Khách là một đại hán vạm vỡ,
vận chiếc trường bào màu xám tro, nước da đen sạm; ngựa là một loại thiên lý câu
sắc hung sẫm, bờm cao, bụng thon, lưng dài. Cả hai hình như đã vượt qua hằng
ngàn dặm đường nên khi đến địa phận Trấn ma lâm, vó gõ trên mặt dốc sỏi không
còn ngon trớn nữa mà chậm dần, chậm lại dần… Đến góc núi, bỏ đường lớn, người
và ngựa thong thả nước kiệu qua ngọn đồi tràm và thông mọc lưa thưa chen lẫn đá
hoa cương và đá tổ ong.
Khách và ngựa nhuốm đầy bụi
đường, nắng gió và mồ hôi. Trên dặm mù thiên lý đến đây, đại hán đã giao đấu
hằng chục trận với những hiệp khách bí mật, tự xưng là sứ giả của Phật môn. Họ
không biết là bao nhiêu người, có ngoại hiệu là Trầm luân Tam tử Sát ác nhân,
Trầm luân Ngũ tử Đoạn trần lao… Họ quả là xuất thần nhập quỷ, thiên
mưu bách kế, võ công xảo diệu khôn lường… Thật khó đoán nổi ý đồ của họ.
Dường như họ chỉ ngăn chặn, trổ lộng thần oai cốt để cho đại hán cùn nhụt ý
chí, bỏ ý định tìm kiếm kho tàng trên đất Phật mà thôi.
“- Hừm!” –
Đại hán cười gằn – “Dễ gì mà cùn nhụt được ý chí của dũng sĩ Hồ Bắc ta đã chứ!”
Cẩn trọng nhìn quanh, đôi mắt
đại hán thoáng lay động sau hàng chân mày rậm rịt, chiếc nón rộng vành cắt một
khoảng trời xanh lơ…
Bây giờ thì khách và ngựa đã
dừng chân lại bên tàn cây sanh phủ rộng che khuất cả một khoảng suối. Đại hán
bỏ nón, quấn cương, chậm rãi leo xuống yên rồi vỗ nhè nhẹ trên bờm ngựa ra
chiều thân thiết. Ngựa cất tiếng hí dài, hai chân trước vỗ lộp độp xuống đất
làm bắn tung tóe những viên sỏi nghe xào xạo.
Vầng kim ô đã bắt đầu ngã xế,
núi rừng về chiều trông thật hoang quạnh.
Đại hán leo lên một tảng đá cao
nhìn theo con đường mòn nhỏ nối liền cây cầu khỉ bắc ngang suối. Nhìn xa hơn
nữa thì thấy một con đường đứt quãng hoặc chìm khuất nhiều nơi – nhưng cũng dẫn
đến một chiếc thảo lư ẩn mình sau lùm cây rậm. Phía chính
Nam
, cách chiếc thảo lư khoảng mươi trượng là một phiến đá to bản,
nhẵn thín, dựng đứng cao ngất – có lẽ là từ màu trắng sữa đã ngả màu rêu than –
nhưng cũng nổi bật ba chữ đại tự màu tử mặc: Vô quy am với nét hành thảo
sắc mạnh như những nhát kiếm. Một bụi trúc vàng như được mọc ra từ chân tượng đá
vươn cao lên nền trời, phất phơ nhịp nhàng xuống lên như quệt vào hư không ngàn
đời những nét chữ vô hình, mềm mại…
“-Đây rồi!”
Đại hán nói nhỏ lầm thầm, đôi
mắt sáng rực lên rồi lần tay vào áo lôi ra một cuộn giấy da dê đã cũ vàng trải
bên chân. Ở đó lờ mờ một bức tranh nom mường tượng khung cảnh này: Dòng suối,
con đường, phiến đá trắng dựng thẳng cùng chiếc thảo lư. Ngoài ra còn
rất nhiều chữ nhỏ chi chít, mũi tên đỏ, đen lẫn những khoanh tròn và khoanh
vuông… Đây là bản đồ kho tàng của Phật môn – mà khó khăn lắm đại hán mới
tranh đoạt được giữa chốn giang hồ.
Sau thời gian chừng mấy tuần
trà chăm chú nghiên cứu bản đồ, thốt nhiên, bóng đại hán loang loáng nhảy qua
tảng đá phía chính Bắc, tay phải vỗ nhẹ lên bắp đùi, phi thân lên một tảng đá
cao. Một lát, rời tảng đá cao, bước xuống đất, đại hán bước qua trái chín bộ,
bước qua phải mười tám bộ, bước tới hai bộ rồi ngừng lại. Ngồi xuống trước hai
tấm đá hoa cương xếp chồng lên nhau, đại hán thò tay định nhấc lên… nhưng
nghĩ sao, y dừng lại, đứng lên, ngó dáo dác xung quanh. Đại hán đứng rất lâu,
dáng dấp to lớn, mảnh áo bào phất phới nom kiêu dũng với khí thế trùm trời đất.
Nhìn lại một lượt nữa cây cầu khỉ, con đường, phiến đá trắng dựng đứng cao ngất,
chiếc thảo lư, bụi trúc vàng… đại hán miệng lầm thầm, hai ngón tay
không ngớt vạch, chỉ, đánh những con số. Lâu lắm, y gật gật đầu, vò tấm giấy da
dê, mồi rác khô châm lửa đốt, trên môi thoảng nụ cười đắc ý.
Con ngựa bên gốc cây thình lình
hí vang lên. Đại hán đảo người rồi quăng mình đi như sức bật của một mũi tên.
Thế là chỉ trong nháy mắt, y đã trở về chỗ ngựa, chiếc mặt nạ che mặt không
biết đã đeo lên lúc nào; thanh kiếm nhỏ và mỏng như lá mía, chẳng biết ở đâu
cũng đã rút ra khỏi vỏ tự bao giờ! Mũi kiếm lay động không ngớt, đang trỏ thẳng
vào yết hầu một Lam y dị khách đang nằm ngủ khoèo ở đấy!
Con ngựa vẫn thản nhiên gặm cỏ.
Núi rừng hoàng hôn điểm những tiếng chim hót lẻ loi.
Đại hán chăm chú quan sát Lam y
dị khách một hồi rồi cất giọng ồm ồm, gióng từng tiếng một, chấn động
cả khu rừng:
– Trầm luân tử!
Phải ngươi đấy không? Đừng ngủ nữa, dậy đi thôi!
Tiếng ngáy phì phò hình như lớn
hơn để đáp lại, cũng vang dội không ngớt!
– Trầm luân tử!
Ta hỏi lại, ngươi là Trầm luân thứ mấy?
Lam y dị khách
trở mình, tay với bầu rượu ở bên lưng, rồi soải dài chân tay ra, ngáy nữa!
– Ngon lắm – Đại hán cười gằn –
Ngươi có phải là Trầm luân Tam tử không? Đây là lần thứ ba, ta hỏi lại
theo phép lịch sự giang hồ, bằng không…
Đại hán vừa nói xong thì một
giọng cười rổn rảng từ bên kia suối vọng qua, rồi có tiếng nói như lệnh vỡ:
– Dũng sĩ Hồ Bắc! Ta đây mới
chính là Trầm luân Tam tử! Trầm luân Tam tử Sát ác nhân chính thị
là ta đây!
Đại hán giật thót mình, quát
lên một tiếng, thân hình đã bay là đà qua suối. Khi hết đà, y dùng chân phải
đạp lên chân trái, người lại lao vụt đi. Khe rộng hơn năm trượng, thế mà chỉ ba
lần hụp xuống, nhô lên, y đã khoanh tay đứng trên một mô đất cao bên kia suối,
tà áo phất phơ theo chiều gió lộng.
Người lạ cười hăng hắc:
– Hay lắm! Đẹp lắm! Cái thế Vân
long tam hiện mà nhà ngươi sử dụng được như thế thì quả là ngoạn mục!
Nhưng mà này, dũng sĩ Hồ Bắc! Sao ta không thấy mây, cũng chẳng thấy rồng – chỉ
thấy rắn bò qua suối, rắn trườn qua suối… vậy ha? Buồn cười thật, buồn cười
thật!
– Phường cẩu trệ! Đại hán quát
to – Nếu là khách anh hùng thì hãy đường đường chính chính ra đây cùng ta ba
trăm chiêu cho rõ tài cao thấp!
– Đâu nhiều thế! Đâu nhiều thế!
Giọng nói bây giờ dường như đã gần lắm – Coi đây, đỡ!
Đôi mắt đại hán sáng như sao
đêm, tai như mở ra đã đến độ chót, lắng nghe và ghi nhận hết mọi động tịnh
trong khuôn vi mươi trượng. Khi giọng nói của khách lạ vừa dứt thì một làn gió
bất thường nổi lên sau lưng. Đại hán nghe lạnh gáy. Y loang kiếm ra sau, vừa
đúng lúc để đánh một vật to đang lao tới như luồng sao xẹt. Những làn kiếm bạc
như hằng trăm con bạch xà chao lượn nô giỡn ở xung quanh. Có tiếng rách như lụa
xé và những mảnh vụn gì đó bay lả tả. Định thần nhìn kỹ, đại hán mới biết đấy
là chiếc nón rộng vành mà y đã để lại bên kia bờ suối!
– Hảo kiếm pháp! Hảo kiếm pháp!
Khách lạ cười ha ha hi hi – Từ lâu ta đã nghe danh dũng sĩ Hồ Bắc ngươi là Nhất
kiếm Trấn bắc phương! Quả là danh bất hư truyền! Hôm nay ta đã được mở rộng tầm
con mắt! Phải lắm! Tiếng đồn quả không ngoa: Nhất kiếm chém nón mình! Nhất kiếm
chém nón mình!
Đại hán tức giận tràn hông, hét
lên một tiếng như muốn bật máu tươi, hàm răng cắn chặt lại, bộ râu quai nón rậm
rạp hình như đều dựng ngược cả lên, đôi mắt trợn tròng, trắng dã! Gần ba mươi
năm xuôi ngược giang hồ, chưa một lần nào y bị hạ nhục như thế, khí tức không
biết trút vào đâu. Vì, trước sau, kẻ lạ mặt vẫn không thấy tăm bóng, chỉ có
tiếng cười hì hì, ha ha, hả hả khi ngược, khi xuôi, khi
Nam
, khi Bắc, khi gần, khi xa mà thôi!
Bây giờ thì rõ ràng giọng nói
đã ở bên kia bờ đối diện.
– Dũng sĩ Hồ Bắc! Lão phu đã vô lễ vuốt râu hùm! Nhưng ở đâu có giang
sơn nấy, rừng nào có hổ nấy, xin ngươi thông cảm! Suốt cả mạn Bắc mênh mông,
ngươi tung hoành bá chủ chưa đủ sao – lại còn hăm he lùng sục kho tàng Phật môn
ở
Nam
phương này nữa? Ngươi nên nhớ… đây là thánh địa Trấn ma lâm!
Kẻ nào hống hách, ngang tàng, coi thế gian như cỏ rác – thì sẽ “thân bại danh
liệt” ở đất này!
Đại hán cất tiếng đáp:
– Trầm luân Tam tử!
Ta đã nghe ra giọng nói của ngươi rồi. Nhưng hãy ra đây cùng ta tương kiến chứ?
– Xin lỗi! Xin lỗi! Lão phu vì
nghe được mùi giấy da dê bị đốt khét lẹt ở đâu đây. Hóa ra dũng sĩ Hồ Bắc ngươi
đã tìm ra được bản đồ kho báu rồi. Do vậy, lão phu cần ở trong bóng tối để giám
thị hành động của ngươi đã… vì đây là Trấn ma lâm – ngươi phải hiểu
như thế!
– Trấn
ma lâm! Hay dữ a! Đại hán cười hắc hắc – Đừng đem cái tên ấy ra mà dọa
ta. Ví phỏng ta không phải là ma? Mà thật sự ta sẽ đem đến tự do, bình
đẳng, hạnh phúc cho muôn sinh?
– Khéo
nói, khéo nói! Ma Phật, Phật ma, pha mật! Phải rồi, cứ pha mật vào
cho thật nhiều thì cái gì cũng trở nên ngọt ngào hết trơn hết trọi! Phải rồi,
phương tiện biện minh cho cứu cánh. Lão phu biết rõ nhà ngươi đeo mang, khuân
vác bên mình rất nhiều nhãn hiệu, rất nhiều nhân danh tốt đẹp, nhiều mỹ từ bóng
lộn và cao quý… Nhưng mà trên đường nhà ngươi đi qua, biết bao nhiêu là máu
tanh và mật ngọt được trộn lẫn! Kiến, ruồi,
hương, trầm, hoa và cả quạ, kên kên nữa! Dưới gót ngựa mà nhà ngươi đã đi qua –
đã dẵm lên biết bao nhiêu điện đài và thánh tượng thiêng liêng? Có phải thế
không, dũng sĩ Hồ Bắc? Dầu nhà ngươi có nói ngọt, nói hay, có tuyên truyền,
quảng cáo tếu táo, gian manh, quỷ quyệt, trơ tráo thế nào đó… thì nhà ngươi
cũng chỉ làm tên chó săn cho ngoại bang, một tay đê tiện bán nước cầu vinh mà
thôi! Ôi! Rêu rao danh nghĩa, anh hùng cho lắm – thì cuối đời cũng chỉ còn là
một nắm cốt hôi!
Đại hán
cất giọng trầm tĩnh:
– Cảm
ơn nhà ngươi, Trầm luân Tam tử! Nói tếu nói táo như vậy mà đã mỏi miệng
chưa? Bây giờ chuẩn bị rút kiếm ra đi!
– Khá
lắm! Đởm lược lắm! Đến nước này mà nhà ngươi vẫn còn giữ được phong độ, cốt
cách của một dũng sĩ, không thẹn mặt chút nào!Nhưng mà hãy để ý nhé, ở đây
là…
– Trấn
Ma Lâm! Ta biết rồi!
Đại hán
cười lạt nói.
Có
giọng cười hề hề rồi có tiếng đáp:
– Nhưng
còn hơn thế nữa, bên kia còn có cái gọi là Vô… quy…
– Vô quy am?
– Phải rồi! Nhưng không chỉ có
thế! Nó là: “Vô quy, khách vô quy. Mã đề bất khả phi…” Thôi, lão phu
xin kiếu nghen!
Đại hán cắn chặt môi lại, quay
lưng nhìn chiếc thảo lư… có tảng đá trắng dựng thẳng, những cành trúc mềm phất
phơ nhịp nhàng như quệt vào hư không ngàn đời những nét chữ vô hình, mềm mại…
Tiếng cười dài của hiệp khách
bí mật đã loãng ra xa, nhưng như còn vương vương ở đâu đó mãi tận cuối chân
trời mù mịt…
Đại hán trở lại gốc cây thì Lam
y dị khách và ngựa đã không còn ở đấy nữa. Một mảnh giấy còn để lại,
găm lên thân cây bởi một chiếc lá sắc nhọn. Đại hán rùng mình, nghĩ thầm: Với
công lực mà dùng chiếc lá để ghim giấy vào thân cây như thế này thì ta mới thấy
lần thứ nhất ở trong đời! Bất giác, đại hán đưa mắt nhìn qua vùng trời
Nam
phương – thì chỉ thấy những dãy núi chập chùng, có những
đỉnh nhọn cao tít tận mây xanh… và, mây bay bàng bạc với những cánh chim chập
choạng ngàn đời cô lữ! Đại hán sực nhớ đến câu thơ của Lý Bạch nói về sự khó
khăn khi qua đất Thục. Đại lược là: “Đường vào Thục khó hơn đường lên trời. Phía
tây núi Thái Bạch mới có đường để chim bay sang đỉnh Nga Mi – còn con người thì
không thể!” Ồ! Đường về
Nam
cũng vậy nào có khác chi? Nhưng ở đây còn có cả những cạm bẫy vô
hình, ẩn mặt, có thể là: Một cành trúc mềm phất phơ trong gió như quệt vào hư
không những nét chữ ngàn đời; là một phiến đá trắng dựng thẳng đã rêu than, nổi
bật lên ba chữa đại tự Vô quy am như
vệt đao chém!
Nghĩ đến ngang đây, đại hán lại
rùng mình. Lâu lắm, đại hán cúi xuống nhìn mảnh giấy cứ cầm mãi trong tay mà
chưa chịu đọc.
“- Vô quy, khách vô quy
Mã đề bất khả phi
Ngộ phùng thiên địa tuyệt
Quy hà? Quy hà vi?”
Nét chữ nguệch ngoạc, đại hán
không lưu ý tới, mà chỉ để tâm nơi ý nghĩa hàm súc khó nắm bắt, khó hiểu. Thiên
địa tuyệt, thiên lộ tuyệt, sơn khê tuyệt… đều có ý nghĩa bị vây khổn cả! Vô
quy, không về; nhưng mà quy hà, về thế nào, về đâu? Quy hà vi, về làm sao, về
đâu làm chi?… Đại hán đứng xuất thần như vậy rất lâu, lâu lắm…
– Thúc thúc bị lạc đường hay
sao mà đứng một mình ngơ ngẩn giữa núi rừng như thế?
Một chú tiểu tóc còn để chỏm,
gùi trên vai và chiếc gậy cầm tay – nước da hồng hào, đôi mắt tròn, to và đen,
vận sơ sài một chiếc bào màu vàng khói đã vá đùm, vá đụp nhiều chỗ – ở đâu đó
xuất hiện, nhìn y ra chiều quan tâm, han hỏi. Đại hán đổ mồ hôi dầm dề. Bình
thường, một chiếc lá rơi cách mười trượng y cũng còn nghe được – nhưng sao tên
tiểu sư phụ này đến cạnh bên lưng từ bao giờ mà y không hề hay biết?
Như chim sợ cung, đại hán đề
khí nhảy vọt ra xa.
– Con gì vậy? Chú tiểu sốt sắng
hỏi – Rắn, rít hay bò cạp cắn thúc thúc chăng? Không sao đâu, tiểu tăng là thầy
thuốc mà!
Chú tiểu cởi gùi. Đứng quan
sát, nhìn ngắm chỗ này chỗ kia một hồi, cúi xuống, tay vốc đất, nơi này một ít,
nơi kia một ít, ngửi ngửi – rồi cười ngỏn ngoẻn lộ hàm răng trắng ngà.
– Không phải rắn, không có rắn,
rít và bò cạp cũng không. Nhưng mà lại có mùi nước tiểu ngựa – mà ngựa nầy phải
là ngựa miền Bắc, một loại ngựa quý có thể nhịn uống nước cả ngày và sức lại
dai như thần mã! À, còn nữa! Dưới gốc cây này lại còn có mùi rượu trộn lẫn mùi
mồ hôi của một khách đường xa. Thúc thúc vừa ngủ ở đây chăng? A! Sao thế? Thúc
thúc làm sao thế?
Chú tiểu nói huyên thuyên. Đại
hán càng lúc càng kinh dị, chòng chọc nhìn vào mọi cử chỉ động tịnh của chú
tiểu. Bàn chân vô tình của chú tiểu bước tới thì bàn chân cố tình của đại hán
bước lui! Cứ thế nửa khắc thời gian qua đi.
Đại hán dè dặt hỏi:
– Tiểu sư phụ hãy dừng chân lại
cho ta được hỏi.
– Thúc thúc vì sao mà cứ thụt
lùi mãi như thế? Có con gì cắn đâu!
Cả hai đã giữ nguyên khoảng
cách.
– Tiểu
sư phụ là ai? Đại hán rất căng thẳng, cẩn thận đề phòng – Lại đi đâu vào giờ
này?
Chú
tiểu cười:
– Là ai
ư? Tiểu tăng làm sao mà biết cho được! Cái đó khó nói. Nhưng có điều rõ ràng và
cụ thể hiện tiền là, tiểu tăng vừa đi hái thuốc về, đầy cả một gùi đó, thúc
thúc không thấy sao?
Chú
tiểu vừa nói vừa đi tới bên gùi, tay chỉ, miệng nói lao thao:
– Hôm
nay, đặc biệt, tiểu tăng chỉ đi kiếm thuốc độc mà thôi! Trên núi có, dưới nội
có. À, để tiểu tăng kể tên các loại cây độc cho thúc thúc nghe. Nào là trẩu
ne, sở ne, hồi núi nè, hương bài nè, chẹo nè, hột
mát nè, ngọt nghẹo nè… Ối dào, thứ nào cũng đầy mình chất độc
cả. Nhưng không sao. Tiểu tăng sẽ chế thuốc độc, biến độc dược thành lương dược
để tế độ chúng sanh. Trong Phật môn có một thuật ngữ là chuyển y, chuyển mà y, y
mà chuyển – cái đó mới nhiệm mầu! Chuyển tất cả. Chuyển ba độc tham sân
si thành bi dũng và trí, chuyển xấu ra tốt, chuyển mê thành ngộ. Cái gì cũng
chuyển sạch trơn, hết ráo trọi vậy!
Chú
tiểu nói liến thoắng không ngừng. Đại hán đứng bất động, chân mày nhíu lại.
– Bình
thường tiểu tăng vẫn đi hái thuốc về muộn như vậy mà! Chú tiểu đưa tay chỉ lên
dãy núi xanh xa mờ mờ sương khói rồi tiếp – Thúc thúc thử nhìn coi! Tiểu tăng
phải đi từ thung lũng Phù sa cương kia, bò qua Bát sơn đạo, lên
đến Nhất trấn đế. Lên đó rồi còn phải xuống nữa chứ! Dẫu là thượng đế,
hoàng đế, vương đế, chân đế, thánh đế… cũng không thèm ở lâu trển làm chi!
Thế nghĩa là phải đi xuống. Nhưng mà xuống thì phải xuống như thế nào? Chẳng lẽ
đi theo lối cũ mòn quen thuộc? Thế có nghĩa là phải đi theo con đường mới, lối
khác. Xuống lối khác nghĩa là phải đi qua Lục trần lâm, không qua Lục
trần lâm không được! Từ Lục trần lâm tiểu tăng phải vất
vả dẫm qua thung lũng Trọng địa hoặc. Bỏ Trọng địa hoặc, men theo
lùm bụi gai gốc mới xuống được đây – tức là cửa ngõ vào Trấn ma lâm vậy.
Chú
tiểu đã ngưng nói. Đại hán càng lúc trán càng nhăn tít, thầm nghĩ: Những cái
tên như Phù sa cương, Bát sơn đạo, Nhất trấn đế, Lục trần lâm, Trọng địa hoặc
kia – có ẩn ý gì, cảnh cáo ta điều gì? Trấn ma lâm đã có nghĩa – thì
những địa danh khó hiểu kia không phải là vô tình đâu!
Đại hán
hỏi:
– Thế
tiểu sư phụ ở đâu?
– Trời
ơi! Chú tiểu dang hai tay ra – Phật ôi! Thúc thúc hỏi thế thì khó trả lời quá
đi! Ở đâu? Biết đâu ở? Mà ở đâu lại không được? Đâu lại không được ở?
Đại hán
đã tức giận:
– Mà
quả thật, có phải tiểu sư phụ đi hái thuốc không?
– Phật
ôi! Hồi xửa hồi xưa kia, cái ông Vương Duy đã ngớ ngẩn nói rằng: Chỉ tại thử sơn
trung, vân thâm bất tri xứ! (Ở tại núi này thôi, mây dày không thấy lối)
Chứ ở đây, thúc thúc và tiểu tăng, núi non và gùi thuốc – có gì đến nỗi mà thúc
thúc nhìn không ra, không thấy, lại hỏi phải và không phải!
Một
chiếc bóng nháng lên. Chú tiểu vừa thấy loáng mắt một cái là cổ tay mình đã bị
nắm chặt. Hoảng quá, chú la lên:
– Thúc
thúc làm gì vậy? Thả ra! Thả ra!
Đại hán
cười lạnh:
– Bây
giờ tiểu sư phụ phải khai thật – Trầm luân Lục tử là gì của tiểu sư phụ?
Chú
tiểu cười ha hả:
– Hay,
hay lắm! Thúc thúc hỏi hay lắm! Hồi nảo hồi nao tới giờ tiểu tăng chưa thấy ai
hỏi đạo cao siêu và ý vị như thúc thúc. Được rồi, tiểu tăng sẽ trả lời, nếu có
gì sai thì thúc thúc sửa sai cho tiểu tăng nghe!
Nghĩ
giây lát, chú tiểu nói:
– Tiểu
tăng xuất gia từ lúc bảy tuổi. Năm nay là mười lăm tuổi. Vì si mê ám độn, ba
đời nghiệp chướng dày sâu nên sư phụ chưa cho học kinh mà chỉ cho học thuốc,
đây là cái nghề có thể tích lũy phước đức. Cái đó gọi là… có công có quả mới
không ngả tay chèo! Chèo đi đâu? Dĩ nhiên là chèo qua bờ kia, giác
ngạn, bỉ ngạn đó! Hoặc là người ta cũng nói: Có thực lực mới vực được đạo!
Thì in rằng cùng một nghĩa như nhau. Còn về những giáo pháp thâm sâu thì sư phụ
chưa cho tiểu tăng mò tới, chỉ học tròm trèm năm câu bảy chữ chi đó mà thôi. Mà
ối dào, Phật ôi! chỉ có năm câu bảy chữ mà cũng còn chữ nhớ, chữ quên mới tội
nghiệp chứ!
Đại hán
dường như không còn kiên nhẫn được:
– Thôi,
nói lẹ lên, trời tối rồi!
– Vâng
ạ! Để tiểu tăng nói, tiểu tăng nói ngay đây mà! Bọn quân tử Nho kia mà còn nói
được: Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy – huống hồ gì tiểu tăng là Phật
cháu, Phật con – có bao giờ dám nuốt lời. Bây giờ tiểu tăng vào chính đề đây. Trầm
luân Lục tử ư? Trầm luân Lục tử là tiểu tăng – mà tiểu tăng cũng
chính là Trầm luân Lục tử. Phải mà không. Không mà phải. Nói ngược, nói
xuôi gì cũng được cả. Nói một nói hai gì cũng đúng ráo trọi cả. Nhưng có
điều… có điều…
– Có
điều sao? Đại hán gắt.
– Vâng!
Có điều… ngoài tiểu tăng không có Trầm luân Lục tử, ngoài Trầm luân Lục
tử không có tiểu tăng! Mà eo ôi! Khi tuệ quán chiếu được mở ra – thì
trong Trầm luân Lục tử chẳng có cái mốc xì nào là tiểu tăng cả mới chết
chứ!
– Đừng
nói quanh! Ta hỏi một lần chót, Trầm luân Lục tử là ai?
Đến
phiên chú tiểu ngạc nhiên:
– Đừng
nói giỡn! Thúc thúc đừng nói giỡn với tiểu tăng như vậy chứ! Ai lại bỡn cợt với
kẻ tu hành, tội chết!
– Không
có nói giỡn! Khuôn mặt đại hán đã thoáng nét cay độc – Tiểu sư phụ phải nói cho
rõ: Y có trong am không?
Chú
tiểu ngẩn người ra:
– Trong
am ư? Trong am thì có biết bao nhiêu là Trầm luân Lục tử. Mỗi Trầm luân
Lục tử đều giống nhau y hệt – nhưng mà lại khác nhau tuốt luốt. Chẳng
cha nào giống cha nào, chẳng mèo nào giống mỉu nào! Ngay ở đây cũng đang có hai Trầm
luân Lục tử – to và nhỏ, không to không nhỏ, chẳng bằng và chẳng cái
không bằng! Eo ôi! Khó nói!
– Đâu?
Đâu? Trầm luân Lục tử đâu? Ra đây! Thốt nhiên, y hét lớn – Ra
đây! Trầm luân Lục tử! Hãy cùng ta ba trăm chiêu cho rõ tài cao thấp,
chứ đừng ngấp nghé trong bóng tối như phường chuột nhắt, chuột cống, chuột chù,
chuột hôi… như thế!
Đại hán
đã buông hổ khẩu tay chú tiểu, nhảy ra xa. Núi rừng vẫn không tăm vọng.
Chú tiểu lầm bầm trong miệng:
– Chết cha rồi! Cái ông đại hán
to lớn, đen đúa và dữ dằn như ông Trương Phi này bị “tẩu hỏa nhập ma” rồi.
Cho đến trong ông ta cũng có một Trầm luân Lục tử mà không hay, không
biết – lại đi thách chiến với những ông Trầm luân Lục tử nào ở bên
ngoài!
– Tiểu sư phụ lầm thầm cái gì
đó?
– Tiểu tăng nói là, trong thúc
thúc cũng có một Trầm luân Lục tử đó!
Đại hán chợt bật cười rổn rảng:
– Trong ta ư? Đâu? Tiểu sư phụ
chỉ cho ta coi thử xem nào!
Chú tiểu chợt trang nghiêm, cất
giọng đều đều như trả bài:
– Nhãn căn đụng sắc trần phát
sanh nhãn thức. Nhĩ căn đụng thanh trần phát sanh nhĩ thức. Tỷ căn đụng hương
trần phát sanh tỷ thức. Thiệt căn đụng vị trần phát sanh thiệt thức. Thân căn
đụng xúc trần phát sanh thân thức. Ý căn đụng pháp trần phát sanh ý thức. Nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là duyên cho điên đảo, đầu mối của điên đảo – nên
còn được gọi là Trầm luân Lục tặc! Lục tặc hay Lục tử cũng đều trầm luân như
nhau. Vì ái trước, mê chấp, đắm say trong thế giới lục trần ấy nên chúng
sanh đã lang thang vô định trong ba cõi sáu đường. Ấy gọi là sinh tử quẩn
quanh. Ấy gọi là luân hồi xuôi ngược. Muốn chấm dứt khổ đau sinh tử thì phải
làm sao chuyển hóa, giáo dục cho cái bọn Trầm luân Lục tặc ấy trở nên người
tốt, người hiền – đừng có trầm luân làm chuyện đạo tặc, nghịch tặc nữa – nghĩa
là biến thành cái dụng đại từ, đại bi để đem lại hạnh phúc và an vui cho mình
và người, cho chư thiên và nhân loại. Xin hết!
Nói xong, chú tiểu đứng nghiêm.
Đại hán ngẩn người ra – y không còn biết nói gì nữa, hỏi gì nữa!
Đêm đã buông xuống rồi!
Bức
Tranh Thay Đổi Thế Giới
Họ là đôi bạn thân kể từ thời
còn học ở đại học Sorbonne, sau đó, cùng chọn chuyên ngành khảo cổ học. Jabindu,
người Népal; Robinson, người Mỹ. Thời trẻ, cả hai đều say mê công việc
khô khan và vất vả của mình. Dấu chân của đôi bạn đã dẵm khắp những di tích
lịch sử ở hai bờ sông Nile, sông Hằng, Trung Á, Con-đường-tơ-lụa và cả
Nam Mỹ…
Họ thuộc hai nền văn hóa khác
nhau. Jabindu yêu những dãy núi băng giá sừng sững như muốn thi gan với
trời đất; yêu đàn trâu Yark lang thang trên đồng cỏ; yêu thiên nhiên
hoang sơ chưa có bàn tay con người uốn nắn, cải tạo; yêu con đường mòn nhỏ
quanh co cùng những mái lá bình dị, xanh xanh khói bếp thanh bình; yêu những
câu ca, điệu hát hồn nhiên, vô tư của các cô gái từ các nương rẫy và đồng quê
yên ả… Robinson thì khác thế. Ông ta yêu những phòng nghiên cứu tối
tân có đầy đủ dụng cụ khoa học hiện đại; yêu những siêu thị mát mẻ, bóng lộn,
phong phú, đáp ứng đủ mọi nhu cầu thiết thân của đời sống; yêu những đại lộ
thênh thang, những cao ốc chọc trời và những quy hoạch vườn cảnh sạch đẹp,
phẳng phiu, ngay hàng thẳng lối; yêu những tiện nghi ăn, ở, mặc; những bảo hiểm
và an toàn về y tế, ngân hàng, nhân thọ…
Chẳng rõ nhân duyên hoặc do suy
nghĩ thế nào, đột nhiên, Jabindu từ bỏ gia đình, bằng hữu, từ bỏ sự
nghiệp nửa chừng, từ bỏ phố thị và phòng nghiên cứu rồi mất tích nhiều năm
trong những dãy núi hùng vĩ ở
Himalaya. Còn Robinson thì vẫn đắm chìm,
mê man giải mã các nền văn minh cổ xưa qua những dấu vết của các hiện vật và di
chỉ lịch sử bất cứ ở đâu trên thế giới. Bây giờ niềm say mê ấy không còn nữa,
ông đã mệt mỏi lắm rồi.
Hôm kia, thật là ngạc nhiên, Robinson
nhận được thư của Jabindu do một du khách người Mỹ – vốn là sinh viên cũ
của ông- trao lại, sau cuộc hành hương từ Népal và Tây Tạng trở về. Thư
của Jabindu có một đoạn nội dung như sau: “Từ biên giới Népal, theo đường
bộ hiểm hóc, cheo leo lên Tây Tạng, chừng ba trăm ki-lô-mét – đi bằng xe trâu
kéo – sẽ gặp một ngọn núi thơ mộng màu ngọc bích, có một cây đại thụ lá đỏ
chừng hai ngàn tuổi đứng ngạo nghễ một mình… Từ đó, về hướng Tây chừng vài ba
ki-lô-mét, gặp một con suối; bạn cứ đi mãi lên thượng nguồn… Hãy nhìn vào các
vách đá liền lạc kéo dài, chỗ những mặt phẳng nhẵn bóng, nơi nào có những ký tự
thuộc ngữ hệ Pàrkrit cổ; bạn luồn sâu vào một vài hang động: tôi đang ở đấy và
đang thọ hưởng hạnh phúc từ “nền văn minh cổ xưa” của mình. Bạn hãy đến đây,
sau mùa xuân, khi tuyết đã tan, tôi sẽ tặng bạn một bức tranh vô giá được hoạch
đắc từ xứ sở lạc hậu này.”
Cầm lá thư ố vàng và nhàu nát
trong tay, Robinson phân vân với nhiều nghi vấn. Jabindu đã là
một tu sĩ rồi chăng? Và sao lại là một bức tranh? Ông bạn kỳ quặc này trao câu
đố như thế là có ý nghĩa biểu tượng gì? Nó có liên hệ chút nào đến sự bất an và
vô vàn câu hỏi bức xúc hiện nay của ta? Ôi, đã lâu lắm rồi, người bạn Châu Á
ấy: Ông ta có đôi mắt sâu hun hút của những huyền sử, của những vấn nạn triết
học, của những thắc mắc siêu hình cùng những cực đoan tâm linh khi nhìn về nền
văn minh Tây phương tân tiến, mà ông ta coi là quá đỗi hời hợt và còn quá non
trẻ. Ông nói nguyên văn là, một vị- thành- niên tri thức chưa có độ chín! Họ đã
tranh cãi với nhau rất nhiều lần. Và lần nào cũng bế tắc, cùng đường. Ví như Jabindu
nói:
– Nền văn minh của các bạn đã
đi ngược đầu hơn hai nghìn năm kể từ thời Aristote. Ấy là con đường của
lý trí khôn ngoan nhưng chẳng minh triết chút nào. Là lộ trình của điên đảo và
hủy diệt…
– Không. Nền văn minh nào cũng
là sự kế thừa của những thành tựu khoa học. Là chất xám đặc như keo, là sự thai
nghén khổ hạnh của những tế bào não, là tiếp truyền trí tuệ đỉnh cao của loài
người qua nhiều thiên niên kỷ. Chính nguyên nhân đói nghèo, lạc hậu… của Đông
phương các bạn là do tự mãn, do quay lưng với khoa học và còn do coi thường vật
chất nữa… Một kiểu tự mãn tâm linh cố chấp và kỳ quặc!
Jabindu cười
to:
– Tự mãn là đúng- vì nền văn
minh hiện đại của các bạn có nguyên động lực bên trong là dục vọng và bản ngã
chiếm hữu. Đấy là tâm thức sơ khai, gần với bản năng, biểu hiện một loại người
chưa được tiến hóa về tâm linh cho lắm.
Robinson cũng
cười. Lại nhạo:
– Đói nghèo, cơ cực, tối tăm và
bệnh tật… là thực trạng của nền văn minh tinh thần của loại người tiến hóa cơ
đấy.
Jabindu trả
miếng:
– Chiến tranh, hận thù, khủng
bố, bất an, động đất và bão lụt…; bất an giữa các giá trị đức lý, xung đột
giữa các chủ thuyết và rối loạn giữa những ý thức hệ… Tất cả những hiện trạng
đó đưa đến bất hạnh, thống khổ và điêu tàn… Đấy chính là thành quả do nền văn
minh vật chất ưu việt mà các bạn hiến tặng cho loài nguời!
Robinson cười
nhạo:
– Vì là ưu việt nên chúng tôi
có đời sống cao sang, tiện nghi vật chất phong phú và choáng lộn. Còn các
bạn… thì được núi rừng, được thảo nguyên hoang sơ, được các thôn ấp, nhà cửa
tối tăm với gián với chuột với muỗi mòng…; đi đâu cũng thấy phân và rác,
những vũng nước tù đọng…; đến nỗi không có cả một công trình vệ sinh tối
thiểu… Đấy không phải là sống, là đời sống- mà chỉ là cách thức để tồn tại-
của những bộ lạc tiền sử thời còn săn bắt hái lượm…
– Đúng, đúng… Jabindu gật
đầu lia lịa – Nói chung, Đông phương là như thế, nhưng đâu phải là tất cả, bạn
đừng vơ đũa cả nắm! Vì tri túc với cái ăn, cái mặc, cái ở… nên họ mới xuất
sinh được các bậc hiền triết, có sinh hoạt tâm linh phong phú, có đời sống chan
chứa nhân văn, thiên nhiên và tình người; có nội tâm khiết đạm, thanh bình;
không có những cuộc cạnh tranh khốc liệt trên mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội;
không có bóp óc, nặn trán, tính toan chạy theo lợi nhuận, năng suất, bạc tiền
hoặc những mục đích trục vật hư dối ở bên ngoài. Hạnh phúc của họ là ở bên
trong, Robinson!
– Bên trong! Làm gì có cái gọi
là hạnh phúc bên trong nếu không do các điều kiện tối ưu ở bên ngoài quyết
định? Ảo tưởng đấy, Jabindu!
– Nó tự có. Nó có thật,
Robinson! Bạn không thể hiểu nổi đâu!
Robinson vuốt
vuốt mũi, châm chọc:
– Khi nào bí là bạn tung hỏa mù
siêu hình rồi chạy trốn, giỏi lắm!
– Bạn chưa bước vào ngưỡng cửa
lãnh địa của sinh hoạt tâm linh thì nói gì cũng như đối thoại với người điếc.
Bạn gọi nó là siêu hình hay là gì gì thì tùy thích. Còn tôi thấy nó rất thực
tế. Nó là cái thực nhất, Robinson!
Cuộc tranh luận, đấu khẩu
nào cũng đưa đến nhị nguyên, hai đàng cố thủ hai biên: Bên này và bên kia; bên
trong và bên ngoài; vật chất và tinh thần… Người phát triển chiêu thức biến
hóa. Người huân công nội lực tiềm ẩn. Không bao giờ ai chịu thua ai. Không bao
giờ họ chịu ngồi chung một chiếu mạn đàm. Và rồi họ châm chọc nhau, đả kích
nhau rất gay cấn, chua chát nhưng không kém phần thú vị, vui vẻ. Tuy nhiên, Robinson
vẫn luôn cho rằng, Tây phương ưu việt là nhờ phát triển khoa học, nhờ thông
tuệ, nhờ không ngừng tìm kiếm và sáng tạo. Đông phương đói nghèo và lạc hậu…
cần phải mượn chiếc đũa thần khoa học của Tây phương. Cần phải được khai hóa. Jabindu
thì bảo là chúng tôi không cần sự ưu ái của các bạn: Sự khai hóa ngược đời,
ngu ngốc ấy! Trầm tư và thiền định mới là hạnh phúc đích thực của chúng tôi.
Mặc dầu quan điểm đôi bên không
dung hợp được nhưng tình bạn giữa họ với nhau thì thật vô cùng thâm thiết. Cứ
hễ xa nhau là thấy nhớ, như âm với dương. Có một thời hai người còn liên lạc
khắng khít với nhau. Trong lá thư cuối, cách đây hơn mười năm, Robinson cảm
nhận là dường như bạn mình đã có lối thoát, đã có con đường nào đó rất sáng tỏ.
Còn ông, càng đi sâu nghiên cứu các nền văn minh cổ xưa chừng nào thì những lý
luận ngoan cố, phản khoa học của Jabindu càng trở nên thuyết phục. Qua
những kết quả tìm thấy trên những đống tro tàn đổ nát của lịch sử, dù bia mộ bí
mật, chữ viết tượng hình hay các ký hiệu, biểu tượng thần, thánh, người, vật
phức tạp… Robinson đều đi đến một hệ luận chung quyết, một kết quả
giống nhau: Sau cái khuôn võ hào nhoáng của văn minh, thời nào cũng thế, thường
tồn tại những thảm trạng đen tối, những phản ứng phụ nguy hiểm! Cũng như sự
thực của nền văn minh đương đại: Con người ngày nay, ngày càng trở nên máy móc
và tha hóa. Mọi giá trị nhân sinh, mọi nền tảng đức lý đều điên đảo và rệu rã.
Trái tim và tâm hồn của công dân thời đại hạ nguyên tử đã trở nên khô cứng vì
họ phát huy hết công suất tối đa cho cái cỗ máy lý tính. Những tệ trạng xã hội
tung rải mầm độc cho tuổi trẻ và các thế hệ tương lai. Chiến tranh và nạn khủng
bố đe dọa mạng sống của cư dân trái đất. Người ta đã hủy phá thiên nhiên một
cách tàn bạo, không thương tiếc; môi trường của hành tinh xanh bị nhiễm ô, bị
vấy bẩn thối tha do hóa chất và rác thải công nghiệp. Khói, bụi, vi trùng, siêu
vi, khí độc… đầy đặc trong không gian, máu huyết, óc não, trong hơi thở và cả
trong trái tim người! Tất cả đấy không được gọi là sự điêu tàn thê lương của
noạ tính, của hố thẳm, của hủy diệt là gì? Nền văn minh hiện nay- niềm tự hào
của ông- kết quả cuối cùng sẽ bi thảm như thế, như nó đã từng diễn ra trong
lịch sử. Robinson chợt nhớ bạn một cách da diết. Jabindu đã có
lý. Đúng là ông bạn của mình thuộc loại người tiến hóa bậc cao. Bậc thầy siêu
việt. Hay là những tiên tri thời đại?
Lá thư với những dòng chữ vẽ
một địa chỉ mơ hồ, nhưng Robinson có bổn phận phải tìm cho ra. Và ông đã
tìm ra. Những vách đá và những hang động huyền bí, hoang sơ dường như chưa có
vết chân người. Nắng, bụi, mồ hôi, dốc cao, vực sâu… như trò chơi oái ăm,
gian lao muốn thử thách ý chí và nghị lực của Robinson từ ông bạn già
Đông phương tinh nghịch. Từ từ, chậm rãi, Robinson luồn sâu mãi vào các
hang động. Đây rồi! Một hình hài gầy khô như que củi đang tọa thiền trong ánh
sáng nhờ nhờ, nhưng Robinson vẫn nhận ra vóc dáng quen thuộc của Jabindu.
Ông đứng lặng rất lâu. Lẽ nào đây là cứu cánh của kiếp sinh tồn? Lẽ nào đây là
hình ảnh của người đã tìm ra niềm bình an vĩnh cửu? Trong không gian tịch mịch,
lắng đọng… thời gian như lùi lại cả hàng ngàn năm, tri giác ông chợt như khói
như sương, mỏng manh và bất thực. Những ký tự không phải Pàli, không
phải Sanskrit đầy đặc nơi những vách đá cho Robinson hiểu rằng: Jabindu
đã thâm ngộ một điều gì đó rất phi thường ở đây. Có lẽ là một phép luyện tâm
của một nền văn minh cổ xưa nào còn lưu lại chăng?
– Rồi bạn sẽ biết chúng nói gì! Jabindu
đứng lên từ trong bóng tối, phá tan sự yên tĩnh- Chúng là một loại cổ ngữ
pha trộn phức hợp, chưa hoàn chỉnh, sau này thành ngôn ngữ Pàrkrit. Tôi
đã đọc được chúng. Hóa ra là kinh Phật. Nếu muốn nghiên cứu, bạn sẽ có những
tấm dập âm bản tương đối rõ ràng. Này Robinson! Bạn khỏe chứ?
Cả hai ôm lấy nhau, siết chặt. Jabindu
dìu bạn mình đến một hóc hang động có ánh sáng, đốt thêm một ngọn đèn từ mỡ
trâu Yark. Trong không gian yên tĩnh, cổ sơ… Jabindu đãi “người
bạn văn minh” của mình nước mưa và trái cây rừng. Bây giờ, Robinson
mới nhìn thấy rõ Jabindu hơn: Khuôn mặt queo quắp, rắn đanh, gầy ốm,
xương xẩu, tóc râu lún phún muối tiêu…; quàng trên người một tấm vải màu cứt
ngựa quệt thổ hoàng. Đặc biệt là đôi mắt cực sáng, biểu hiện một sức sống nội
tâm mãnh liệt. Trước mặt Robinson là hình ảnh một đạo sĩ sống cách đây
vài nghìn năm. .. Như cổ tích. Như huyền sử…
– Mừng cho bạn đã được bình an! Robinson
đọc được điều đó và cảm thán mở lời.
Jabindu cười
nhẹ:
– Còn hơn thế nữa, Robinson!
Tôi đã không còn bất cứ một câu hỏi nào. Tất cả trí và tâm đều đã trở nên vắng
lặng.
– Tuyệt – Robinson nắm
chặt bàn tay xương xẩu và nhìn sâu vào mắt người đối diện – Hồi xưa, bạn có lý, Jabindu!
Vị sa-môn gật đầu chẳng khiêm
tốn tí nào, rồi lại lắc đầu:
– Bây giờ, không phải là cái
lý, dù hữu lý – mà là cái thực – Robinson!
Robinson tin
bạn mình nói thật, nhưng ông vẫn chưa biết đó là cái gì, bèn nhích tới, có vẻ
chăm chú, rồi hỏi:
– Nó là cái gì? Có phải là hiểu
và biết không, Jabindu?
– Không phải thế. Phạm trù của
cái hiểu và biết rất giới hạn. Nó luôn luôn có điều kiện và có đối tượng… Cái
hiểu và biết ấy là quá khứ, là thời gian và sinh tử, Robinson!
– Tôi có thể chưa hiểu. Vậy nó
có phải là trạng thái không?
– Lại càng không, Robinson!
Trạng thái nào, dù an lạc tuyệt đỉnh, chúng cũng chảy trôi, không có một điểm
tựa thực hữu, chỉ là sự hội tụ mong manh của các năng lượng!
Robinson nhăn
mày:
– Vậy nó là cái gì?
Jabindu trầm
ngâm một lúc rồi nói:
– Dù tôi nói nó là cái gì – thì
cả bạn, cả tôi cũng sẽ mãi đóng đinh chân nhau, không đi ra khỏi cái phạm trù
của hiểu và biết. Chúng ta vẫn bị nó quy định và giới hạn từ khi bắt đầu có
nhận thức. Lý do tôi biên thư mời bạn đến đây cũng vì lẽ đó…
Nói xong, Jabindu bước
tới vách đá, thò tay vào khoảng hở bên trong, lấy ra một bức tranh rất cổ, lồng
trong một khung gỗ đen sì được bọc kỹ lưỡng bằng một tấm da dê rất mịn… Bụi
và màn nhện bám đầy. Vừa lau chùi khung hình, Jabindu vừa nói chuyện:
– Thầy tôi là đệ tử chân truyền
của đức Maha± Kassapa, người đã duy trì mạng sống hơn hai ngàn
năm nay chỉ với một mục đích duy nhất là bảo vệ Tam Tạng trên vách đá,
đồng thời chờ đợi một người đệ tử có căn cơ để trao truyền sở học cùng kinh
nghiệm tâm linh tu chứng. Tôi là người được chọn. Bạn tin hay không tin điều
tôi vừa nói cũng chẳng quan hệ gì! Kinh nghiệm tâm linh tu chứng nhận được từ
thầy, tôi đã trao truyền cho một nhóm đệ tử; hiện giờ họ đều đang ẩn cư, chờ
lúc nào thuận duyên sẽ đi hóa độ nhiều phương. Còn lưu hậu và hoằng truyền kinh
văn thì tôi sẽ trông cậy ở nơi bạn vậy…
– Tôi hiểu rồi. Tất là giải mã
động kinh văn này rồi dịch nó ra tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, in ấn rồi lưu
truyền. Việc ấy tuy khó nhưng không phải không làm được. Bằng hữu của chúng ta
có rất nhiều học giả ưu việt và nhiệt tình. Họ làm việc rất khoa học và rất
nghiêm túc…
– Tôi
cũng tin là như vậy.
– Thế
còn bức tranh này?
Jabindu
dựng bức tranh ở chỗ có nhiều ánh sáng nhất. Tranh gần như là tượng trưng, ấn
tượng hay siêu thực? Trông thì rất cổ xưa mà cũng rất hiện đại. Khó biết chất
liệu giấy. Mực màu thì dường như được mài ra từ các loại ngọc; còn nội dung thì
chúng chìm ẩn, lấp lánh đa sắc với nhiều hình tượng xen lẫn rất khó cảm nhận,
rất khó thông hội…
– Nó là
cái gì? Robinson không đừng được, cất tiếng hỏi.
Jabindu
nở nụ cười như hoa sen hé nhụy:
– Nếu
là gì thì chúng ta lại loay hoay nơi cái chỗ hiểu và biết mất thôi!
Robinson
cười xòa:
– Vậy
tôi sẽ không hỏi nữa, chỉ nghe thôi!
Jabindu
chậm rãi nói:
– Tác
giả bức tranh này là ai thì thầy tôi không nói, nhưng người đã cất giữ như một
bảo vật. Nghe đâu là của một nhà sư nghệ sĩ vô danh, trong cơn thiền định xuất
thần, ông đã làm nên tuyệt tác ấy. Mọi ý nghĩa của nó nằm ẩn sâu hút bên sau
mọi đường nét, mọi sắc màu biểu tượng. Bức tranh phải được quay mặt về hướng
Đông. Chính ánh sáng và dương khí của mặt trời chiếu dọi và tác động
vào thì màu sắc của các loại ngọc mới ửng lên, mới hiển hiện đúng sắc độ cần
thiết, đúng đích thực cái điều mà bức tranh muốn nói… Còn nếu không, bức
tranh chỉ còn là một bức tranh đẹp, cổ xưa và quý báu, vậy thôi… Bạn có thể
bán nó với giá mấy triệu mỹ kim!
Jabindu
dí dỏm. Cả hai cùng cười xòa. Sau đó, Jabindu
cốt giữ một khoảng lặng để cho Robinson săm soi nhìn ngắm bức tranh; và
cũng để cho ông ta tha hồ cảm nhận, tha hồ tưởng tượng…
Thời
gian trôi qua… trôi qua… Robinson phát biểu:
– Thật
lạ lùng. Khi tôi nghĩ nó là một bức tranh phong cảnh thì nó hiện ra đúng là một
bức tranh phong cảnh. Một phong cảnh kỳ tuyệt, dường như là không có thật ở
trên đời: Một cảnh thần tiên nào đó, mà, các nàng Apsara và hoa và lụa
với những vũ điệu dập dờn, uyển chuyển, nhẹ nhàng trong khúc hát nghê thường vô
cùng thanh khiết. Nó thanh khiết… đến từng hạt bụi, hạt sương… Khi tôi nghĩ
nó là một biểu tượng tôn giáo thì tôi thấy cả hằng sa đức Phật và Thánh chúng
giữa những vầng mây ngũ sắc, trên những bảo tọa hoa sen… tất cả đều tịch
lặng, thanh trong và vô nhiễm…
– Đúng
vậy! Jabindu tiếp lời- Còn nữa, còn nhiều nữa… Cứ hễ chúng ta nghĩ là
gì thì nó sẽ hiện ra như thế, đúng như tâm và tưởng của chúng ta vẽ ra. Hằng
trăm, hằng ngàn cảnh… nhưng vẫn chưa hết, chưa đủ… Tuy nhiên, tất cả chúng
chỉ là ảo ảnh, cái do ta tưởng tượng mà nên. Còn cái thực thì bức tranh phải
được quay mặt về hướng Đông. Rồi, cứ thế mà nhìn ngắm, chẳng rõ thời gian bao
lâu, một lúc nào đó, trong một sự tình cờ thế nào đó, cái thực nó sẽ hiện ra, đúng
như mà nó là…
Robinson
trầm tư giây lâu, thắc mắc:
– Tôi
tin lời bạn. Nhưng cái thực ấy để mà làm gì? Nó ích dụng gì cho
tôi, Jabindu?
–
Lúc ấy bạn sẽ không còn một câu hỏi nào nữa. Bạn sẽ khai mở được mọi bế tắc, sẽ
vượt qua phạm trù của hiểu và biết.
Robinson
tự nghĩ: “Nền văn minh tin học hiện nay
dựa trên những ký hiệu, mã số tạo nên muôn trùng sinh hoạt ảo, sẽ rơi vào hố
thẳm, đấy là điều chắc thật. Sự tìm kiếm của thời đại hạ nguyên tử cũng đang
hoang mang, cùng đường. Hạt hay sóng cũng chỉ là năng lượng. Thực thể tối hậu
là gì thì khoa học cũng đang còn ngơ ngác. Điểm tựa cuối cùng của nhân loại vẫn
đang còn là ẩn số. Nhưng bây giờ, ở đây, trong không gian cổ sơ này, sự bình an
của bạn ta rõ là một sự thực không cần bàn luận, lý giải…”
Jabindu
nắm chặt hai vai bạn, lay mạnh:
–
Hãy mang bức tranh này về phương Tây, Robinson! Chỉ với một yêu cầu duy
nhất: Bức tranh phải được quay mặt về hướng Đông. Đấy là sở nguyện của
tôi như để đáp tạ tình bạn cố tri, và đồng thời, tri ân bạn trong công trình
kinh điển gian khổ sau này.
Ông
thở một hơi nhè nhẹ rồi tiếp:
–
Sau khi trao bức tranh, tôi chẳng còn việc gì để làm trên cuộc đời này nữa.
Mong rằng, bạn sẽ được bình an. Đây có thể là lời vĩnh biệt, Robinson!
Lưu
luyến chưa vội từ giã, nấn ná suốt mấy ngày, Robinson mới bùi ngùi cất
bước ra đi. Khi máy bay lên độ cao, nhìn xuống những dãy núi trùng điệp, hoang
sơ, mây, tuyết và khói sương dật dờ… Robinson vẫn chưa tin là vào thế
kỷ hai mươi mốt này, lại còn có những bậc minh triết ở ẩn, khước từ dường như
tuyệt đối ánh sáng văn minh, sống an nhiên và tự tại với nhu cầu thanh bạch của
một cánh chim rừng, dường như không cần một đòi hỏi vật chất nào! Cái gọi là
đời sống tâm linh thuần túy không phải là hoang đường và phi thực!
Khi
đã ở trong ngôi biệt thự cao sang với những tiện nghi hiện đại nhất ở Los
Angeles, Robinson còn mang cảm giác như mình đã từ mấy nghìn năm lịch
sử trở về. Việc đầu tiên là ông mở vội bức tranh huyền bí, kiểm tra lại xem
việc vừa xẩy ra là thực hay là mộng. Bức tranh sờ mó được, là có thực. Nhưng
câu nói cuối cùng của Jabindu thì đúng lời trăn trối có cánh và có lửa.
Chúng hàm tàng nội lực tu chứng cùng nhiều ẩn ý. Việc phiên dịch toàn bộ Tam
Tạng là một công trình dài hơi, nhưng chưa phải là cấp bách. Tìm một vị trí
thích hợp để tôn trí bức tranh là việc quan trọng, ông không thể phụ lòng Jabindu
được. Lại nữa, nó là sự bình an của chính ông.
Mang
bức tranh bước vào thư phòng, Robinson nhìn hướng mặt trời rồi ngắm
nghía. Một lúc, ông bước tới, bước lui, nhìn từng cửa sổ, nhìn các phòng ốc kế
cạnh, nhìn ra vườn… Lát sau, ông lấy la bàn ra xem, đo đạc, tính toán… Robinson
chợt suy nghĩ rất lâu. Ông như đăm chiêu, bất động…
Suốt
hai ngày, Robinson không muốn ăn, không muốn ngủ; ông như ở trong trạng
thái không phải tỉnh, không phải mê. Ngày thứ ba, Robinson vùng dậy, lấy
điện thoại đăng ký máy bay trở lại Népal…
Dường
như Jabindu biết trước việc xảy ra, nên lần này ông đón bạn từ dưới chân
núi với nụ cười rất lạ. Jabindu dìu bạn từng bước một, thân thiện, ân cần…
Nhưng Robinson thì rất nóng vội:
–
Không thể được, Jabindu!
–
Bạn nói cái gì không thể?
–
Bức tranh mà bạn cho, không thể treo ở đâu được cả!
–
Tại sao?
Đợi
cho đến khi trở lại hang động, Robinson mới nói rõ lý do:
–
Này nhé, Jabindu! Đầu tiên, bước vào thư phòng, tôi nhắm hướng Đông để
tôn trí bức tranh. Muốn chính xác phải cần đến la bàn. Nếu đúng là hướng Đông
thì thư phòng phải quay chệch một góc gần ba mươi độ. Cũng được, không sao.
Nhưng nếu thiết kế lại phòng sách thì phòng ngủ, phòng bếp, phòng nghiên cứu,
phòng khách, phòng ăn… hoàn toàn phải thay đổi, phải vẽ lại hết. Giả dụ mất
nửa triệu đô-la để làm việc ấy thì cũng xứng đáng. Thấy được cái thực với giá
ấy thì quá rẻ. Tuy nhiên, khi nhìn ra vườn thì tôi mới thật sự bối rối, hoảng
kinh. Nếu toàn bộ hướng nhà thay đổi thì khu vườn cũng phải thay đổi. Thay đổi
khu vườn của mình, hy sinh được, nhưng ảnh hưởng các căn nhà và những khu vuờn
bên cạnh thì phải làm sao! Có thể thương lượng với họ được không? Rất khó.
Nhưng khó hơn là con đường trước mặt – lối chính vào thành pho – sẽ biến thành
kỳ quặc. Ông thị trưởng, hội đồng kiến trúc sư, các nhà quy hoạch cũng như dân
chúng, không ai cho phép một người bất bình thường hoặc một gã tâm thần làm
việc điên rồ đó…
Nghĩ
lấy hơi một chút, Robinson tiếp tục:
–
Càng nghĩ, tôi càng bàng hoàng, Jabindu! Nếu tôi treo được bức tranh
hướng mặt về phía Đông thì tôi phải thay đổi cả thành phố Los Angeles…
Jabindu
có vẻ ngạc nhiên:
–
Kinh khiếp đến thế cơ à?
–
Chưa đâu, Jabindu! Nếu thay đổi thành phố Los Angeles thì các xa
lộ, đại lộ, đường cao tốc Bắc, Nam, Đông, Tây đều phải thay đổi. Theo đó, cả
nước Mỹ phải thay đổi…
Jabindu
gật đầu, nhíu mày:
–
Đúng là như thế thật!
–
Chưa đâu, Jabindu! Khi bản đồ nước Mỹ mà được vẽ lại thì các sân bay,
những trạm, những ga, những bến tàu sẽ tìm chỗ khác thích hợp hơn. Và thế là sự
rối loạn sẽ như đĩa xúp hùm-bà-lằng. Nước Mỹ sẽ có chiến tranh. Thế giới chiến
tranh: Chiến tranh kinh tế, chiến tranh thương trường, chiến tranh dầu hỏa,
chiến tranh xây dựng, chiến tranh thủ đoạn, man trá và lọc lừa… Nói tóm gọn
một câu: muốn treo được đúng hướng bức tranh quỷ quái này thì phải thay đổi cả
thế giới…
Robinson
thở dài, đưa cả hai tay lên trời như
đầu hàng, bỏ cuộc. Sau đó, trân trọng trả lại bức tranh cho Jabindu:
–
Món quà trân quý này, tôi không có duyên phần, xin hoàn về cố chủ!
Jabindu
hững hờ đặt tay lên bức tranh, nhìn thẳng vào mắt Robinson, cất giọng
trang nghiêm:
–
Cũng tương tự thế là cái thấy, này Robinson! Cái
thấy làm thay đổi thế giới, thay đổi toàn bộ thế giới…
–
Cái thấy ấy… làm sao?
–
Là thay đổi cách nhìn. Nó vượt qua phạm trù của hiểu và biết. Nó chính là
tuệ giác. Cái thấy của tuệ giác…
Robinson
tròn xoe mắt, ngơ ngác với những dấu hỏi tận cuối chân trời. Giọng nói của Jabindu
từ miền chân không của ý tưởng, vẫn an nhiên, trầm ấm rót nhẹ vào tai:
–
Chính tư, tưởng và thức là thủ phạm làm cho cái nhìn của chúng ta bị sai
lệch, đảo điên. Cái hiểu và biết của chúng ta về thế giới, nhân sinh… cũng từ
đó mà phát sanh sai lầm, cục bộ… Triết học, các hệ thống tư tưởng, các ý thức
hệ… từ xưa đến nay đã đưa ra những phán quyết chủ quan, tự thị… đã đẩy nhân
loại đến chỗ tranh chấp, tương tàn và hủy diệt nhau… Nền văn minh cà-rốt, bột
mì, thông tin, điện tử, các giá trị ảo… không giải quyết nổi cái quằn quại,
đau khổ, bấn loạn của tinh thần con người. Phải xoáy cái nhìn vào bên trong,
Robinson! Phải thay đổi cái nhìn ấy: Một cái nhìn trạm nhiên, trong
suốt, vô vi, mới mẻ… không qua phân tích, lý giải, không bị nô lệ bởi tư,
tưởng và thức, này Robinson!
Robinson
có vẻ trầm tư, nhưng vẫn nghe rõ mồn một lời của Jabindu vang vọng giữa
động sâu, như ở ngoài không- thời- gian:
–
Toàn bộ thế giới đang ở nơi tâm trí bạn đều là sản phẩm của tri kiến quá khứ.
Đã cũ kỹ. Đã ám khói. Đã úa vàng. Đã chết rồi. Bạn không dám thay đổi thế giới,
thì vĩnh viễn, không bao giờ có được cái thấy tự tại, giác ngộ, tinh khôi ấy
đâu, Robinson!