Viêm khớp dạng thấp (RA) – Rối loạn mô cơ xương và mô liên kết – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Các thuốc sinh học khác không phải kháng yếu tố hoại tử u (TNF)-alpha có thể được sử dụng để nhắm mục tiêu tế bào B hoặc tế bào T. Những thuốc này thường không dùng kết hợp với nhau.

Rituximab là một kháng thể chống CD 20 làm giảm tế bào B. Thuốc có thể được sử dụng trong các bệnh nhân bệnh dai dẳng. Đáp ứng thường chậm nhưng có thể kéo dài 6 tháng. Đợt điều trị có thể được lặp lại sau 6 tháng. Thường gặp tác dụng phụ nhẹ và cần giảm liều; đồng thời có thể cần dùng phối hợp giảm đau, corticosteroid, diphenhydramine. Rituximab thường dùng giới hạn ở những bệnh nhân không cải thiện sau khi dùng chất ức chế TNF-alpha và methotrexate. Rituximab có liên quan đến bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển, phản ứng niêm mạc, giảm bạch cầu muộn và bùng phát viêm gan B.

Abatacept, kháng nguyên hòa tan độc tế bào Lympho T 4 (CTLA-4) Ig, được chỉ định cho bệnh nhân có VKDT đáp ứng không đầy đủ đối với các DMARDs khác.

Anakinra là một chất thụ thể inetrleukin (IL-1) tái tổ hợp. IL-1 tham gia rất nhiều vào quá trình sinh bệnh của VKDT. Có thể có nhiễm trùng và giảm bạch cầu. Thuốc được sử dụng ít hơn bởi vì nó phải dùng mỗi ngày.

Chất đối kháng yếu tố hoại tử u (TNF)-alpha (ví dụ, adalimumab, etanercept, etanercept, golimumab, certolizumab pegol, infliximab và thuốc biosimilars) làm giảm sự tiến triển của sự bào mòn và giảm bào mòn mới. Mặc dù không phải tất cả các bệnh nhân đều đáp ứng, nhưng nhiều bệnh nhân có cảm giác khỏe nhanh, đôi khi với lần tiêm đầu tiên. Tình trạng viêm thường giảm đáng kể. Những loại thuốc này thường được thêm vào methotrexate để tăng hiệu quả và có thể ngăn ngừa sự phát triển các kháng thể vô hiệu hóa thuốc.

Thông tin gần đây cho thấy sự an toàn trong thai kỳ với ức chế TNF và anakinra. Các thuốc đối kháng TNF-alpha có thể nên dừng lại trước khi phẫu thuật chính để làm giảm nguy cơ nhiễm trùng trước và sau mổ. Etanercept, infliximab, và adalimumab có thể được sử dụng cùng hoặc không cùng với methotrexate. Các chất ức chế TNF có thể gây nguy cơ suy tim và do đó tương đối chống chỉ định trong giai đoạn 3 và giai đoạn 4 suy tim. Nguy cơ u lympho không tăng ở những bệnh nhân VKDT đang điều trị bằng ức chế TNF ( 1 Tài liệu tham khảo về điều trị Viêm khớp dạng thấp (RA) là một bệnh tự miễn hệ thống mạn tính, chủ yếu gây tổn thương các khớp. VKDT gây ra các tổn thương do các cytokine, chemokine… đọc thêm Tài liệu tham khảo về điều trị ).

[ Sarilumab là một chất ức chế interleukin-6 (IL-6). Nó có sẵn cho người lớn có VKDT hoạt động từ trung bình đến nặng đã có đáp ứng không đầy đủ hoặc không dung nạp với một hoặc nhiều DMARDs.

Tocilizumab là một chất ức chế IL-6 và có hiệu quả lâm sàng ở những bệnh nhân đáp ứng không đầy đủ với các thuốc sinh học khác.

Thuốc ức chế là một chất ức chế Janus kinase đường uống (JAK). Nó được chỉ định cho người lớn có VKDT hoạt động từ trung bình đến nặng, có đáp ứng không tốt với một hoặc nhiều chất đối kháng TNF.

Tofacitinib là một chất ức chế JAK được dùng đường uống có hoặc không dùng methotrexate đồng thời cho những bệnh nhân không đáp ứng với methotrexate đơn độc hoặc các thuốc sinh học khác.

Upadacitinib là một chất ức chế JAK được dùng bằng đường uống cho người lớn bị viêm khớp dạng thấp hoạt động vừa đến nặng và không đáp ứng với methotrexate. Các chất ức chế JAK khác có thể sớm trở nên có sẵn ở Mỹ bao gồm filgotinib và peficitinib.

Mặc dù có một số khác biệt giữa các thuốc, vấn đề nghiêm trọng nhất là nhiễm trùng, đặc biệt là bệnh lao tái hoạt động. Bệnh nhân nên được kiểm tra test lao với dẫn xuất protein tinh khiết (PPD) hoặc xét nghiệm phát hiện gamma interferon. Các nhiễm trùng nghiêm trọng khác có thể xảy ra, bao gồm nhiễm khuẩn huyết, nhiễm nấm xâm nhập, và nhiễm trùng cơ hội khác.

Rate this post

Viết một bình luận