiến trúc sư Ictinos và Calicrates thiết kế, dưới sự chỉ đạo toàn diện của Phidias, cùng sự bảo trợ hết mình của Pirecles. Đền dài 70 mét, ngang 31 mét, cao 14 mét, chia làm ba phần: tiền sảnh, gian thờ (nơi đặt tượng nữ thần Athena cao 12 mét bằng ngà voi và vàng), và phòng lưu giữ châu báu. Bao quanh ngôi đền là hành lang cột. Hai mặt chính mỗi mặt 8 cột, hai mặt còn lại mỗi mặt 17 cột. Phần điêu khắc trang trí là công trình nghệ thuật tuyệt tác của nghệ sĩ thiên tài Phidias. Parthenon là ngôi đền nổi bật nhất của Hy Lạp, là kiệt tác kiến trúc và nghệ thuật có một không hai của nhân loại. Tôi có dịp chiêm ngưỡng vẻ chói lọi đích thực của nó qua giản đồ trưng bày ở Viện Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia. Không biết thuở xưa người Hy Lạp đã nghĩ gì khi đứng trước ngôi đền thiêng liêng và mỹ lệ ấy. Sau khi nhà nước Hy Lạp và Athenes cổ đại tan rã, như vạn pháp ở đời, quần thể kiến trúc Acropole cũng bắt đầu cuộc hồng trần: Có thời người Byzantin biến Parthenon thành nhà thờ Công giáo, người Thổ biến Parthenon thành đền thờ Hồi giáo, quân Thổ dùng Parthenon làm kho đạn, người Venecia nã pháo nổ tung ngôi đền rồi thẳng tay cướp phá, ngài đại sứ Thomas Bruce cầm nhầm số lớn phù điêu và diềm trang trí nghệ thuật đem về bán cho chính phủ Anh, còn thời gian thì cứ lặng lẽ phủ lớp tàn phai. Ngày nay, khi đã trở thành phế tích, mỗi ngày hàng vạn du khách đổ về đây chiêm ngắm và thán phục tinh hoa của một nền văn minh đã qua. Dưới ánh tà dương, Acropole có vẻ đẹp lạ lùng không gì sánh được, làm con tim ta xúc động và nhói đau. Cho nên sẽ là một sai lầm nếu người ta tìm cách làm cho quần thể này “sống lại”, bởi khi ấy nó sẽ chẳng còn nói lên được điều gì. Đó là cảm tưởng của tôi khi đứng trước ngôi đền nổi tiếng Abu Simbel ở Ai Cập. Ước gì người ta đừng cưa từng mảnh ngôi đền rồi ghép lại ở một nơi cao hơn. Ước gì người ta cứ để nó chìm sâu dưới mặt nước hồ Nasser – đó là số phận của nó. Rồi nhân loại sẽ truyền tụng về nó như một công trình tuyệt tác, một vẻ đẹp như bao vẻ đẹp đích thực khác ở đời: có rồi không, tồn tại rồi tan biến. Và nó sẽ còn mãi với thiên thu.

Âm nhạc và con người

Để thưởng thức hương vị Athenes xưa, du khách hay tìm đến khu Plaka phía đông bắc Acropole, là khu phố cổ nhất của Athenes. Plaka còn nguyên nét lãng mạn một thời đã qua: những con đường nho nhỏ, xinh xinh, quanh co rợp bóng; những ngôi nhà thời thuộc Thổ, các cửa hàng lưu niệm mở cửa cho đến sau nửa đêm… Người ta có thể tìm thấy ở đây tất cả, từ những bức tượng bằng vôi đến những chiếc áo thun, hạt dẻ, những kẻ đánh giày, vẽ hình… những người bán hàng lúc nào cũng cởi mở và dễ thương. Tạt vào một quán ăn thưởng thức món thịt cừu rô ti, nhâm nhi cốc bia Zorbas, và nghe nhạc. Âm nhạc và nhảy múa chiếm vị trí quan trọng trong đời sống người Hy Lạp. Cũng huyền bí như Tây Tạng nhưng âm nhạc Tây Tạng xa xăm, da diết và buồn, còn nhạc Hy Lạp rộn ràng, giục giã khiến người nghe chỉ muốn sống, muốn nhảy múa, muốn yêu thương. Buổi tối cánh đàn ông Athenes thường tới đây uống rượu ouzo và đàm đạo. Người Hy Lạp không thích gì hơn một buổi nói chuyện cởi mở, hùng hồn. Cũng dễ hiểu thôi, bởi Hy Lạp là cái nôi của thể chế dân chủ và nền triết học Tây phương. Về khuya, du khách có thể nhảy múa vũ điệu Hy Lạp cùng với mọi người. Tôi thích điệu Zorba. Chỉ có bốn động tác giản đơn thôi, ai ngờ khi tiết tấu trở nên sôi nổi, dồn dập mới biết ai là người Hy Lạp chính hiệu, ai chẳng phải con dân của các vị thần. Dù có nhiều người nước ngoài, đặc biệt là dân Albani nhập cư, nhưng Athenes không hề có các khu phố theo sắc tộc như các thủ đô khác. Tính đồng nhất Hy Lạp là nét đặc trưng của các ngõ phố Athenes.

Athenes hiện đại tập trung quanh ba quảng trường lớn: Syntagma, Omonia và Monastiraki. Quảng trường Syntagma có tòa nhà quốc hội vốn là hoàng cung cũ. Năm 1843, từ trên balcon tòa nhà này vua Otto I đã đọc bản hiến pháp đầu tiên của Hy Lạp, vì thế quảng trường còn có tên là Quảng trường Hiến pháp. Trước tòa nhà quốc hội có Đài Chiến sĩ vô danh được chăm chút ngày đêm bởi đội quân Evzones, phục trang theo truyền thống: mũ bê rê màu đỏ, áo veste đỏ, jupe ngắn, tất da màu trắng, giày bằng gỗ đỏ có gù bông to ở trên. Họ, chỉnh chu và trang trọng, như đang thay mặt cho cả dân tộc tri ân những chiến sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tháng 9.1997, Athenes được chọn là nơi tổ chức Thế vận hội 2004. Thành phố thay đổi nhiều từ ngày đó. Nhiều công trình đẹp đẽ và hiện đại vừa được hoàn thành trên quảng trường này. Hẳn 2.500 năm sau nhân loại lại có dịp trầm trồ về những di tích từng phục vụ cho Olympic thứ 100. Bất giác nghĩ đến nước mình, những công trình như thế thường hư hỏng sau đôi ba năm, thậm chí ngay sau lễ khánh thành.

Quanh Syntagma có nhiều cửa hàng, quầy rượu, tiệm sách, quầy báo chí… Quảng trường là nơi hò hẹn số một của Athenes. Tôi thích lân la ở đây, nhâm nhi cốc cà phê, nhìn ngắm người qua lại. Từ trạm metro, từng tốp người đẹp tỏa ra, ngời ngời trong nắng. Nằm giáp ranh giữa Đông và Tây, người Hy Lạp trông giống châu Âu hơn châu Á. Nhưng về nhan sắc thì con gái Hy Lạp đẹp hơn con gái châu Âu – thanh cảnh hơn và nõn nà như búp huệ trắng. Có lẽ vì các nàng là hậu duệ của nữ thần Athena. Thuở xưa, không biết người ta có tế thần bằng các cô gái xinh đẹp và đồng trinh không? Một đất nước từng khai sinh ra nền dân chủ đầu tiên của nhân loại chắc không ai làm thế.

Ấn tượng về một nền văn minh cổ đại

Tôi không thích Quảng trường Omonia – tiếng Hy Lạp có nghĩa là hòa nhịp – bởi nó không rộng lại là đầu mối của sáu trục lộ giao thông trọng điểm lúc nào cũng ồn ào chộn rộn, chẳng giống với cái tên cúng cơm của nó chút nào. Bù lại, đây là điểm xuất phát tiện lợi đi đến các viện bảo tàng vốn là điểm sáng nghệ thuật của bài thơ Athenes: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Byzantin, Bảo tàng Benaki, Bảo tàng Quân sự, Bảo tàng Nghệ thuật Cycladique…, xa hơn một chút về phía bắc là Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia – nơi trưng bày đầy đủ các tác phẩm và hiện vật vô giá của lịch sử Hy Lạp từ khởi thủy đến cuối thời kỳ cổ đại. Cũng như Bảo tàng Le Caire của Ai Cập, Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia giàu có tới mức chỉ cần nhặt nhạnh những thứ không biết để đâu của một góc khuất nào đó cũng đủ làm nên một bảo tàng tầm cỡ cho một quốc gia. Tại đây du khách còn được chiêm ngưỡng bức tượng tuyệt mỹ được tìm thấy ở biển Egee – Tượng thần Zeus đang tạo sấm sét. Thơ thẩn trong các viện bảo tàng ở Athenes là một cái thú, nhưng hình như không phải du khách nào cũng nghĩ như vậy.

Quảng trường Monastiraki nằm về phía bắc Acropole, gần Agora, khu chợ cũ của Athenes thời cổ đại. Quanh quảng trường là khu phố thương mại nhộn nhịp, đông đúc, quyến rũ nhất Athenes; với nhiều những nhà hàng đặc sản vừa ngon, vừa rẻ, vừa Hy Lạp, lúc nào cũng đông nghịt du khách. Tôi chọn Nhà hàng Batraktaris, bởi ngồi đây có thể nhìn ra toàn bộ quảng trường. Nhà hàng không hẹp nhưng chật ních những người là người. Mythos là loại bia được ưa chuộng nhất Hy Lạp, nhưng tôi thích Zorbas hơn. Đó là loại bia mang tên một nhân vật của N. Kazantzaki (nhà văn Hy Lạp, tác giả của Alexis Zorba – mà tôi rất thú vị) – Alexis Zorba. Chắc nhiều lần cậu chàng đã đến đây. Những lúc thế này, thế nào Zorba cũng chọn một góc khuất nào đó, lặng lẽ quan sát nhân gian uống rượu để xác quyết rằng rốt lại chỉ mình anh ta biết uống rượu một cách điệu nghệ thôi. Liên tưởng ấy làm tôi thêm hứng khởi. Tôi thương lượng với một nhạc công trong ban nhạc đang chơi, anh ta vui vẻ nhường cho tôi cái Tombourint. Cứ như thể một nghệ sĩ chuyên nghiệp, tôi ngồi xuống ghế và ra hiệu cho ban nhạc tiếp tục. Cả nhà hàng dậy lên tiếng vỗ tay vì niềm vui bất ngờ. A, hóa ra Hy Lạp thế kỷ XXI vẫn còn nguyên tâm hồn Zorba.

Tôi chia tay Athenes năm ngày trước khi Olympic 2004 bế mạc. Nếu ai hỏi tôi ấn tượng về Thế vận hội, tôi sẽ trả lời ngay, đó là nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Còn ấn tượng về Athenes, câu trả lời sẽ là: Parthenon. Giữa một Athenes hiện đại bỗng sừng sững một Acropole điêu tàn của 2.500 năm trước! Parthenon như một tấm gương qua đó chúng ta soi mình, mà chỉ những ai có huệ nhãn mới thấy được bóng dáng của nhân loại bên trong.

Rate this post

Viết một bình luận