I. Tổng quát (Trích từ quyển Văn học Việt Nam của GS Dương Quảng Hàm, viết tại Hà Nội tháng 6 năm 1939)
Thơ Đường luật hay thơ cận thể là thể thơ đặt ra từ đời nhà Đường (618-907) bên Trung Hoa, phải tuân theo luật lệ nhất định. Thơ Đường luật và thơ Đường là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau:
– Thơ Đường luật: là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Trung Hoa. Sang Việt Nam, Thi luật được gọi là thể thơ Đường luật;
– Thơ Đường hay Đường thi: là những bài thơ của các thi sĩ Trung Hoa làm dưới thời nhà Đường, nổi tiếng nhất là 300 bài được gọi là Đường thi tam bách thủ. Trong số đó có một số được làm theo thể thơ Đường luật, số còn lại làm theo các thể thơ khác, phần lớn là thơ cổ phong.
Tứ tuyệt và bát cú
Theo số câu trong bài, thơ Đường luật chia ra làm hai lối: Tứ tuyệt và Bát cú
– Tứ tuyệt: 4 câu
– Bát cú: 8 câu
Trong hai lối ấy, lối bát cú là lối chính, mà bát cú vần bằng là phổ biến hơn cả.
1. Vần, cách gieo vần
Có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và các câu chẵn, nghĩa là cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8. Suốt bài thơ chỉ gieo một vần (một từ) gọi là độc vận.
Lạc vận và cưỡng áp: Làm thơ phải hiệp vận cho đúng. Nếu gieo sai như CÂY đi với HOA là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng thì gọi là cưỡng áp. Hai cách này đều không được cả.
2. Đối
Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú, trừ hai câu đầu, hai câu cuối, còn bốn câu giữa cứ hai câu đối nhau: 3 với 4; 5 với 6 (sẽ đề cập chi tiết hơn ở phần sau).
3. Luật
Là cách sắp xếp tiếng bằng và tiếng trắc trong các câu của bài thơ. Luật nhất định buộc người làm thơ phải theo đúng mà đặt. Luật được chia ra Luật bằng và Luật trắc. Sau đây là Bảng luật:
Ký hiệu:
B = âm bằng
T = âm trắc
v = vần
Luật bằng: Câu đầu tiên của bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng
a. Luật bằng vần bằng:
Câu 1: B B T T T B B (v)
Câu 2: T T B B T T B (v)
Câu 3: T T B B B T T
Câu 4: B B T T T B B (v)
Câu 5: B B T T B B T
Câu 6: T T B B T T B (v)
Câu 7: T T B B B T T
Câu 8: B B T T T B B (v)
b. Luật bằng vần trắc:
Câu 1: B B T T B B T (v)
Câu 2: T T B B B T T (v)
Câu 3: T T B B T T B
Câu 4: B B T T B B T (v)
Câu 5: B B T T T B B
Câu 6: T T B B B T T (v)
Câu 7: T T B B T T B
Câu 8: B B T T B B T (v)
Luật trắc: Câu đầu tiên của bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng hai tiếng trắc
a . Luật trắc vần bằng:
Câu 1: T T B B T T B (v)
Câu 2: B B T T T B B (v)
Câu 3: B B T T B B T
Câu 4: T T B B T T B (v)
Câu 5: T T B B B T T
Câu 6: B B T T T B B (v)
Câu 7: B B T T B B T
Câu 8: T T B B T T B (v)
b. Luật trắc vần trắc:
Câu 1: T T B B B T T (v)
Câu 2: B B T T B B T (v)
Câu 3: B B T T T B B
Câu 4: T T B B B T T (v)
Câu 5: T T B B T T B
Câu 6: B B T T B B T (v)
Câu 7: B B T T T B B
Câu 8: T T B B B T T (v)
Ngoài việc tuân theo luật bằng – trắc, còn phải tuân theo vần (sẽ đề cập chi tiết trong một mục khác).
4. Thất luật
Trong một câu thơ, theo “phân minh” chữ nào đáng là bằng mà đặt tiếng trắc, hoặc đáng trắc mà đặt tiếng bằng, thì gọi là thất luật (sai luật thơ), không được.
5. Niêm
Niêm nghĩa đen là dính với nhau, là sự liên lạc âm luật của hai câu thơ trong một bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào hai chữ đầu câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Trong một bài thơ bát cú, những câu sau đây niêm với nhau:
Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7
6. Thất niêm
Trong một bài thơ, nếu cả hai câu thơ đặt sai luật, như đang bắt đầu bằng bằng đặt làm trắc trắc hoặc trái lại thế, làm cho tất cả câu thơ trong bài không niêm với nhau thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền), không được.
7. Bất luận và phân minh
Để cho khỏi gò bó, dễ sử dụng từ ngữ, trong bài thơ, chữ thứ 1, 3, 5 không cần theo đúng luật bằng trắc: Nhất tam ngũ bất luận (tuy nhiên để bài thơ có âm điệu hay thì chữ thứ 5 không nên theo lệ bất luận). Những chữ thứ 2, 4, 6 buộc phải tuân theo đúng luật bằng trắc: Nhị tứ lục phân minh.
8. Khổ độc
Nghĩa là khó đọc, đọc lên trúc trắc không được êm tai. Tuy theo lệ “bất luận” có thể thay đổi mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng trắc mà đổi ra bằng thì bao giờ cũng được, chứ đáng bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp, sự thay đổi ấy làm cho bài thơ khổ độc.Những trường hợp ấy là: Chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ đáng là bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.
9. Các bộ phận trong bài thơ
Một bài thơ bát cú giống như bức tranh. Trong cái khung nhất định 8 câu 56 chữ, làm sao vẽ thành một bức tranh hoàn toàn, hình dung được ngoại cảnh của tạo vật hay nội cảnh của tâm giới. Bởi vậy phải sắp đặt các bộ phận cho khéo. Có bốn phần là: Đề, Thực, Luận và Kết.
– Đề thì có Phá đề (câu 1) là câu mở bài, nó lung động cả ý nghĩa trong bài và Thừa đề (câu 2) là câu nối với câu phá đề mà nói đến đầu bài.
– Thực, hay Trạng (câu 3-4): là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là thơ tả cảnh thì chọn các cảnh sắc xinh đẹp đặc biệt mà mô tả ra, nếu là thơ tả tình thì đem các tình tự giãi bày ra; nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng của người mình muốn vịnh mà kể ra.
– Luận (câu 5-6): là bàn bạc. Nếu là thơ tả cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp như thế nào; vịnh sử thì hoặc khen hoặc chê, hoặc so sánh người ấy, việc ấy với người khác, việc khác.
4- Kết (câu 7-8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại cho mạnh mẽ rắn rỏi, trong đó câu số 7 là câu Chuyển và câu 8 là câu Hợp.
II. Phép đối
Câu đối là các câu văn đi song song với nhau từng cặp, ví dụ:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh
Trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, bắt buộc phải có đối với nhau giữa các câu 3 và 4, câu 5 và 6. Muốn câu đối chỉnh và cân, phép đối cần phải hội đủ 3 điều kiện: đối thanh, đối ý, đối từ loại.
1. Đối thanh
– Bảng luật bằng:B B T T B B T – T T B B T T B
– Bảng luật trắc:T T B B B T T – B B T T T B B
Chí ít là các chữ 2, 4, 6, 7 phải theo đúng luật bằng trắc.
2. Đối ý
Ý câu trên và ý câu dưới hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau, ví dụ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
3. Đối từ loại
Danh từ Danh từ
Danh từ riêng Danh từ riêng
Danh từ chung Danh từ chung
Động từ Động từ
Trạng từ Trạng từ
Tính từ Tính từ
Tính từ lại có nhiều loại, nên:
Gợi hình Gợi hình
Màu sắc Màu sắc
Mùi vị Mùi vị
Tượng thanh Tượng thanh
Số lượng Số lượng
Mùa tiết Mùa tiết
Phương hướng Phương hướng
Từ kép Từ kép
Từ đơn Từ đơn
Thành ngữ Thành ngữ
Biệt ngữ Biệt ngữ
Hán Việt Hán Việt
Thuần Việt) Thuần Việt…
Hai cặp đối là tinh hoa của bài thơ Đường luật . Nó là đặc điểm chính để nhận biết một bài thơ Đường luật. Hai cặp đối này còn giúp đo lường trình độ làm thơ Đường luật của tác giả. Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật.
III. Phép họa thơ Đường luật
1. Các thể thức họa thơ Đường luật
Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Hoạ hạn vận và Hoạ phóng vận.
1.1 . Họa hạn vận
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa hạn vận này khác với thể Họa phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
– Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn
– Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định
Ví dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
Ðầu đề (nội dung) là:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô
5 vần hạn định theo thứ tự là: xô – cô – vô – ô – rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất, tác giả lại là một thiền sư. Bài thơ như sau:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô
Ví dụ khác: Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đào Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
– Đầu đề: Xuân Khuê.
– Hạn 5 vần: chờ – hờ – thưa – tơ – thơ.
– Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của thi sĩ Phan Mạnh Danh:
XUÂN KHUÊ
Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ
1.2. Họa phóng vận
Họa phóng vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa nguyên vận, Họa đảo vận, Họa hoán vận và Hoạ tá vận.
a. Họa nguyên vận
Là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa đồng luật.
b. Họa đảo vận
Là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
c. Họa hoán vận
Là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. Họa tá vận
Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.
Hoạ nguyên vận, hoán vận, đảo vận: dùng vần đồng âm đồng nghĩa (và cùng từ loại).
Hoạ tá vận: dùng vần đồng âm dị nghĩa (và không cùng từ loại).
2. Phần quan trọng trong họa thơ
Họa thơ theo thể thức phóng vận (gọi tắt là họa thơ) bao gồm 3 phần chính quan trọng sau đây:
Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài xướng. Bài xướng có thể chọn một bài đã có sẵn từ xưa, hoặc một bài do một người làm trước “thách đố” cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài đó gọi là Bài họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
1. Họa vần: 5 vần tức là 5 chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi.
2. Bài xướng nói lên ý gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.
3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Ví dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen một vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).
Tóm lại, 3 yếu tố trên là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc. Sau đây là một ví dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu.
Bài xướng
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
(Tôn Thọ Tường)
Bài họa
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
(Phan Văn Trị)
3. Chú ý khi họa thơ
Họa phóng vận là sáng tác một bài thơ gọi là Bài họa, dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước gọi là Bài xướng. Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng 5 chữ vần của bài xướng. Bài họa phải diễn đạt lại nội dung của bài xướng, không được lạc đề. Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu có vận (câu 1, 2, 4, 6, 8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước đó. Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc “khắc lục”, là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.
4. Hàm ý trong xướng họa
Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó, người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng, trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách. Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được. Hoạ thơ là “vẽ lại” hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần. Hoạ sai ý bài xướng là không đạt. Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận, không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng. Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý, không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng. Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.
Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng họa với nhau, có thể dùng thể thức Họa tá vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách này không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Lấy ví dụ tử vận xót xa không thể nào họa nguyên vận theo chính họa được. Chúng ta có thể họa tá vận (mượn vần) theo bàng họa là xa xa, từ xa, đàng xa v.v… chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.Thông vận, bàng đối và bàng hoạ… không xuất sắc.Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.
(Theo Hoàng Thứ Lang).
IV. Luật về điệu thơ
Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai, dễ đọc, để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu. Điệu thơ gồm có 3 phần chính:
1. Nhịp điệu
Thơ Đường luật nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa (2-2-3 hoặc 4-3), nhưng đôi khi cũng có thể làm nhịp 3-4 theo dụng ý tác giả.
2. Âm điệu
Nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng.
3. Vần điệu
Nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẽ tiếng không có dấu với tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc.
NHỮNG DẠNG THƠ ĐƯỜNG LUẬT ĐẶC BIỆT
1. Họa vận đối đáp
Một người làm bài xướng lên, một người khác làm bài khác họa lại. Ngoài việc các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, thì ý nghĩa còn phải hoặc phụ theo cho rộng, hoặc trái hẳn lại (phản đề), ví dụ:
HỎI Ả BÁN CHIẾU
Xướng:
Ả ở nơi nào, bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?
(Nguyễn Trãi)
Họa:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
(Nguyễn Thị Lộ)
2. Thủ nhất thanh (nhất đồng)
Từ đứng đầu các câu thơ đều giống nhau, ví dụ:
MẸ YÊU
Mẹ đã cho con thấy cuộc đời
Mẹ, nguồn ánh sáng chẳng hề vơi
Mẹ từ ngút ngát hương đồng ruộng
Mẹ hóa thênh thang ánh biển trời
Mẹ, bát cơm đầy luôn ấp nhủ
Mẹ, dòng sữa ngọt mãi trào khơi
Mẹ nâng thực tiễn hòa chân lý
Mẹ dẫu muôn phương vẫn dậy lời
(Thu Trang)
3. Thủ nhất tự
Chữ cái đứng đầu các câu thơ đều giống nhau, ví dụ:
MƠ HOA
Lá trải thêm mùa ruộm ý nguyên
Lời thương vẫn ủ nét mơ huyền
Len dòng nhạc đẫm cung hờn tuổi
Lỗi giọt tơ nhòa mắt ngẩn duyên
Luống cỏ miền xa dằn nhụy nắng
Lề sông thuở cũ mộng hoa thuyền
Lay chiều ước hẹn trăng viền ngõ
Lẩn khuất hương tình gợi thúy uyên
(Nguyễn Quốc Bình)
4. Chiết tự khoán thủ
Lấy các chữ cái trong tựa đề làm âm đầu cho các từ ở đầu mỗi câu thơ, ví dụ:
QUỐC BÌNH
Quang trời nắng dệt ánh nồng say
Uống giọt nguồn khơi tỏ tháng ngày
Ống kính không gian tầm sóng phủ
Con thuyền vũ trụ lướt sao bay
Bao luồng nghĩa cả từng suy gẫm
Ít khoảng tình riêng chẳng giãi bày
Ngấm đủ tinh hoa từ cuộc sống
Hương mùa kết đọng những vần hay
(Minh Thái)
5. Chiết tự khoán tâm
Lấy các chữ cái trong tựa đề làm âm đầu cho các từ thứ 4 (từ trung tâm) của mỗi câu thơ, ví dụ:
QUỐC BÌNH
Đây, miền Tổ Quốc thật là xinh
Hết cảnh âm U sẽ rạng hình
Dạ ngẫm đời Ôn vàn khó nhọc
Noi dòng trải Cuộc mấy quang vinh
Lùa xuân vút Bổng trời ân ái
Dỗ biển nằm Im gió tự tình
Để bữa trăng Ngời, khi nắng hửng
Mai này thỏa Hẹn ngõ bình minh
(Nguyễn Quốc Bình)
6. Tung hoành trục khoán
Dùng cặp câu đối làm chủ đề cho bài thơ. Các từ trong vế thứ nhất làm từ đầu tiên cho các câu thơ từ một đến bảy (trục tung), nguyên vế thứ hai đặt làm câu thứ tám (trục hoành), ví dụ:
NGÕ HẠ TÌNH XUÂN
“Hạ choán tình xuân dường ý vị
Xuân dòng ngõ hạ cháy tâm can”
NGÕ HẠ TÌNH XUÂN
Hạ vừa tãi nắng ửng nhành xoan
Choán nhẹ mùi hương gió cải làn
Tình đã mơ màng bung tóc chải
Xuân còn lưỡng lự vén sương đan
Dường tơ trổ phím dày cung bậc
Ý thẳm tầng không ngỡ giọt tràn
Vị ái dâng thành muôn xúc cảm
Xuân dòng ngõ hạ cháy tâm can
(Nguyễn Quốc Bình)
7. Điệp từ
Tất cả các câu đều có từ được lặp lại (điệp từ).
* Điệp từ ở vị trí bất kỳ trong mỗi câu, ví dụ:
CÓ LẼ NÀO
Có lẽ mình yêu, chả lẽ nào!
Như là nhớ vậy, nghĩa là sao?
Ngày xui gặp gỡ lòng xui thoả
Buổi trót tương tư dạ trót cào
Dõi đất, mơ nồng hương đất dậy
Nom trời, ước thoảng gió trời xao
Người thôi cách biệt tình thôi lỡ
Tựa sát vai nhau, quyện sát vào
(Nguyễn Quốc Bình)
* Điệp từ ở vị trí đầu và cuối mỗi câu, còn gọi là “Vận hồi đầu”, ví dụ:
VỀ THĂM TRƯỜNG CŨ
Trường xưa trở lại, vắng sân trường
Hương cũ bông cài lạc dấu hương
Nắng mảng còn vương chiều dại nắng
Tường rêu đã phủ nét hoang tường
Nhớ tà áo mỏng chênh chao nhớ
Thương tóc vai gầy rộn rã thương
Trống lặng ru mình nghiêng giá trống
Đường ai vẩy mực… tím hoen đường
(Nguyễn Quốc Bình)
8. Điệp từ láy
Tất cả các câu đều có điệp từ láy, ví dụ:
QUA MIỀN TÂY BẮCChập chùng núi vẽ chập chùng sương
Lắt lẻo xuyên mây lắt lẻo đường
Vi vút khuông chiều vi vút thoảng
Dặt dìu quãng sáo dặt dìu vương
Vòng vo cảnh dẫn vòng vo tựa
Nắc nỏm tình khơi nắc nỏm dường
Văng vẳng ai cười văng vẳng tiếng
Ngạt ngào thả gió ngạt ngào hương!
(Nguyễn Quốc Bình)
9. Song điệp
Tất cả các câu đều có điệp từ kép, ví dụ:
BỒNG PHIÊU
Dập dập dìu dìu những gót phiêu
Mây mây gió gió ngả hương chiều
Nồng nồng dịu dịu trăng vừa nhú
Ngát ngát bừng bừng lửa đã thiêu
Mắt mắt môi môi nhoài xiết…, đủ
Ân ân ái ái ngoảnh xem…, nhiều
Khoan khoan nhặt nhặt so đều cữ
Bổng bổng trầm trầm, ấy cuộc yêu!
(Nguyễn Quốc Bình)
10. Lưỡng đầu xà
Một dạng đặc biệt của song điệp, cặp điệp từ ở vị trí đầu và cuối mỗi câu, cặp từ sau hoán đổi vị trí của cặp từ trước (ví như con rắn hai đầu), ví dụ:
HƯƠNG MÙA VÂY
Vây ngõ sông hồ lượn ngõ vây
Đầy hương ủ nhụy ngát hương đầy
Núi vờn quãng bổng tiêu vờn núi
Mây dạo cung trầm én dạo mây
Nhỏ bước ghìm âm dằn bước nhỏ
Gầy trăng dợn ảnh vỡ trăng gầy
Khẽ lùa cánh mỏng, tơ lùa khẽ
Cây ngả vai chiều… bóng ngả cây
(Nguyễn Quốc Bình)
11. Lưỡng đầu xà nghịch thiệt
Một dạng đặc biệt của song điệp, cặp điệp từ đứng ở đầu và cuối mỗi câu, cặp sau là cách nói lái của cặp trước (nghịch thiệt với nghĩa là trẹo lưỡi), ví dụ:
HƯƠNG ĐỒNG
Đông tràn, lũ quạ khép đàn trông
Vồng ngút triền đê cải vút ngồng
Đậm gió trai hiền quăng đó giậm
Nông cày nữ đảm nhắc này công
Vữa sương, lúa hẹn kỳ vương sữa
Chồng đất màu vun buổi chất đồng
Tắm thỏa hương đời khi tỏa thắm
Bông sờ nặng trĩu khoảnh bờ sông
(Nguyễn Quốc Bình)
12. Nói lái
Một dạng đặc biệt của song điệp, cặp điệp từ đứng ở bất kỳ vị trí nào trong câu, cặp sau là cách nói lái của cặp trước, ví dụ:
HƯƠNG MÙA
Lá trải hương chiều… trái lả say
Tở manh nắng sẫm mảnh tơ dày
Đông về ả lúa vê đồng quyện
Cánh xẻ anh chuồn xé cảnh lay
Nhằm đá vàng so đà nhắm buổi
Ngỡ cung bậc ruổi cũng ngơ chày
Bên thềm xoắn xỏa thêm bền ý
Tịnh lứa cau trầu lựa tính ngay!
(Nguyễn Quốc Bình)
13. Điệp ngữ
Tất cả các câu đều có cụm từ lặp lại.
* Nếu cụm từ gồm hai từ, gọi là “Nhị điệp”, ví dụ:
LỐI VỀ CÓ NHAU
Nhé khổ đau này… giã khổ đau
Giòn tươi màu nắng lại tươi màu
Dâng nồng ý nguyện thơm nồng ý
Quệt thắm cau trầu đỏ thắm cau
Tấm lụa nõn phơi hoàn lụa nõn
Nguồn tơ nhàu chải hết tơ nhàu
Thôi đừng giận hỡi xin đừng giận
Hẹn có nhau về thuở có nhau
(Nguyễn Quốc Bình)
* Nếu cụm từ gồm ba từ, gọi là “Tam điệp”, ví dụ:
CHO ĐỜI SẮC HƯƠNG
Một chút hờn ghen một chút hờn
Ngõ sầu đơn lạnh ngõ sầu đơn
Hồn thơ thẩn ngóng hồn thơ thẩn
Giấc chập chờn in giấc chập chờn
Ngăn bởi oán cừu ngăn bởi oán
Trải bằng ơn nghĩa trải bằng ơn
Tường câu đạo lý tường câu đạo
Chẳng úa sờn duyên chẳng úa sờn
(Nguyễn Quốc Bình)
14. Bát điệp
Tất cả các câu đều nhắc lại một từ, ví dụ:
XUÂN VĨNH TẠI
Xuân này góp nữa, bảy lăm xuân
Mải miết xuân qua những đỉnh trần
Phước phận duyên tuỳ xuân hảnh trí
Xuân ngùi dạ ái nộ bi phân
Dang tay tuổi dệt bừng xuân sáng
Điểm tóc xuân khai dõi tuế ngần
Trải suốt cung đường xuân vĩnh tại
Tâm bình đối diện ắt xuân ngân
(Nguyên Lê)
15. Bát điệp độc vận
Tất cả cá câu đều nhắc lại một từ, toàn bài dùng một từ vần, ví dụ:
XUÂN VÀ THƠ
Xuân tự ngàn xưa, bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Ðẹp duyên hoa bút, Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều, nhạc ánh Thơ
Xuân vắng, oanh hờn, dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương, thi sĩ, đôi người ngọc
Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ
(Lạc Nam)
16. Dĩ đề vi thủ
Lấy các từ của tựa đề làm từ mở đầu cho các câu thơ, ví dụ:
CHÍ CHẲNG CHỜ NGÀY, TÀI KHÔNG ĐỢI TUỔI
Chí hạnh dường thông, ắt tỏ mình
Chẳng vì mất được cõi tam sinh
Chờ thanh ý ngọc bền tay giũa
Ngày sáng bờ vui trải diễm tình
Tài đặng nhân bồi xua hắc ám
Không ghì, oán xả chói anh minh
Đợi, lay tiềm thức bừng ân điển
Tuổi hội tâm an, vững cước trình
(Nguyễn Quốc Bình)
17. Dĩ đề vi vận
Lấy cácc từ của đề ra làm vần của bài thơ, ví dụ: Không – Chồng – Trông – Bông – Lông
MUỐN LẤY CHỒNG
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông
Mua vui lắm lúc cười cười gượng
Giả dại nhiều khi nói nói bông
Mới biết có chồng như có cánh
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông
(Nguyễn Khuyến)
18. Hoán vận
Có hai bộ vần được gieo ở các vị trí của chữ thứ năm và chữ thứ bảy của các câu thơ, khi hoán đổi vị trí hai chữ này thành ra hai bài có vần bằng và trắc khác nhau, ví dụ:
BIỂN NHỊP HÒA
Vần bằng:
Sóng biển dâng trào vũ điệu êm
Ngàn dương réo rắt phủ tơ mềm
Mưa khều ý nhạc hoa bừng trỗ
Nắng dẫn men đời nụ ngấm thêm
Vẳng gió tìm đôi quàng giữa bụi
Dềnh trăng vẽ nửa nhú bên thềm
Như vừa gội loáng tơ dòng chải
Lọn tóc sương hờ… giũ nhẹ đêm
Vần trắc:
Sóng biển dâng trào êm điệu vũ
Ngàn dương réo rắt mềm tơ phủ
Mưa khều ý nhạc trỗ bừng hoa
Nắng dẫn men đời thêm ngấm nụ
Vẳng gió tìm đôi, bụi giữa quàng
Dềnh trăng vẽ nửa, thềm bên nhú
Như vừa gội loáng chải dòng tơ
Lọn tóc sương hờ… đêm nhẹ giũ
(Nguyễn Quốc Bình)
19. Thuận nghịch độc
Lối thơ này xuất phát từ “Hồi văn thi” tức là đọc xuôi hay đọc ngược thì câu thơ, bài thơ đều có nghĩa. Có nhiều dạng thuận nghịch độc như:
* Đọc ngược từ cuối bài lên, thành ra một bài thơ khác cùng vần (bằng hoặc trắc), ví dụ:
EM VÀ XUÂN
Thuận:
Em cười tiếng bổng vút triền xuân
Ngọt đẫm kìa môi ửng sắc ngần
Rèm tóc chải mây hàng liễu gợn
Mắt hồ in ngọc phím chiều ngân
Xem vừa ý nguyện khơi vàng đá
Tỏ sẵn nguồn duyên định số phần
Kèm phấn nhụy xinh vườn trĩu nở
Em chào nắng nhỉ, thế là xuân!
Nghịch:
Xuân là thế nhỉ, nắng chào em
Nở trĩu vườn xinh nhụy phấn kèm
Phần số định duyên nguồn sẵn tỏ
Đá vàng khơi nguyện ý vừa xem
Ngân chiều phím ngọc in hồ mắt
Gợn liễu hàng mây chải tóc rèm
Ngần sắc ửng môi kìa đẫm ngọt
Xuân triền vút bổng tiếng cười em
(Nguyễn Quốc Bình)
* Đọc ngược từ cuối bài lên, thành ra một bài thơ khác đối vần (từ bằng sang trắc hoặc ngược lại), ví dụ:
ÁNH TRĂNG THƠ
Thuận:
Trống nhịp dâng ngời mắt trẻ thơ
Đèn sao rợp ánh thỏa mong chờ
Ngổng đầu, Lân chớp như dè dặt
Xoay gót, Địa nhường ấy vẩn vơ
Lộng sáng kìa trăng vành đĩa tỏa
Lười chây rõ Cuội bóng đa nhờ
Vống lời ngân điệu, dinh tùng gõ
Mộng ước giăng nào, tuổi kết nơ!
Nghịch:
Nơ kết tuổi nào giăng ước mộng
Gõ tùng dinh điệu, ngân lời vống
Nhờ đa, bóng Cuội rõ chây lười
Tỏa đĩa vành trăng kìa sáng lộng
Vơ vẩn ấy nhường, Địa gót xoay
Dặt dè như chớp, Lân đầu ngổng
Chờ mong thỏa ánh rợp sao đèn
Thơ trẻ mắt ngời dâng nhịp trống
(Nguyễn Quốc Bình)
* Đọc ngược từ cuối bài lên, vẫn ra bài thơ y hệt, ví dụ:
THUỞ HOA NIÊN
Thương người áo nhẹ giũ mùa hương
Thả gót chiều quen bạn vắng trường
Tường bám mảng rêu ùn gió chạnh
Lá viền khung cảnh lắng hồn vương
Vương hồn lắng cảnh, khung viền lá
Chạnh gió ùn rêu, mảng bám tường
Trường vắng bạn quen chiều gót thả
Hương mùa giũ nhẹ áo người thương
(Nguyễn Quốc Bình)
* Đọc ngược từ cuối mỗi câu lại, thành ra một bài thơ khác, ví dụ:
TRĂNG CHIỀU
Thuận:
Sóng dạo thuyền lay ráng đỏ chiều
Võng gài tơ nắng thả hồn phiêu
Dồn loang ngấn bọt tầng cao thấp
Đọng sũng diềm mây chỏm ít nhiều
Thưa nhánh cỏ xòe phơ phất nhạn
Mỏng làn sương ngút dật dờ tiêu
Hòa giao ánh mộng trời riêng ngỡ
Bóng nguyệt kề non vách xoải diều
Nghịch:
Chiều đỏ ráng lay thuyền dạo sóng
Phiêu hồn thả nắng tơ gài võng
Thấp cao tầng bọt ngấn loang dồn
Nhiều ít chỏm mây diềm sũng đọng
Nhạn phất phơ xòe cỏ nhánh thưa
Tiêu dờ dật ngút sương làn mỏng
Ngỡ riêng trời mộng ánh giao hòa
Diều xoải vách non kề nguyệt bóng
(Nguyễn Quốc Bình)
* Đọc ngược từ cuối mỗi câu lại, vẫn ra bài thơ y hệt, ví dụ:
LỜI THƯƠNG BÊN CÁNH VÕNG
Mỏng tiếng ru hời ru… tiếng mỏng!
Võng thưa đều nhịp đều thưa võng
Ươm dày cội nghĩa cội dày ươm
Đọng thắm chồi ân chồi thắm đọng
Lời vẳng bước con bước vẳng lời
Bóng vươn tình mẹ tình vươn bóng
Quang trời hẹn ước hẹn trời quang
Mọng trĩu làn hương, làn trĩu mọng
(Nguyễn Quốc Bình)
20. Liên hoàn
Bài thơ gồm nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới, ví dụ:
THI LẤY ĐƯỢC
Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi
Nhất thì anh đỗ, nhì anh trượt
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi
Nam nhi chi chí, há lo gì
Một, hai, ba, bốn, năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi
Trượt thi, thi trượt, vẫn gan lì…
(Tú Mỡ)
21. Liên hoàn thuận nghịch vận
Lối thơ liên hoàn như trên, nhưng bài sau sắp xếp ngược vần với bài trước (nếu câu cuối bài sau lặp lại cầu đầu của bài trước, còn được gọi là “Thủ vỹ tương lân”), ví dụ:
VẾT THƯƠNG CỦA CHA
Rồi cha giã biệt mái tranh nghèo
Lý tưởng soi đàng dẫn bước theo
Hỏa tuyến vùi canh màn pháo rộ
Biên khu ngẩng mặt ánh châu vèo
Quân hành những lúc mồ hôi tủa
Chiến đấu bao lần máu thịt gieo
Giữ trọn niềm tin ngày đại thắng
Và, trong một trận vết thương đèo
Và trong một trận vết thương đèo
Khúc nhạc sa trường bỏ nốt gieo
Cuộc sống gia đình, tay trụ vững
Guồng quay xã hội, chí thông vèo
Sinh thời quyết ý không dừng lại
Tử hạn xem chừng mãi bám theo
Phút cuối đành quên lời nhắn gửi
Rồi cha giã biệt mái tranh nghèo…
(Nguyễn Quốc Bình)
22. Ô thước kiều
Lối thơ liên hoàn như trên, nhưng chỉ lấy hai từ cuối, hoặc nhắc lại hai, ba từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu đầu của bài dưới, ví dụ:
CHỐNG TÔN THỌ TƯỜNG
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ
Người trí mang lo danh chẳng chói
Ðứa ngu luống sợ tuổi không chờ
Bài hòa đã sẵn in tay thợ
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ
Tai ngơ sao đặng lúc tan tành
Luống biết trách người, chẳng trách mình
Ðến thế còn khoe đàng đạo nghĩa
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành
Thân có,ắt danh tua phải có
Khuyên người ái trọng cái thân danh
Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang
Ðốt sáp nên tro lụy chẳng màng
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa
Một nhà danh giá xóa tan hoang
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc
Người khó xăng xăng mới gặp vàng
Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang
(Phan Văn Trị)
23. Toán thi
Mỗi câu đều có từ chỉ con số, ví dụ:
BÓI SỐ
Ruột rối bòng bong, một lá thuyền
Ngổn ngang trăm mối vẫn y nguyên
Người đi nghìn dặm còn thêm nhớ
Kẻ ở muôn năm vẫn lẻ duyên
Mớ hoảng, có kêu thời cũng hão
Ức thầm, dẫu khóc chỉ thêm huyền
Vạn người, ai kẻ chung tâm sự
Hãy triệu giùm tôi chú đỗ quyên
(Bùi Tiến)
24. Tập danh
* Mỗi câu có danh từ gắn với đề tài, ví dụ:
MỪNG ÔNG LÃO HÀNG THỊT THƯỢNG THỌ
Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy (1) chưa dễ mấy lăm người
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Ðầu bạc nhưng mà chửa tắc tai
Bè bạn bày vai kèo chén Lý (2)
Cháu con dưới gối múa sân Lai (3)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
Chữ đức giả xương máu để đời
(Nguyễn Khuyến)
Chú thích
(1) Ý từ câu “nhân sinh thất thập cổ lai hy”
(2) Lý Bạch, nhà thơ thời Nhà Đường, nổi tiếng uống rượu làm thơ
(3) Lão Lai, người nước Sở đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi còn cha mẹ, giả cách khóc như trẻ con để làm cho cha mẹ vui
* Mỗi câu thơ có từ chỉ bộ phận trong thân thể con người, ví dụ:
HỌC TRÒ
Dài lưng tốn vải lại ăn no
Nghĩ ngán cho thân phận học trò
Thù nước, thù vua, ngay mặt chịu
Công sưu, công ích, cắm đầu lo
Vẫn giương mắt ếch mà ra quáng
Còn ngậm lông mèo (1) chả sợ ho
Nói đến chuyện đời tai điếc đặc
Rung đùi, chỉ nghĩ “tám đùi” (2) to
(Nhì Mỹ)
Chú thích
(1) Ngậm lông mèo: ngậm bút lông
(2) Tám đùi: văn xưa gọi là “bát cổ” dịch là tám vế, vế (bắp) đồng nghĩa với đùi.
* Mỗi câu nào có cụm từ là thành ngữ, tên tác phẩm, sự kiện gắn với đề tài…, ví dụ:
TÌNH ANH LÍNH CHIẾN
“Đám cưới đầu xuân” tỏ rạng ngời
“Ngày tròn tuổi lính” mộng trăng khơi
“Bài ca kỷ niệm” vầng dương hé
“Nhận diện thời gian” ánh hỏa mời
“Bóng nhỏ đường chiều” vương ái ngại
“Đêm dài chiến tuyến” nhớ chơi vơi
“Lời tình viết vội” tràng hoa kết
“Mộng ước mai sau” sánh tuyệt vời
(Nguyễn Quốc Bình)
25. Tính danh
Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh. Giống như Ðiển thi, câu nào cũng dẫn một điển tích, ví dụ:
LỖI THỀ
Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Ðường (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành (2) rở nhớ thương
Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương (4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà (8) mưa gió nẻo cầu sương.
(Toại Khang)
Chú thích
(1) Kiều trầm mình ở sông Tiền Ðường
(2) Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành
(3) Ðường Minh Hoàng – Dương Quý Phi đêm Mồng Bảy tháng Bảy âm lịch (Thất Tịch) thề cùng nhau “sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành”
(4) Bạch Cư Dị, văn hào đời Ðường, đêm đậu thuyền ở sông Tầm làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát
(5) Chung Tử Kỳ – Bá Nha là hai người bạn tri âm. Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì. Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa
(6) Trương Quân Thụy – Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên
(7) Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ
(8) Ngưu Lang – Chức Nữ đứng hai bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mưa ngâu trong tháng Bảy âm lịch.
26. Sắc thái
Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc, ví dụ:
CHIỀU NỔI MÀU THU
Trời thu bóng ác rực mầu vang
Trườn trượt vào lưng dặng núi vàng
Cánh nhạn chiều tà sương lót trắng
Chòm mây mưa nhạt khói mờ lam
Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía
Vườn vắng còn đây nở đóa vàng
Nếu chẳng vương tìm hoa súng tím
Thì đâu được ngắm nguyệt da cam
(Toại Khang)
27. Thủ vỹ ngâm
* Câu đầu và câu cuối lặp lại giống nhau, ví dụ:
KHẼ BƯỚC XUÂN VỀ
Dỗ bước ngang thềm, ấy hẳn xuân?
Mùi hương dịu khoác vẻ tươi nhuần
Khơi đà mạch ấm, càn khôn chuyển
Gỡ mảnh sương già, tuế nguyệt luân
Trắng cúc, vườn khoe màu giản dị
Vàng mai, ngõ nhuộm nét đơn thuần
Như ngầm ước định, muôn loài trỗi
Dỗ bước ngang thềm, ấy hẳn xuân!
(Nguyễn Quốc Bình)
* Một dạng biến tấu, câu cuối lặp lại câu đầu nhưng không hoàn toàn, ví dụ:
BÀN TAY TẠO HÓA
Tạo hóa vươn tay điểm địa cầu
Vo tròn, bóp dẹt, bấm nông sâu
Sơ khai chốn chốn chìm mông muội
Khởi tiếp nơi nơi bật mỡ màu
Định sẵn hai phương liền một trục
Phân rành bốn biển rõ năm châu
Khi nào ngán cảnh đời xâu xé
Tạo hóa buông tay… thả địa cầu
(Nguyễn Quốc Bình)
28. Áp cú
* Dùng từ cuối của câu trên làm từ mở đầu cho câu dưới, ví dụ:
NGÀY VỀ
Dụi mắt bao lần mỏi ngóng quê
Quê hương hẹn buổi đón ta về
Về giang nắng sậm hai đầu gánh
Gánh rực tơ mềm nửa quãng đê
Đê vút tầng âm truyền luống cải
Cải giăng ánh mật nhắc câu thề
Thề trao nguyện ước sau mùa gặt
Gặt những ân tình… giấc nửa mê
(Nguyễn Quốc Bình)
* Nếu sử dụng từ vần của câu thứ tám làm từ mở của câu thứ nhất thì được gọi là “Tuần hoàn bất tận thi”, ví dụ:
TRÊN CÁNH ĐỒNG CHIỀU
Đồng ươm nắng tỏa vút tia hồng
Hồng ửng môi cười lấp lóa đông
Đông gỡ mành sương, tròn vị giá
Giá tan, rặng cỏ đẫy hương nồng
Nồng nàn thảm lúa khơi mùa rộn
Rộn rã tay liềm thỏa giấc trông
Trông ánh tương lai hòa nhịp trẻ
Trẻ thơ tiếp giọng hát vang đồng
(Nguyễn Quốc Bình)
29. Triệt hạ (tiệt hạ)
Từ cuối của mỗi câu thơ để lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa (câu thơ chưa trọn nghĩa chứ không phải là tự ý ngắt các từ ghép, từ láy), nhưng người đọc vẫn có thể hiểu hoặc có thể thêm vào những phương án của riêng mình, ví dụ:
PHỤ NỮ TÂN THỜI
Phụ nữ ngày nay thỏa chí Bà…
Gia đình, xã hội gánh đều ra…
Này vai nội trợ rằng luôn cứ…
Nọ bước công du hẳn sẽ là…
Tiếp sử oai hùng, voi mượn đỡ…
Soi bầu nhuệ trí, rượu tìm pha…
Tề gia trị quốc dường như thể…
Viết trọn vần thơ ngẫm để mà…
(Nguyễn Quốc Bình)
30. Vấn nghi
Mỗi câu đều mang ý câu hỏi (có thể kết hợp với lối triệt hạ để tạo ra câu hỏi bỏ lửng), ví dụ:
CÓ VỌNG SANG MÙA?
Rạng rỡ mi ngời em có phải …?
Hồn say luyến nhớ rồi hay tại …?
Mơ lời cột thắm, chỉ nào đang …?
Hỏi ý thêu nồng, duyên nọ mãi …?
Có đặng niềm thương để trỗ làn …?
Và lay dấu nguyện cho hừng trái …?
Muôn dòng nhắn nhủ đã tìm gieo …?
Quyện với hương ngàn, hoa sẽ trải …?!
(Nguyễn Quốc Bình)
31. Hỏi đáp
Lần lượt các câu thơ là câu hỏi và câu trả lời (có thể kết hợp với lối triệt hạ để tạo ra câu đáp bỏ lửng), ví dụ:
NGỌC HOÀNG HỎI, TÁO TRẢ LỜI
Năm rồi chính sự có gì hay?
Khởi tấu: Trần gian nhất thể này…
Đốt củi hô hào dân phục chứ?
Chơi đòn lấp liếm bạn gờm thay…
Vì sao lợi ích hòng phân mảng?
Cũng bởi tài danh xúi ngập mày…
Đổi mới khâu nào cho hữu hiệu?
Ngọc Hoàng biết tỏng ấy xưa nay…
(Nguyễn Quốc Bình)
32. Yết hậu
Các câu trên đều đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có một từ (theo vần của bài thơ), ví dụ:
THỎA GIẤC YÊU
Ai lùa vạt nắng hương nồng thở
Ai chuốt ngàn mây chiều rực rỡ
Ai thả hôn hoàng gội tím thêm…
Nhớ!
Nhớ cuộn theo dòng, gió mở xem
Nhớ so phím dạ trỗi thương kèm
Nhớ quay quắt hỏi đâu hình bóng
Em?
Em giờ đẫm lạnh màn sương hé
Em khoác mòn canh, hài cỏ nhẹ
Em lẫn muôn trùng tiếng vọng ru
Khẽ!
Khẽ giọt trăng ngà tỏa sắc phiêu
Khẽ như giấc điệp loáng tơ chiều
Khẽ mùi dịu ngát, mong chờ thỏa
Yêu!
(Nguyễn Quốc Bình)
33. Vỹ tam thanh
Ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm (giống hệt nhau về âm, vần nhưng khác thanh dấu), ví dụ:
MÀU TIỄN BIỆT
Cung rền nhạc tiễn vẻ vè ve
Phổ lẫn màu hoa chóe chọe chòe
Bút gượng đôi vần cun củn cũn
Tay nhoài, bốn mắt hỏe hòe hoe
Dàn phông kỷ yếu tùm tum tụm
Chớp ảnh thời gian xóe xọe xòe
Biệt giã khung trời ngân ngấn ngẩn
Nghiêng mùa, vỡ giọt tóe tòe toe
(Nguyễn Quốc Bình)
34. Liên thanh
Các từ cùng âm bằng hoặc trắc liền nhau trong câu thơ mang cùng thanh dấu, ví dụ:
VINH QUANG VIỆT NAM
Tháng Chín thu sang phất phới cờ
Đèn vàng thảm đỏ tưởng như mơ
Non sông vạn chặng kia mây gió
Gấm vóc hai phương ấy bến bờ
Hỡi những đoàn người vùi tuổi trẻ
Này từng khúc hát nhắn con thơ
Hoa đơm thẫm ngõ chưa khô lệ
Đất nước vinh quang đếm ý chờ
(Minh Thái)
35. Trốn vận
Câu thơ đầu tiên không tuân theo vần của toàn bài (chẳng hạn đang bằng đổi ra trắc). Bài thơ theo lối Tứ tuyệt chỉ còn hai vần, theo lối Bát cú chỉ còn bốn vần. Nếu là bài thơ Bát cú, phải đảm bảo ba cặp đối gồm cặp đề, cặp thực và cặp luận, ví dụ:
CHIỀU NGANG XÓM CŨ
Đạp nước, con chuồn lay ngấn ảnh
So diều, cánh nhạn vỗ tầng không
Mùi hăng gió quẩn đầy tia mắt
Vị ngát chân in nửa quãng đồng
Trước sảnh cau già thưa nụ trỗ
Bên rào chuối kẹ vắng người trông
Vầng trăng lấp ló chiều quen dội
Ánh quyện hình xưa bếp lửa hồng
(Nguyễn Quốc Bình)
36. Xa luân ngũ bộ
Chùm thơ gồm năm bài theo một chủ đề xuyên suốt. Các câu có vần (hoặc từ vần) của bài đầu tiên sẽ lần lượt là các câu phá đề (hoặc từ vần cho câu phá đề) của các bài lần lượt từ trên xuống dưới, các vần khác cứ theo trật tự mà luân chuyển. Có thể coi các bài là một chùm xướng họa mà bộ vần được chuyển tuần tự như bánh xe quay tròn (xa luân).
* Sử dụng các câu có vần lần lượt làm các câu phá đề của mỗi bài, ví dụ:
TẢO MỘ
Hoa hồng đặt trước mộ phần đây
Dịp lễ Vu Lan ghé chốn này
Gió chướng ào ào tung cát bụi
Mưa phùn rả rích phủ trời mây
Kia mâm lễ mọn xem vừa thiếu
Nọ bó nhang thơm xếp tạm đầy
Thổn thức dâng trào mi nhuốm lệ
Nghẹn ngào nhớ mẹ nỗi buồn vây
Dịp lễ Vu Lan ghé chốn này
Sương chiều quạnh quẽ tỏa như mây
Hương trầm kẻ đốt bay lan nhẹ
Hoa cỏ người di ngã giập đầy
Đứng tạm bên mồ lưng gập xá
Quỳ gần sát bệ gối chùn vây
Đôi lời khấn đượm yêu, thương, nhớ
Nghĩa nặng thâm tình bỏ lại đây
Mưa phùn rả rích phủ trời mây
Ráng đỏ còn vương vệt trải đầy
Ngập kín đường mòn rêu bủa chặt
Che hờ ngõ tắt đá chèn vây
Chuông chùa điểm tới giờ quyên nọ
Tiếng mõ đưa về giấc nguyện đây
Nấm đất sè sè bia vẩn bụi
Mờ đi ít chữ cảm thương này
Nọ bó nhang thơm xếp tạm đầy
Côn trùng não nuột nhỏ to vây
Nghe lòng tĩnh mịch cung trầm đó
Vọng tiếng u hoài vực thẳm đây
Nhạt nhẽo ban mai dời nắng ấy
Đìu hiu bóng tối ngợp tim này
Khuỵu chân bái lạy hoài thân mẫu
Tím cả dương tà, lẫn sắc mây
Nghẹn ngào nhớ mẹ nỗi buồn vây
Giã biệt nhưng tình nặng trĩu đây
Luyến tiếc chi thêm, đành ngoảnh vậy
Kêu than chẳng đủ, phải quay này
Ngàn thu vĩnh biệt rưng rưng mắt
Vạn thuở chia lìa héo hắt mây
Mảnh nhỏ vành tang cài ngực áo
Hình như cũng khóc tủi dâng đầy
(Cẩn Vũ)
* Sử dụng từ vần lần lượt trong các câu phá đề của mỗi bài, ví dụ:
MÀU TÍM HOA SIM
Miền quê vẫn rạng sắc hương lành
Dẫu cuộc điêu tàn khởi chiến tranh
Thắm nghĩa đôi lòng mơ sánh vẹn
Bền duyên một ngả ước xây thành
Hoa cài áo đẹp chiều mây hửng
Nhụy ướp tim ngời buổi nắng thanh
Bước hẹn, trai hùng băng lửa khói
Thuyền quyên nén dạ đẫm tơ mành
Súng dậy lan tràn buổi đấu tranh
Người đi biệt nẻo ước chưa thành
Giăng đầy mắt thẫn khơi hình nhỏ
Đọng trĩu tim ngùi gửi dáng thanh
Mỗi lúc băng đồi sim ngút khoảng
Từng phen thọc cứ lửa toang mành
Thương nàng vẫn đợi hoa màu tím
Nhẹ ngắt đài xinh gửi mộng lành…
Tình sâu ngõ hẹn khắc ghi thành
Vẹn gửi trăng ngà dõi bóng thanh
Pháo dội, đời trai quàng hỏa tuyến
Đèn khêu, phận nữ ủ sương mành
Đan ngày thắm mộng hoa ngời tỏ
Kết thuở nồng ân trái đượm lành
Nỗi nhớ dài theo hồi chiến cuộc
Ai làm cách biệt ngả phân tranh…
Sấm chợt rung trời giữa buổi thanh
Người em gục chết, tủi giăng mành
Chưa bừng luyến ái nồng mơ thoả
Vội giã tình duyên úa mộng lành
Nẻo cũ phòng côi chìm ngóng đợi
Phương này bước lẻ gối giao tranh
Dòng va sóng dập thuyền tan vỡ
Đã hết từ đây ước nguyện thành
Làn sương nhẹ quẩn hắt hiu mành
Dấu cũ hoài ghi ước nguyện lành
Những tưởng vầy sum miền ái hợp
Đâu ngờ biệt cách ngả tương tranh
Niềm thương, ký ức hằn cung ngỏ
Nỗi nhớ, hành trang kết giọt thành
Bóng ngả chiều hoang biền biệt tím
Hương lòng một dải vấn trời thanh
(Nguyễn Quốc Bình)
37. Lộc lư ngũ bộ
Chùm thơ gồm năm bài theo một chủ đề xuyên suốt. Một câu có vần dùng làm chủ đề lần lượt được đặt làm câu phá đề của bài thứ nhất rồi chuyển xuống lần lượt làm câu thừa đề của bài thứ hai, các câu có vần trong cặp thực, luận, kết của các bài tiếp theo, các vần khác cứ theo trật tự mà đẩy lên nhường chỗ cho câu chủ đề. Có thể coi các bài là một chùm xướng họa mà câu chủ đề được di chuyển tuần tự qua các vị trí như trục bánh xe tịnh tiến (có ý kiến cho rằng “lộc lư” là cách đọc khác của từ “lộc lô” tức là con lăn). Trong cách viết hiện nay, rất ít người sử dụng nguyên bộ vần mà dùng riêng bộ vần cho mỗi bài (nhưng không được trùng nhau, trừ câu chủ đề)
* Sử dụng nguyên bộ vần cho tất cả các bài, ví dụ:
NGÁT NHỤY XUÂN ĐỜI
Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay
Rồi trưng áo diện, ngõ xuân bày
Trong miền sự tích bao hồi chuyển
Giữa nẻo nhân tình mấy cuộc thay
Đủ những niềm tin bền thấm hạnh
Đầy muôn ý tưởng vững khơi ngày
Vươn tầm lỗi lạc căng bầu huyết
Rượu cũng châm rồi, để chuốc say
Vầng dương đã khởi, nét tươi bày
Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay
Én xoải tầng mây dòng thực lãng
Sương viền rặng núi ảnh trần thay
Hòa con nước dẫn bồi vun mạch
Vỗ nhịp đời reo, tiếp chuyển ngày
Lại sẵn huyền cơ… nguồn ấp ủ
Đây vuờn bướm lượn, dõi mà say
Đẫm quyện vào nhau phút tỏ bày
Tơ choàng ánh lụa ngỡ vừa thay
Đàn lên quãng nhộn trào cung ví
Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay
Tuổi cũ về giăng triền suối ngọc
Đường xưa giữ lại dấu chân ngày
Đan vùng niệm ức, rồi khai mở
Thẫm ngả khung trời nhấp vị say
Lời thương ướp mật hãy phô bày
Lẽ tạnh cơn mù, nắng hửng thay
Dệt khúc thề trao đừng nhỡ buổi
Dành tia mộng gửi ắt vương ngày
Ong khều noãn dịu quơ vòi hứng
Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay
Biếc nụ tầm xuân dường trẻ mãi
Thêu tràn giọt mắt, ngẩn hồn say
Thỏa Tết, ngàn hoa diễm tuyệt bày
Tô vườn nguyện ước mảng màu thay
Mừng nây cội nghĩa rồi thơm quả
Chúc đẹp phần duyên sẽ tỏ ngày
Đỏ pháo hiên bừng xem vẫn thẹn
Hây đào má ruộm ngẫm còn say
Trần gian tặng cả mùa phơ phới
Nhụy dỡ hương nồng ửng sắc lay
(Nguyễn Quốc Bình)
* Sử dụng riêng bộ vần cho từng bài (trừ câu chủ đề), ví dụ:
THẮM NẺO XUÂN QUA
Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua
Bình minh lợp ánh đẩy dương tà
Theo làn gió chuyển vơi ngày cũ
Lẫn vệt mây cài thoảng bóng xa
Kẻ dõi mùa vui hồn ngát đượm
Người in nỗi vọng mắt rưng nhòa
Sum vầy, lệ trút phen mừng tủi
Thấm tuổi so cùng những điệu ca
Rồi nghe đợt pháo tưởng như là
Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua
Phía ngõ bàn chân dường lạ nhỉ
Đằng hiên nét thở rõ quen mà
Xuôi dòng lãng bạt, chưa kề bến
Trở quãng phiêu bồng lại réo ta
Đẫm cả chùm thơ nồng sắc gợi
Kìa em, mấy thuở vẫn không già
Lạnh lẽo, ai còn buốt mảnh da
Về đây dệt nắng, hửng quê nhà
Dâng hồn, nhạc ý muôn lời phổ
Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua
Để dõi tường vy bừng má ngọc
Rồi vin thạch thảo sánh mi ngà
Tơ hồng đã rải trên nhành biếc
Ủ chắt men lòng, rượu nghĩa pha
Vờn giăng nhịp én gửi thay quà
Nhánh lộc reo hùa, cũng mở ra
Đủ nhớ lùa canh hằng giữ buộc
Vừa thương, hé buổi sẽ tuôn òa
Khơi nguồn diệu ái bao triền tỏ
Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua
Gỡ mảnh thời gian đằm vị ướp
Thầm mơ vạt áo điểm bông cà
Nhẹ bẫng tia chiều dạo phố hoa
Trần gian miết mải dẫu theo đà
Ngang thềm trổ cúc lay hình mẹ
Kế sảnh bung đào ngỡ giọng cha
Lửa giữ đều tay… rền cặp bánh
Nhài nêm phải cánh… đậm ly trà
Giao thừa rộn rã hương lừng trải
Lắng giọt xuân tình mỗi nẻo qua!
(Nguyễn Quốc Bình)
38. Phú đắc
Giải thích và phát triển ý của một câu thơ hay ca dao hay, tục ngữ bằng một bài thơ, nội dung phải phù hợp với sự việc đó, ví dụ:
GIÀ CÒN MUỐN LẤY CHỒNG
“Bà già đã bảy mươi tư
Ngồi trong cửa sổ gửi thư kén chồng”
Đã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư tuổi có là bao?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao
Chữ nhất nhi chung đành đã vậy
Câu tam bất hiếu nữa làm sao
May mà lấy được ông chồng trẻ
Họa có sinh ra được chút nào?
(Nguyễn Khuyến)
39. Cô nhạn nhập/xuất quần
Câu thơ đầu hoặc câu thơ cuối có vần khác với những vần còn lại (ví như con chim nhạn lẻ loi nhập vào đàn hay tách khỏi đàn), do những từ cùng vần không đủ sức diễn tả ý thơ mà lại không muốn thay đổi bộ vần. Tuy khác cước vận nhưng khéo léo kết hợp với eo vận của câu thơ liền kề để tạo ra sự nhịp nhàng về âm điệu và tiết tấu.
* Cô nhạn nhập quần, ví dụ:
CHUYẾN ĐÒ TÌNH
Thuở ấy chung về một bến sông
Làm quen, bước sải trống tim dồn
Ưng thầm đó vẻ cong nhành liễu
Hỏi khẽ đâu nhà, ngược phía thôn
Nụ mắt hồ xao thành sóng gợn
Bờ vai tóc thả… đoán hương tồn
Khi nào rượu nghĩa môi kề nhỉ?
Bẽn lẽn em rằng: phút hợp hôn!
(Nguyễn Quốc Bình)
* Cô nhạn xuất quần, ví dụ:
HOÀNG HÔN NHỚ
Buông dài vệt nắng cửa hoàng hôn
Lữ khách về ngang bước mỏi dồn
Gió trở, đông gầy hoe cuộng lá
Sương đùn cỏ úa sậm triền thôn
Thời gian chẳng thốt mà đi biệt
Kỷ niệm hằng ghi cũng để tồn
Vén mảnh lam chiều tay gợn khẽ
Gom đầy sợi nhớ kẻ nhoài trông!
(Nguyễn Quốc Bình)
40. Chơi chữ
Thể thơ chơi chữ rất phong phú và đa dạng, chỉ xin liệt kê ra đây vài bài mẫu:
* Chơi theo chữ cái, ví dụ:
MUỐN QUY THUYỀN
A (a) di đà Phật muốn quy thuyền
B (bê) bết lòng tham hãy cứ nguyên
C (xê) xích cho gần nơi cửa tịnh
Đ (đê) đầu nguyện dứt mối trần duyên
(Thảo Am)
* Chơi theo thanh dấu, ví dụ:
(KHÔNG RÕ TỰA)
Huyền diệu trông lên cửa đạo thuyền
Sắc không khôn rõ thấu căn nguyên
Nặng nề nghiệp chướng e chưa hết
Hỏi mấy ai đà có thiện duyên
(Thảo Am)
Tag: soạn thuyết lớp