Có thể nói văn hóa của nước ta là một pha trộn đáng chú ý giữa nhiều những văn hóa cổ xưa cùng với văn hóa bản xứ của người Việt, ngoài ảnh hưởng khổng lồ nhất của Trung Hoa, văn hóa của người Việt còn chịu sự liên quan của văn hóa phương tây và có các văn hóa riêng biệt của một bộ phận dân tộc thiểu số tại Việt Nam.
Nghệ thuật dân tộc được kết tinh từ mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, vốn vô cùng nhiều loại, phong phú và thu hút.
Âm nhạc cung đình nước ta là một bộ môn âm nhạc truyền thống đặc sắc của nước ta, có giá trị cao về nghệ thuật và khía cạnh lịch sử.
Nhạc cung đình còn xuất hiện trong triều đình của một số đất nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho biết, theo sử sách để lại thì nhạc cung đình được tạo ra tiên vào đời nhà Trần (thế kỷ 14), tuy nhiên mãi đến đời Nguyễn (cuối thế kỷ 18) Nhạc cung đình mới chính thức được phổ biến và phát triển mạnh tại Cung đình Huế.
3. Nghệ thuật biểu diễn dân gian – Văn hóa nghệ thuật dân gian
1. Múa rối nước
Trong kho tàng nghệ thuật dân gian đất nước ta, múa rối nước là một trong các kiểu hình độc đáo nhất. Với sân khấu là mặt nước, diễn viên là các con rối, cộng với đạt kết quả tốt của ánh sáng và pháo hoa đã tạo ra những màn biểu diễn hấp dẫn và huyền ảo.
Theo sử liệu cũ, múa rối nước ở đất nước ta có từ lâu đời. Nghệ thuật múa rối nước là sản phẩm đặc sắc của vùng đồng bằng sông Hồng nước ta với nền văn minh lúa nước.
Mỗi phường múa rối nước đều có những đặc điểm, thế mạnh riêng, tuy nhiên nhìn chung, các tích trò đều gắn với truyền thuyết lâu đời từ thời dựng nước, phản ánh sinh hoạt và lao động của người nông dân trên đồng ruộng với bao lo toan vất vả trước thiên tai, địch hoạ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời.
2. Hát trống quân – Văn hóa nghệ thuật dân gian
Hát trống quân là một sinh hoạt văn nghệ dân gian đậm tính cộng đồng làng xã và là loại hình nghệ thuật đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trống quân Hà thành từ lâu đã nổi tiếng với các địa danh Song Phượng (Đan Phượng), Hát Môn (Phúc Thọ), Khánh Hà (Thường Tín), Quang Minh (Thanh Oai), Hoàng Diệu (Chương Mỹ)… bởi những làn điệu và hình thức sinh hoạt độc đáo.
Đặc điểm của hát trống quân là mỗi bên có từ hai đến năm hoặc bảy người một nhóm. Trong hát trống quân, người tìm ra những câu đối còn được nhắc đên là “người xui”, và họ đóng nhiệm vụ cần thiết trong những lúc thi tài. Những vế đối phải đạt yêu cầu về thanh âm và ngữ nghĩa. Nếu như bên nào không kịp ứng khẩu thì coi như thua và “phần thưởng” cho bên thắng thường là những sản vật quê nhà. Những lần hát giao duyên đó càng về khuya càng mặn mà, sâu xa nghĩa tình và là nhịp liên quan của biết bao cặp nam nữ đến với nhau.
3. Hát chèo tàu – Đan Phượng
Là loại hình nghệ thuật truyền thống của Hà Tây (cũ) có nguồn gốc từ lâu đời và phát triển rực rỡ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII. Hình thức diễn xướng của hát chèo tàu rất độc đáo, chỉ có phụ nữ tham gia biểu diễn, nếu như là đàn ông phải cải trang thành nữ, vừa hát vừa biểu diễn các động tác bơi chèo trên mô hình thuyền rồng và nên được gọi là hát chèo tàu. Trước đây, hội hát chèo tàu 30 năm mới mở một lần để tưởng nhớ tướng công Văn Dĩ Thành, người có công đánh giặc vào thời vua Trùng Quang.
tại thời điểm này, từ 5 đến 7 năm hội hát chèo tàu được mở một lần từ ngày 15 đến 20 tháng Giêng âm lịch tại Lăng Văn Sơn thuộc làng Thượng Hội, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng.
Xem thêm : Kinh nghiệm du lịch Quy Nhơn – Kinh nghiệm du lịch
Xem thêm : Văn hóa là gì ? Khái niệm và ý nghĩa về văn hóa
Tạm kết :
Bài viết trên đây mình vừa giới thiệu sơ lược tới các bạn văn hóa nghệ thuật dân gian là gì ? Cũng như tìm hiểu một vài hình thức nghệ thuật dân gian. Mong rằng bài viết trên đây sẽ giúp các bạn hiểu thêm đôi nét về nghệ thuật dân gian. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết !
Vũ – Tổng hợp, chỉnh sửa (Nguồn tổng hợp : theatre20.com, redsvn.net, … )