Văn học dân gian là một kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống những dân tộc bản địa. Văn học dân gian dùng để miêu tả toàn bộ những sáng tạo chủ yếu thuộc nghệ thuật ngôn từ của nhân dân ta từ thời xa xưa. Nó đã tồn tại và phát triển qua các tầng lớp xã hội và được lưu truyền cho đến ngày nay. Để hiểu rõ hơn về khái niệm của văn học dân gian và các thể loại của văn học dân gian, hãy tham khảo bài viết dưới đây.
1. Văn học dân gian là gì?
Văn học dân gian là văn học được nói hoặc hát trái ngược với văn học được viết lại, mặc dù đã có nhiều văn học dân gian được ghi lại bằng chữ viết. Các nhà văn học dân gian có các mô tả khác nhau cho văn học truyền miệng hoặc văn học dân gian nên không có định nghĩa tiêu chuẩn cho loại hình văn học này. Một khái niệm rộng gọi nó là văn học được đặc trưng bởi sự truyền miệng và không có bất kỳ hình thức cố định nào. Văn học dân gian trước đây còn có các tên gọi khác như văn học truyền miệng, văn học bình dân, tuy nhiên những tên này hiện không được sử dụng.
Văn học dân gian có các chức năng nhận thức như văn học dân gian lưu giữ và lưu truyền những hệ thống tri thức tự nhiên, xã hội,…Bài học gần gũi, sâu sắc về các mặt khác nhau của cuộc sống xung quanh ta. Văn học dân gian giáo dục con người chúng ta tinh thần nhân đạo và sáng sủa. Đó là tình yêu thương đồng loại, đấu tranh không ngừng nghỉ để bảo vệ, giải phóng con người khỏi sự bất công, niềm tin bất diệt vào chính nghĩa. Văn học dân gian có mức giá trị giáo dục thâm thúy vào đạo lí làm người ở đời. Bên cạnh đó, văn học dân gian còn góp thêm phần hình thành những phẩm chất truyền thống cội nguồn tốt đẹp như tình yêu quê hương, giang sơn, đức trung kiên, lòng vị tha, óc thực tiễn hay tính cần kiệm.
Văn học dân gian còn có mức giá trị thẩm mỹ to lớn, góp thêm phần quan trọng để tạo ra bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc bản địa. Ông cha ta mài giũa, chắt lọc từng câu chuyện dân gian để trở thành mẫu mực nghệ thuật và thẩm mỹ làm đẹp để mọi người học tập. Văn học dân gian là một quan niệm thẩm mỹ mang tính cộng đồng, làm toát lên vẻ đẹp và sự giản dị của con người. Ngoài ra, văn học dân gian gắn liền với tầng lớp tri thức và đã trở thành một phần đời sống tinh thần của nhân dân. Có thể nói, sinh hoạt nhân dân là môi trường sống của tác phẩm văn học dân gian, bài hát ru gắn với việc ru con ngủ – một hình thức sinh hoạt gia đình, các truyền thuyết gắn liền với tín ngưỡng, lễ hội,…
2. Các thể loại của văn học dân gian
Thần thoại: là tập hợp những truyện về dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, nhằm mục đích lý giải tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người.
Truyền thuyết: là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là phóng đại, khoa trương, đồng thời nó cũng sử dụng các yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.
Sử thi: là các tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn từ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật và thẩm mỹ làm đẹp hoành tráng, hào hùng kể về một hoặc nhiều biến cố lớn trình làng trong đời sống hiệp hội của các dân cư thời cổ đại.
Truyện cổ tích: là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kỳ, cổ tích phiêu lưu, cổ tích thế sự và cổ tích loài vật. Đây là loại truyện ngắn, chủ yếu kể về các nhân vật dân gian hư cấu nhu tiên, yêu tình, thần tiên, ông bụt,…và thường là có phép thuật hay bùa mê.
Truyện ngụ ngôn: là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu ngặt nghèo, thông qua những ẩn dụ (phần lớn là hình tượng các lòai vật, đồ vật, cây cỏ,…) hoặc chính những yếu tố liên quan đến con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện đời, chuyện người nhằm nêu lên bài học luân lý.
Truyện cười: là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau có tác dụng gây cười, lấy tiếng cười để khen chê và mua vui, giải trí.
Câu đố: là những bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đố bằng ẩn dụ hoặc những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích mục tiêu vui chơi, cũng như rèn luyện tư duy và phục vụ những tri thức về đời sống.
Tục ngữ: là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ ghi nhớ và dễ truyền tai nhau.
Ca dao: là tác phẩm thơ trữ tình dân gian, thường kết phù thích hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm mục đích diễn tả toàn thế giới nội tâm bên trong con người.
Chèo: là tác phẩm kịch hát dân gian, phối hợp những yếu tố trữ tình và trào lộng để ca tụng những tấm gương đạo đức và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội.
Truyện thơ: được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát – thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng.
Vè là tác phẩm tự sự dân gin bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về những yếu tố, sự kiện của làng, của nước mang tính chất thời sự.
Văn học dân gian là một di sản nghệ thuật được truyền qua nhiều thế hệ của dân tộc và cũng là phần nội dung không thể thiếu trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Tác phẩm văn học dân gian rất có ích và đa chức năng, đặc biệt là chức năng thực hành sinh hoạt. Trong bài viết trên đã chia sẻ các thông tin hữu ích để giúp các bạn có thể tìm hiểu rõ hơn về mảng văn học dân gian trong văn học Việt Nam.