Việt Nam (Danh sách theo dõi Nhóm 2)
Chính phủ Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu về xóa bỏ nạn buôn người, nhưng đang có những nỗ lực đáng kể để thực hiện việc này. Các nỗ lực này bao gồm tăng số vụ truy tố tội phạm buôn người, và – lần đầu tiên – chính quyền công bố dữ liệu toàn diện về các vụ buôn người. Chính quyền cũng thông qua Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi), trong đó xóa bỏ các khoản phí môi giới và mở rộng phạm vi bảo vệ đối với người lao động. Chính quyền cũng tăng ngân sách cho hoạt động thực thi pháp luật và trợ giúp nạn nhân, tiếp tục xác định và chuyển nạn nhân đến các dịch vụ hỗ trợ, tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức quy mô lớn ở các cộng đồng có nguy cơ cao về buôn người. Tuy nhiên, nhìn chung chính phủ không thể hiện các nỗ lực cao hơn so với kỳ báo cáo trước, kể cả việc xem xét tác động của đại dịch COVID-19 đến năng lực chống nạn buôn người của chính phủ. Chính phủ không thực thi một cách có hệ thống các thủ tục xác định nạn nhân, và các cán bộ không chủ động xác định nạn nhân buôn người trong các nhóm có nguy cơ cao, chẳng hạn như phụ nữ và trẻ em hành nghề mại dâm, dẫn đến tình trạng số lượng nạn nhân được xác định giảm liên tục trong mấy năm gần đây. Do đó, một số nạn nhân có thể đã phải chịu hình phạt về những hành vi trái pháp luật mà bọn buôn người ép buộc họ phải thực hiện. Trong năm thứ tư liên tiếp, chính phủ báo cáo số vụ việc điều tra và kết án đối với bọn buôn người bị giảm xuống. Do chính phủ đã bố trí đầy đủ nguồn lực cho một bản kế hoạch mà nếu thực thi sẽ bao gồm những nỗ lực đáng kể để đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu nên Việt Nam được miễn việc bị tự động tụt hạng theo quy định của Luật bảo vệ nạn nhân buôn người. Do vậy, Việt Nam tiếp tục nằm trong Danh sách theo dõi nhóm 2 năm thứ ba liên tiếp. Nếu không có việc miễn trừ này Việt Nam lẽ ra đã tụt xuống danh sách Nhóm 3.
CÁC KHUYẾN NGHỊ CẦN ĐƯỢC ƯU TIÊN:
Phối hợp với các tổ chức phi chính phủ và tổ chức xã hội dân sự để rà soát và sửa đổi Luật phòng chống mua bán người và cơ chế chuyển tuyến dịch vụ dành cho nạn nhân buôn bán người cấp quốc gia • Truy tố nghiêm khắc tất cả các hình thức buôn người, kết án và trừng trị bọn buôn người, bao gồm các vụ án liên quan đến lao động cưỡng bức hoặc có cán bộ nhà nước đồng lõa; • Sửa đổi bộ luật hình sự để tội phạm hóa tất cả các hình thức buôn bán nô lệ tình dục trẻ em 16 tuổi và 17 tuổi phù hợp với pháp luật quốc tế. • Tiếp tục đào tạo cán bộ về các văn bản hướng dẫn thi hành Điều 150 và Điều 151 Bộ luật Hình sự, tập trung vào việc xác định và điều tra các vụ án về cưỡng bức lao động và buôn người trong nước, bao gồm cả các vụ việc mà nạn nhân là nam giới. • Phối hợp với các tổ chức xã hội dân sự nhằm cập nhật các văn bản hướng dẫn thi hành về xác định nạn nhân nhằm giảm các rào cản hành chính quan liêu cản trở việc phát hiện nạn nhân và đào tạo các cán bộ liên ngành về việc sử dụng các văn bản hướng dẫn này. • Phối hợp và thực thi có hiệu quả các chính sách giữa các cơ quan chính phủ để xác định và trợ giúp nạn nhân trong số các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như người lao động di cư, người hành nghề mại dâm, lao động trẻ em, công dân Bắc Triều Tiên và đào tạo các cán bộ có liên quan về các thủ tục này. • Chủ động sàng lọc và xác định nạn nhân buôn người trong số phụ nữ và trẻ em gái được phát hiện trong các cuộc kiểm tra đột xuất và thanh tra của cảnh sát đối với các cơ sở kinh doanh tiếp tay cho hoạt động mại dâm. • Từng bước xóa bỏ hoàn toàn tất cả các khoản phí tuyển dụng lao động và các hình thức tuyển dụng lao động có tính chất săn mồi đối với người lao động di cư ra nước ngoài hoặc di cư đến Việt Nam, bằng việc tăng cường các nỗ lực giám sát các công ty tuyển dụng lao động và bên thứ ba môi giới lại lao động, truy tố các mạng lưới môi giới lại lao động có tính chất săn mồi hoặc bất hợp pháp. • Mở rộng đào tạo cho các nhân viên công tác xã hội, các cán bộ có trách nhiệm phản ứng đầu tiên với nạn buôn người và tòa án về các phương pháp tiếp cận lấy nạn nhân làm trung tâm khi làm việc với nạn nhân buôn người, trong đó có sự quan tâm hỗ trợ dựa trên hiểu biết về sang chấn tâm lý. • Tăng ngân sách trung ương cho chính quyền cấp tỉnh để cung cấp các dịch vụ cho nạn nhân buôn người tái hòa nhập cộng đồng. • Thực thi và phân bổ đủ nguồn lực cho kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 2021-2025. • Mời các chuyên gia độc lập xác minh về việc chấm dứt tình trạng lao động cưỡng bức trong các trung tâm cai nghiện ma túy và cung cấp kết quả xác minh.
HOẠT ĐỘNG TRUY TỐ
Chính quyền đã tăng cường các nỗ lực thực thi pháp luật. Điều 150 Bộ luật Hình sự tội phạm hóa hành vi buôn bán người lao động và buôn người vì mục đích tình dục đối với nạn nhân là người đã thành niên và quy định hình phạt tù từ 5 đến 10 năm và phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng Việt Nam (VNĐ) ($867 đến $4.330). Điều 151 tội phạm hóa hành vi buôn bán người lao động và buôn người vì mục đích tình dục đối với nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi và quy định hình phạt tù từ 7 đến 12 năm và phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu VNĐ ($2.170 đến $8.670). Các hình phạt này đủ mức độ nghiêm khắc, và hình phạt đối với hành vi buôn người vì mục đích tình dục tương xứng với các hình phạt quy định cho các tội phạm nghiêm trọng khác như tội hiếp dâm. Điều 150 không thống nhất với pháp luật quốc tế, áp dụng đối với trẻ em từ 16 tuổi đến 17 tuổi và yêu cầu phải có thủ đoạn ép buộc, lừa gạt, hoặc cưỡng bức thì mới cấu thành hành vi buôn người vì mục đích tình dục; do đó, quy định này không tội phạm hóa tất cả các hình thức buôn bán trẻ em vì mục đích tình dục. Theo báo cáo trước đây của xã hội dân sự, điều này dẫn đến sự lúng túng về cách thức xử lý các vụ việc liên quan đến trẻ em 16 tuổi và 17 tuổi, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến buôn bán người lao động, và dẫn đến hậu quả là các nạn nhân bị đối xử như người đã thành niên.
Chính phủ tăng số lượng khởi tố và truy tố đối với tội phạm buôn người, nhưng giảm số vụ điều tra và kết án tội phạm buôn người trong kỳ báo cáo. Trong kỳ báo cáo, tòa án đôi khi phải đóng cửa do đại dịch; tuy nhiên, để bảo đảm rằng các vụ án hình sự – bao gồm các vụ án về buôn bán người – được xét xử kịp thời, Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo các tòa án lên lịch xét xử vào cuối tuần, thuê thêm địa điểm hoặc sử dụng các địa điểm ngoài trời để tổ chức các phiên họp, và ưu tiên mở các phiên tòa sắp hết thời hạn xét xử. Mặc dù có những thách thức nêu trên, lần đầu tiên, chính phủ cung cấp dữ liệu thực thi pháp luật được bóc tách theo loại hình buôn người, bao gồm số vụ điều tra, truy tố, kết án tội phạm buôn người vì mục đích bóc lột lao động và buôn người vì mục đích tình dục. Theo Bộ Ngoại giao và Bộ Công an, nhà chức trách đã điều tra 110 vụ buôn người, bắt 144 đối tượng bị cáo buộc buôn bán người trong kỳ báo cáo, giảm so với 175 vụ buôn người được điều tra trong kỳ báo cáo trước. Năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã khởi tố 180 đối tượng bị tình nghi phạm tội buôn người trong 106 vụ án, tăng so với 152 đối tượng trong 84 vụ án năm 2019, theo Điều 150 và 151. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 161 đối tượng về tội buôn người trong 102 vụ án, tăng so với 156 đối tượng và 91 vụ án năm 2019. Điều này cho thấy số lượng đối tượng bị khởi tố và truy tố về tội buôn người trong kỳ báo cáo tăng lên. Trong số 102 vụ án buôn người được truy tố năm 2020, 79 vụ liên quan đến bóc lột tình dục, 18 vụ liên quan đến lao động cưỡng bức, và 5 vụ còn lại liên quan đến buôn bán người vì mục đích bóc lột lao động hoặc buôn người vì mục đích tình dục. Năm 2020, hệ thống tòa án đã kết án 136 bị cáo (giảm so với 174 bị cáo năm 2019) trong 84 vụ án theo Điều 150 và 151, trong đó bao gồm 71 vụ “bóc lột tình dục”, 10 vụ cưỡng bức lao động và 3 vụ buôn người lao động hoặc buôn người vì mục đích tình dục. Các bản án tuyên phạt bọn buôn người từ dưới 3 năm đến 20 năm tù theo cả Điều 150 và 151. Việt Nam vẫn duy trì tỷ lệ kết án cao và tiếp tục áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với tội phạm buôn người. Các quan chức tỉnh Hà Giang, một tỉnh biên giới phía bắc với những quan ngại về nạn buôn người, báo cáo có sự tăng lên đáng kể số vụ điều tra, truy tố và kết án về tội buôn người, điều này là nhờ tăng cường sự phối hợp liên ngành và hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức phi chính phủ. Theo báo cáo, các cán bộ thực thi pháp luật đã tham gia các vụ điều tra tội phạm buôn người trong khu vực và các hoạt động phối hợp khác thông qua hiệp định song phương và đa phương theo từng vụ việc, số lượng cụ thể các vụ án này chưa được xác định. Chính phủ không nhận được yêu cầu dẫn độ nào liên quan đến các vụ buôn bán người trong năm 2020.
Chính phủ không công bố bất cứ vụ điều tra, truy tố, kết án nào đối với các cán bộ nhà nước đồng lõa trong các vụ buôn người. Các quan chức chính phủ thừa nhận rằng yếu kém về thu thập và quản lý dữ liệu, giám sát các cơ sở kinh doanh tiếp tay cho hoạt động mại dâm, thu thập chứng cứ trong các vụ án buôn người xuyên quốc gia, và giám sát các vụ án buôn người và các xu hướng đang phát triển đã cản trở các nỗ lực của chính phủ trong việc chống nạn buôn người. Tuy nhiên, chính phủ tiếp tục cung cấp các khóa đào tạo về chống buôn người – đôi khi với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và chính phủ nước ngoài – cho các cán bộ nhà nước, bao gồm các cán bộ thực thi pháp luật, các lực lượng bảo vệ biên giới, kiểm sát viên, thẩm phán và các nhân viên công tác xã hội ở cấp huyện, tỉnh và xã.
BẢO VỆ NẠN NHÂN
Chính phủ duy trì các nỗ lực trong việc bảo vệ nạn nhân nhưng xác định và cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân với số lượng ít hơn. Năm 2020, chính phủ công bố đã xác định 121 nạn nhân buôn người, trong đó có 112 người là phụ nữ và 9 người là nam giới; 32 nạn nhân là trẻ em. Điều này cho thấy số lượng nạn nhân được xác định giảm liên tiếp so với các kỳ báo cáo trước (300 nạn nhân được xác định năm 2019, 490 nạn nhân được xác định năm 2018 và 670 nạn nhân được xác định năm 2017). Chính phủ áp dụng các tiêu chí xác định nạn nhân theo Sáng kiến phối hợp cấp bộ trưởng về phòng, chống buôn người khu vực tiểu vùng sông Mê kông và quy trình theo thông tư liên tịch năm 2014 để xác định nạn nhân; tuy nhiên, chính phủ không sử dụng các tiêu chí và quy trình này một cách chủ động hoặc rộng rãi để xác định nạn nhân trong số những người hành nghề mại dâm, những người quá cảnh qua biên giới, người lao động trong ngành ngư nghiệp và chế biến hải sản, người lao động di trú từ nước ngoài trở về và lao động trẻ em. Hơn nữa, các văn bản hướng dẫn kém hiệu quả về quy trình xác định nạn nhân đã ngăn cản bộ đội biên phòng, cán bộ thực thi pháp luật và các cán bộ khác trong việc phát hiện một cách đầy đủ số nạn nhân và cung cấp trợ giúp cho họ. Quy trình xác định nạn nhân vẫn còn quá rắc rối và phức tạp, yêu cầu sự xác nhận của nhiều bộ để nạn nhân có thể chính thức được xác định và hỗ trợ. Ví dụ, mặc dù tiến hành hơn 31.000 cuộc thanh tra các cơ sở kinh doanh tiếp tay cho hoạt động mại dâm – như quán bar karaoke và cơ sở mát xa – nơi những người hành nghề mại dâm có nguy cơ cao trở thành nạn nhân buôn người, nhà chức trách không xác định bất kỳ nạn nhân buôn người vì mục đích tình dục nào trong các cuộc thanh tra nói trên.
Trong số 121 nạn nhân được xác định, 67 người là công dân Việt Nam ban đầu được xác định ở biên giới trên bộ bởi lực lượng bộ đội biên phòng hoặc nhà chức trách Trung Quốc. Trong số 67 người này, 4 người là nạn nhân bị “bóc lột tình dục”, 60 người là nạn nhân của tình trạng “kết hôn bất hợp pháp” – mà có thể sau đó dẫn đến việc buôn bán người vì mục đích bóc lột lao động hoặc buôn người vì mục đích tình dục, nhưng chính phủ không công bố những chi tiết này – và 3 người là nạn nhân của tình trạng “nuôi con nuôi bất hợp pháp”, một trường hợp nằm ngoài định nghĩa quốc tế về buôn bán người. Chính phủ không công bố thêm chi tiết nào về 54 nạn nhân còn lại đã được xác định. Trong số 67 nạn nhân nói trên, nhà chức trách đã chuyển 25 người đến các trung tâm bảo trợ xã hội, 20 người đến cơ quan công an, 19 người đến một tổ chức phi chính phủ và 3 người đến Trung tâm phát triển phụ nữ thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra, trong số 121 nạn nhân được xác định, 84 người đã yêu cầu và nhận được các dịch vụ hỗ trợ do chính quyền và các tổ chức phi chính phủ cung cấp, bao gồm hỗ trợ y tế và tâm lý, trợ giúp pháp lý, chỗ ở tại các trung tâm bảo trợ xã hội và dịch vụ đào tạo nghề. Chính phủ duy trì một quy trình chuyển tuyến nạn nhân chính thức trên toàn quốc; tuy nhiên, chính phủ không chuyển nạn nhân đến các cơ sở bảo vệ nạn nhân một cách có hệ thống do quy trình chuyển tuyến nạn nhân còn khiếm khuyết, ví dụ một số cán bộ địa phương chưa quen thuộc với các quy tắc và chính sách chống tội phạm buôn người, thiếu sự hợp tác giữa các vùng, năng lực hạn chế của các nhân viên công tác xã hội. Mặc dù có những thách thức này, trong suốt kỳ báo cáo, nhà chức trách tỉnh Hà Giang, phối hợp với một tổ chức phi chính phủ, đã thiết lập quy trình chuyển tuyến nạn nhân cấp tỉnh và nâng cao năng lực, đào tạo cho các nhân viên công tác xã hội để cung cấp sự chăm sóc dài hạn và toàn diện cho các nạn nhân buôn người, bao gồm chăm sóc y tế, tâm lý – xã hội, đào tạo nghề, nhà ở, hỗ trợ tài chính và trợ giúp pháp lý; thông qua các quy trình này – lần đầu tiên – nhà chức trách tỉnh Hà Giang đã chuyển tuyến hoặc trực tiếp cung cấp nhiều loại dịch vụ chăm sóc ngắn hạn và dài hạn bao gồm cả hỗ trợ về tài chính cho 35 nạn nhân buôn người.
Ngân sách năm 2020 của chính phủ dành cho trợ giúp nạn nhân là 15,44 tỷ VNĐ ($669.140), tăng so với ngân sách năm 2019 là 13,12 tỷ VNĐ ($568.700). Ngân sách chống buôn người cho các địa phương tăng từ 4 tỷ VNĐ ($173.390) năm 2019 lên 9,8 tỷ VNĐ ($424.790) năm 2020. Chính phủ tiếp tục vận hành 94 trung tâm bảo trợ xã hội hoặc trung tâm dịch vụ xã hội, một số trung tâm do các tổ chức phi chính phủ tài trợ, nhằm trợ giúp các nhóm dễ bị tổn thương, trong đó có các nạn nhân buôn người, trên cả nước, nhưng không có trung tâm nào trong số này cung cấp các dịch vụ dành riêng cho nạn nhân là nam giới hoặc trẻ em. Theo một thông tư có hiệu lực từ tháng 1 năm 2020, các nạn nhân được phép ở tại các cơ sở trợ giúp tối đa là 3 tháng, được trợ cấp tiền ăn và trợ giúp y tế. Theo luật, các nạn nhân buôn người là người nước ngoài được hưởng 4 dịch vụ hỗ trợ: các nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại; hỗ trợ y tế, hỗ trợ tâm lý và trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ báo cáo rằng chính phủ không có các nhân viên công tác xã hội được đào tạo đầy đủ và có kinh nghiệm để cung cấp sự hỗ trợ thích hợp cho các nạn nhân buôn người. Chính phủ vẫn duy trì các tùy viên lao động tại các cơ quan ngoại giao ở những nước có số lượng lớn người lao động di trú Việt Nam theo hồ sơ như Nhật Bản, Malaysia, Ả rập Xê út, Hàn Quốc, Đài Loan và Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE). Các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài này có thể cung cấp nhu yếu phẩm, dịch vụ vận chuyển và chăm sóc y tế cho công dân Việt Nam là nạn nhân của buôn người ra nước ngoài. Các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài đã cho hồi hương 9 phụ nữ người Việt là nạn nhân của bóc lột tình dục và cưỡng ép kết hôn ở Myanmar và Trung Quốc. Pháp luật Việt Nam bảo đảm rằng nạn nhân buôn người có quyền được có đại diện pháp lý; nạn nhân không buộc phải có mặt tại tòa án hoặc khai báo trực tiếp tại tòa án. Các nạn nhân buôn người có quyền được bồi thường theo luật; chính phủ báo cáo rằng các nạn nhân đã yêu cầu bồi thường trong 40 vụ việc trong kỳ báo cáo. Chính phủ không công bố việc cho các nạn nhân nước ngoài các lựa chọn pháp lý thay thế cho việc trục xuất họ tới những nước nơi họ có thể phải đối mặt với sự trả thù hay khó khăn.
Do thiếu sự thực thi có hệ thống các quy trình sàng lọc lấy nạn nhân làm trung tâm trong các cuộc kiểm tra, nhà chức trách có thể đã trừng phạt một số phụ nữ và trẻ em hành nghề mại dâm về những hành vi bất hợp pháp mà bọn buôn người ép buộc họ phải thực hiện. Ngoài ra, nạn nhân là người nước ngoài, bao gồm cả trẻ em, vẫn có nguy cơ bị trục xuất cao mà không có sàng lọc hoặc chuyển họ đến các dịch vụ bảo trợ. Chính phủ khuyến khích các nạn nhân buôn người hỗ trợ trong các quy trình tố tụng tư pháp chống lại bọn buôn người; tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ trước đây báo cáo rằng các nạn nhân thường ít có khả năng khai báo về việc họ bị lạm dụng trong quy trình tố tụng tư pháp do lo sợ rằng họ có thể bị bắt hoặc bị trục xuất vì vượt biên không có giấy tờ. Các tổ chức xã hội dân sự đã từng báo cáo rằng các nạn nhân Việt Nam di cư bằng các cách thức không chính thức hay đã dính líu vào hoạt động bất hợp pháp sau khi trở thành nạn nhân buôn người hoặc đã từng chỉ trích chính phủ Việt Nam đều lo sợ bị nhà chức trách Việt Nam trả thù. Những nạn nhân này ít có khả năng hơn trong việc tìm kiếm sự hỗ trợ, và dễ trở thành nạn nhân buôn người một lần nữa. Các quan sát viên quốc tế trước đây cho biết các quan chức chính phủ thường đổ lỗi cho công dân Việt Nam về tình trạng họ bị bóc lột ở nước ngoài hoặc cho rằng các nạn nhân đã thổi phồng việc họ bị lạm dụng để tránh bị truy cứu về các vi phạm pháp luật xuất nhập cảnh.
PHÒNG NGỪA
Chính phủ đã tăng cường các nỗ lực phòng ngừa tình trạng buôn người. Ban chỉ đạo do một phó thủ tướng làm trưởng ban, bộ trưởng và một thứ trưởng Bộ Công an làm phó ban, tiếp tục chỉ đạo công tác chống buôn người của Việt Nam. Tháng 2 năm 2021, chính phủ thông qua Chương trình phòng, chống buôn bán người giai đoạn 2021-2025. Chính quyền trung ương, bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, tiếp tục tổ chức một số chiến dịch nâng cao nhận thức của công chúng về chống buôn người trên quy mô lớn, nhiều chiến dịch trong số đó được sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài. Là một phần trong các nỗ lực này, Bộ Thông tin và Truyền thông đã gửi tin nhắn nâng cao nhận thức công chúng về chống buôn người đến tất cả 126 triệu thuê bao điện thoại di động ở Việt Nam – đây là lần đầu tiên có một chiến dịch có quy mô trên toàn quốc như vậy ở Việt Nam. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Bộ LĐ, TB và XH), với kinh phí được tài trợ, tiếp tục vận hành đường dây nóng hoạt động 24/24 giờ dành cho nạn nhân của tội phạm, trong đó có nạn nhân buôn người, với các nhân viên trực tổng đài nói tiếng Việt, tiếng Anh và 7 ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Đường dây nóng đã nhận được tin báo về 59 vụ việc có dấu hiệu buôn người trong năm 2020, tăng so với kỳ báo cáo trước; đường dây nóng đã chuyển các vụ việc này cho các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dịch vụ của nhà nước. Bộ LĐ, TB và XH phối hợp với các bộ khác, các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ đã tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức để quảng bá về đường dây nóng trong kỳ báo cáo. Chính phủ không chia sẻ các đánh giá đầy đủ về tình trạng buôn người với công chúng. Trong kỳ báo cáo, Bộ Ngoại giao đã tổ chức tập huấn cho 200 cán bộ ngoại giao và lãnh sự về xác định và trợ giúp nạn nhân trước khi đi nhận nhiệm vụ ở nước ngoài.
Tháng 11 năm 2020, chính quyền thông qua Luật số 69 về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi), cấm thu phí môi giới từ người lao động và mở rộng phạm vi bảo vệ đối với người lao động, trong đó có quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động. Theo báo cáo, các công ty tuyển dụng lao động, hầu hết có liên hệ với các doanh nghiệp nhà nước và các bên môi giới không có giấy phép đã thu phí của người lao động tìm kiếm việc làm ở nước ngoài với mức cao hơn so với mức luật cho phép. Nhiều người lao động bị mắc nợ nần nhiều và có nguy cơ cao hơn bị trở thành lao động cưỡng bức, trong đó có việc bị ép buộc lao động để trừ nợ. Trong năm 2020, Bộ LĐ, TB và XH đã thanh tra 84 doanh nghiệp đưa người lao động đi nước ngoài, xử phạt 32 doanh nghiệp do vi phạm hành chính, rút giấy phép kinh doanh do vi phạm Luật năm 2006 về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Bộ LĐ, TB và XH cũng đã giải quyết 160 trong tổng số 180 đơn khiếu nại về dân sự của người lao động nước ngoài liên quan đến tuyển dụng lao động. Điều này thể hiện các nỗ lực gia tăng của chính phủ so với kỳ báo cáo trước. Trong năm 2019, Bộ LĐ, TB và XH thanh tra 55 doanh nghiệp đưa người lao động đi nước ngoài, xử phạt 21 doanh nghiệp, rút 2 giấy phép và giải quyết 120 đơn khiếu nại về dân sự, tất cả đều liên quan đến lao động di trú. Bộ LĐ, TB và XH phối hợp với 7 tỉnh tổ chức 10 khóa đào tạo cho gần 800 cán bộ cấp huyện và cấp xã để nâng cao kỹ năng tư vấn và chia sẻ thông tin cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Bộ cũng tổ chức 3 khóa đào tạo cho gần 250 nhân viên của các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động đi nước ngoài. Bộ LĐ, TB và XH cũng nâng cao nhận thức về pháp luật lao động và các thực tiễn lao động di cư an toàn cho hơn 470 trung tâm dịch vụ việc làm và doanh nghiệp. Năm 2020, Bộ LĐ, TB và XH tiếp tục đàm phán với chính phủ Ixraen và Cô-oét để ký kết các thỏa thuận hợp tác về lao động. Trong kỳ báo cáo, chính phủ Việt Nam hợp tác với chính phủ Đài Loan thành lập trung tâm tuyển dụng lao động trực tiếp ở Đài Loan để đưa người lao động Việt Nam sang Đài Loan và thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận các khiếu nại của người lao động. Chính phủ cũng duy trì các thỏa thuận về lao động di trú – được ký kết trong kỳ báo cáo trước – với Chính phủ Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất về người lao động giúp việc gia đình và với Chính phủ Nhật Bản về công nhân kỹ thuật lành nghề và thực tập sinh. Chính phủ cũng tiếp tục duy trì Biên bản ghi nhớ về hợp tác với Chính phủ Nhật Bản trong năm 2017 về tăng cường bảo vệ công dân Việt Nam tham gia Chương trình đào tạo thực tập sinh kỹ thuật của Nhật Bản trong bối cảnh vẫn tiếp tục có các báo cáo về tình trạng bóc lột nghiêm trọng người lao động Việt Nam. Chính phủ không nỗ lực nhằm làm giảm nhu cầu mua dâm hoặc du lịch tình dục trẻ em. Chính phủ không thực hiện các biện pháp từ chối nhập cảnh đối với những người Mỹ đã từng phạm tội về tình dục. Tháng 6 năm 2020, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước số 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức.
THỰC TRẠNG BUÔN NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Như đã báo cáo trong 5 năm qua, bọn buôn người bóc lột các nạn nhân trong nước và nước ngoài ở Việt Nam và bóc lột các nạn nhân từ Việt Nam đi ra nước ngoài. Đàn ông và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài để lao động không chính thức hoặc thông qua các công ty tuyển dụng lao động của nhà nước hoặc các công ty tuyển dụng lao động do nhà nước quản lý. Một số công ty tuyển dụng không hồi đáp các yêu cầu trợ giúp của người lao động trong những trường hợp họ bị bóc lột, và một số công ty thu phí quá cao khiến cho người lao động dễ bị rơi vào tình trạng buộc phải lao động trừ nợ. Bọn buôn người biến các nạn nhân trở thành đối tượng của cưỡng bức lao động trong các ngành xây dựng, ngư nghiệp, nông nghiệp, khai thác mỏ, công nghiệp hàng hải, khai thác gỗ và công nghiệp chế tạo, chủ yếu ở Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Lào, Nhật Bản, và một số vùng ở châu Âu và Vương quốc Anh với mức độ ít hơn (ví dụ trong các cửa hàng làm móng và các trang trại trồng cần sa). Ngày càng có nhiều báo cáo về nạn nhân buôn người là người lao động Việt Nam ở châu Âu lục địa, Trung Đông, và trong các ngành công nghiệp hàng hải Thái Bình Dương. Bọn buôn người bóc lột phụ nữ và trẻ em Việt Nam là nạn nhân của tình trạng buôn bán nô lệ tình dục ra nước ngoài; nhiều người bị lừa gạt về các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc, Campuchia, Lào và các nước châu Á khác. Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài để kết hôn theo môi giới quốc tế hoặc để làm việc trong các nhà hàng, cơ sở mát-xa, quán bar karaoke – bao gồm ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Ả rập Xê út, Singapore, và Đài Loan – trở thành đối tượng bị cưỡng bức lao động trong ngành giúp việc gia đình hoặc buôn bán người vì mục đích tình dục. Bọn buôn người ngày càng gia tăng việc sử dụng internet, các trang web chơi game và đặc biệt là mạng xã hội để nhử các nạn nhân, lan rộng hoạt động buôn người, và kiểm soát nạn nhân bằng cách hạn chế họ truy cập mạng xã hội, mạo danh họ phát tán thông tin sai lệch trên mạng. Đàn ông thường dụ dỗ phụ nữ trẻ và trẻ em gái vào các mối quan hệ hẹn hò trên mạng và thuyết phục họ ra nước ngoài, sau đó biến họ thành nạn nhân buôn bán người vì mục đích cưỡng bức lao động hoặc mại dâm. Có báo cáo về việc một kẻ buôn người đăng hình ảnh của mình giống như cảnh sát trên mạng xã hội để chiếm được lòng tin của nạn nhân. Trong quá trình di cư, các băng nhóm tội phạm ở châu Âu và bọn buôn người thường bóc lột nạn nhân Việt Nam dưới hình thức cưỡng bức lao động hoặc bóc lột tình dục trước khi nạn nhân đến được đích cuối cùng. Trong năm 2020, chính phủ Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ báo cáo về tình trạng gia tăng số nạn nhân buôn người là phụ nữ và trẻ em gái người Campuchia quá cảnh Việt Nam để sang Trung Quốc.
Ở trong nước, bọn buôn người đôi khi lại chính là cha mẹ, thành viên trong gia đình, hoặc là các mạng lưới buôn người quy mô nhỏ; những đối tượng này bóc lột đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam – trong đó có trẻ em lang thang và trẻ em khuyết tật – biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động, mặc dù có rất ít thông tin về các vụ việc này. Một nghiên cứu cho thấy 5.6% trẻ em Việt Nam có thể đã từng bị cưỡng bức lao động hoặc bóc lột có dấu hiệu của buôn người hoặc trong bối cảnh di cư, trong đó trẻ em nông thôn và các cộng đồng nghèo đói có nguy cơ đặc biệt cao. Bọn buôn người bóc lột trẻ em và người đã thành niên dưới hình thức cưỡng bức lao động trong ngành may mặc, tại đó công nhân bị ép buộc làm việc thông qua hình thức đe dọa và hăm dọa. Bọn buôn người ép buộc trẻ em hành nghề bán rong và ăn xin trên đường phố ở các trung tâm đô thị lớn. Bọn buôn người biến một số trẻ em trở thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc lao động để trừ nợ trong các nhà máy gạch, các gia đình ở đô thị và các mỏ vàng ở nông thôn do tư nhân khai thác. Bọn buôn bán nô lệ tình dục nhắm mục tiêu vào nhiều trẻ em đến từ các vùng nông thôn nghèo và ngày càng nhiều phụ nữ đến từ tầng lớp trung lưu và khu vực đô thị. Bọn buôn người cũng ngày càng gia tăng bóc lột trẻ em gái thuộc các cộng đồng người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, bao gồm trong ngành mại dâm và giúp việc gia đình, bằng cách lợi dụng tập quán bắt cóc cô dâu truyền thống để thực hiện hoạt động tội phạm của chúng. Trong năm 2020, các vấn đề liên quan đến đại dịch Covid-19 như giảm cơ hội việc làm, hạn chế đi lại, và các yếu tố gây sức ép về kinh tế-xã hội khác đã làm tăng nguy cơ xảy ra buôn bán người, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em ở các vùng nông thôn và vùng dân tộc thiểu số. Khách du lịch tình dục trẻ em – được cho là đến từ châu Á, Vương quốc Anh và các nước khác ở châu Âu, Úc, Canada và Hoa Kỳ – có các hành vi bóc lột trẻ em ở Việt Nam. Chính phủ Bắc Triều Tiên có thể đã cưỡng bức người lao động Bắc Triều Tiên làm việc ở Việt Nam.
Trong các năm trước đây, đã có các báo cáo về việc một số cán bộ nhà nước Việt Nam, chủ yếu ở cấp xã và thôn, đồng lõa và giúp sức cho việc buôn bán hoặc bóc lột nạn nhân bằng cách nhận hối lộ của bọn buôn người, bỏ qua các dấu hiệu cảnh báo buôn người, và moi tiền để đổi lấy việc nạn nhân được đoàn tụ với gia đình.Năm 2019, chính phủ công bố đã chấm dứt tình trạng cưỡng bức lao động đối với người sử dụng ma túy tại 105 trung tâm cai nghiện. Một pháp lệnh năm 2014 yêu cầu việc đưa người sử dụng ma túy vào cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện bắt buộc phải thông qua quy trình tự tố tụng tư pháp; pháp lệnh này cũng quy định người bị giữ trong các trung tâm đó chỉ phải làm việc tối đa bốn giờ một ngày. Đã có các báo cáo trước đây về việc tù nhân, trong đó có những người bất đồng chính kiến về chính trị và tôn giáo, bị cưỡng bức lao động trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành nghề độc hại như chế biến hạt điều.