Giặc Ân là giặc nào? Thánh Gióng có từng đánh giặc Ân? – Trải Nghiệm Sống

Ở châu Âu, kể từ thời của Charles Darwin (1809-1882) coi nguồn gốc loài người không bắt đầu từ Kinh Thánh nữa, khoa học lịch sử và khảo cổ cũng tách khỏi các huyền thoại, thần tích.
Kỷ nguyên Ánh Sáng coi lịch sử là một bộ môn khoa học cần có các bằng chứng, tư liệu cụ thể về khảo cổ, di truyền, niên đại.
Cùng lúc, châu Âu không bác bỏ huyền thoại, các truyện truyền kỳ, dân gian, nhưng chủ yếu coi chúng là đối tượng của niềm tin, và để cho văn nghệ sỹ tiếp tục tưởng tượng, sáng tác mà không cần ai can thiệp, đòi hỏi phải giống với hiện thực ngày nay.
Cách nhìn này có thể giúp ta giải quyết rất nhiều vấn đề dư luận Việt Nam đang gặp phải.
Tìm một huyền thoại chính xác?
Ví dụ trong cuộc tranh luận về Thánh Gióng hiện nay, có tờ báo nói vì ‘Thánh Gióng là nhân vật có tính cách lịch sử’ nên sách giáo khoa phải rất chính xác.
Vấn đề là ở chỗ cho dù có một nhân vật chống ngoại xâm nào đó để tổ tiên người Việt xây dựng thành nhân vật Thánh Gióng hay vị thần ở Sóc Sơn, nhiều chi tiết về sự tích về Thánh Gióng không thể là chuyện lịch sử.
Ta hãy xem qua một số chi tiết.
Về địa lý, chuyện Thánh Gióng đánh giặc Ân, một quốc gia bộ lạc ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, là điều khó xảy ra.
Người Ân không thể và chẳng có lý do chính trị, kinh tế gì để điều quân từ khu vực nay là tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ‘bay qua đầu’ rất nhiều bộ lạc khác xuống tận làng Phù Đổng nằm ở vùng đầm lầy cửa sông Hồng cách xa 2000 km.
Về mặt niên đại, một số bài báo ở Việt Nam nay đã bác bỏ điều phi lý rằng 18 đời vua Hùng kéo dài 2.622 năm (một vua trị vì 145 năm) và đồng ý rằng thời đại này tương ứng với văn hóa đồ đồng Đông Sơn, kéo dài khoảng 400 năm và kết thúc năm 258 trước Công nguyên.
Như thế, sự tích Thánh Gióng, cứ cho là dựa trên chuyện một vị anh hùng có thật thời Hùng Vương thứ 6, hoàn toàn không cùng thời nhà Thương Ân.
Đơn giản là triều đại này đã bị nhà Chu xóa sổ năm 1046 hoặc 1122 trước Công nguyên, vài trăm năm trước khi vua Hùng đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam thời vua Chu Trang Vương (696 – 682 trước Công nguyên).
Nhưng vì sao câu chuyện này cứ kéo dài trong văn hóa và cả giáo dục Việt Nam?
Rất có thể một quan niệm vừa cả tin, vừa cố chấp khiến không ít người muốn áp đặt những chuyện cổ dân gian trở thành ‘khoa học lịch sử’.
Ngoài ra, nhu cầu chính trị khiến người ta muốn tạo dựng ra tính chính danh cho quốc gia bằng cách cố chứng minh một ‘lịch sử dân tộc’từ thời tối cổ kéo dài xuyên suốt và thuần khiết suốt hàng nghìn năm tới nay.
Ví dụ Ấn Độ tự hào có tới 7000 năm lịch sử, Trung Quốc có 5000 năm lịch sử, Việt Nam cũng phải có ít nhất 4000 năm.
Trong khi đó, tại Anh có di tích còn sừng sững từ thời kỳ đồ đá như Stonehenge (5000 tuổi) nhưng không ai nhận rằng lịch sử Anh có từ khi đó.
Thậm chí, trong bài trên ancient-origins .net gần đây, giới khảo cổ tìm ra bằng chứng người tại đảo Isle of Wright đã từng buôn bán lúa mạch với châu Âu và đem phương thức trồng cấy vào Nam đảo Anh cách đây 8000 năm, sớm hơn 2000 năm so với các suy đoán trước đó.
Nhưng cũng không vì vậy mà Anh Quốc đột nhiên tuyên bố họ có lịch sử 8000 năm.
Lịch sử có niên đại tại Anh là 1500 năm trở lại đây, và chủ yếu tính từ cuộc xâm lăng của La Mã sau đó tới các dòng di dân Viking, Anglo-Saxon kéo đến, hòa huyết với người Celt, rồi tới các dòng họ như Lancaster và York tranh giành quyền bính vào thế kỷ 13-14.
Người ta cũng phân biệt lịch sử của các nền văn minh với lịch sử các quốc gia vốn chỉ hình thành về sau này.
Nếu gộp cả các di chỉ đồ đá vào thì tuổi của văn minh Ấn Độ có thể đạt 9000 năm (Indian civilisation ‘9,000 years old’, BBC News 16/02/2002) nhưng các bộ tộc khi đó sống ra sao, tin vào cái gì là chuyện đã quá cách xa xã hội Ấn Độ ngày nay.
Cũng mới đây, người ta phát hiện ra tranh hang động ở vùng quê Sulawesi có tới 40 nghìn năm, cho thấy loài người có khả năng sáng tạo nghệ thuật rất sớm chứ không phải là hội họa Indonesia có tuổi lâu như thế.
Thời xưa rộng lớn hơn ta tưởng
Trên khắp thế giới, các bộ tộc thời cổ đại giao lưu, giao chiến, sáng tạo và di chuyển trên những không gian rộng hơn biên giới quốc gia thời nay và xuyên qua hàng nghìn năm nên phải có các phương tiện đa ngành, từ khảo cổ đến ảnh vệ tinh, nghiên cứu di truyền…rất công phu mới có thể đưa ra một vài kết luận hạn chế nào đó.
Chỉ dựa vào một số huyền thoại hẳn không đủ mà còn dễ ngộ nhận và bị nhãn quan văn hóa thời nay hay chủ nghĩa dân tộc làm sai lệch.
Nhưng thế giới ngày nay cần làm gì với các huyền thoại như Thánh Gióng?
Bỏ đi tư duy chứng thực thô sơ, ta sẽ cảm nhận sâu sắc hơn ý nghĩa của câu chuyện cổ tích này.
Tổ tiên nhóm nay là Việt có va chạm với bộ lạc Ân hay không thực ra không quan trọng nếu ta hiểu đây là biểu tượng của các cuộc chiến người vùng phía Nam Dương Tử chống lại các nhóm du mục từ phía Bắc tràn xuống vốn xảy ra liên tiếp trong lịch sử Đông Á.
Bên Nam Á cũng thế, các bộ tộc thiện chiến hơn từ vùng nay là Trung Á đã kéo xuống chinh phục bình nguyên sông Hằng, tạo ra các sử thi như Mahabharata.
Chuyện Thánh Gióng gắn liền với giai đoạn chuyển từ văn minh thạch khí sang kim khí nên huyền thoại dùng lửa (tre ngà), dùng vũ khí có được khi đã biết rèn sắt (gậy và ngựa sắt) để chống giặc lại rất dễ hiểu và hoàn toàn có logic.
Nhân loại thời xưa có nhiều điều chung hơn ta tưởng, các mô típ về lũ lụt hay đại hồng thủy, các vị thần núi thắng quái vật biển, các cột chống trời, cây thần, ngọn tháp nối đất trời đều có từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia…sang cả Trung Đông, châu Âu và châu Phi.
Sáng nay đi làm qua Leicester Square ở trung tâm London tôi thấy hãng kim cương Swarovski dựng rạp to để quảng cáo cho đôi hài của Cinderella.
Một bài trên BBC News gần đây tìm lại sự tích cô Lọ Lem mà ở Việt Nam là Tấm Cám, ở châu Âu là Cinderella và cho thấy nó có mặt khắp vùng từ Đông Á, xuyên qua Uzbekistan sang tận châu Âu.
Thấy Cinderella đi guốc cao gót kiểu châu Âu gắn kim cương ta không nên bắt cô Tấm phải đổi hài cho sang, cho đúng mà nên lấy làm thú vị về những chuyện cổ tích từ thời rất xa xăm nhưng kết nối chúng ta trong cộng đồng nhân loại.
Đó là cách để các huyền thoại sống mãi theo dòng riêng của nó.
Còn về giặc ÂN thì sao?
Giáo sư Trần Văn Giàu viết
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 1, tờ 3b và 4a), dựa vào sách Lĩnh Nam chích quái, tóm lược chuyện Phù Đổng Thiên Vương như sau : “Đời Hùng Vương thứ sáu, Ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh (nay thuộc Bắc Ninh – NKT), có nhà giàu nọ, sinh được một đứa con trai. Đứa trẻ ấy, mãi đến năm hơn ba tuổi, tuy ăn uống béo tốt, nhưng lại không biết nói cười. Bấy giờ gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, Nhà vua bèn sai Thiên sứ đi tìm người có thể đánh được giặc. Đúng ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng dưng nói được. Nó nhờ mẹ ra mời Thiên sứ vào rồi nói rằng : – Xin cho tôi một thanh gươm, một con ngựa. Vua không phải lo gì nữa. Vua liền ban cho gươm và ngựa. Đứa trẻ liền phi ngựa, vung gươm tiến lên. Quan quân theo sau. Giặc bị đánh tan ở núi Vũ Ninh (núi này, nay thuộc đất Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh – NKT). Chúng sợ, quay giáo đánh lẫn nhau, chết nhiều lắm. Bọn sống sót thì cúi rạp xuống mà lạy, rồi cùng tôn đứa trẻ ấy là Thiên tướng và đến xin hàng. Đứa trẻ phi ngựa lên trời mà đi. Vua liền sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, luôn năm cúng tế. Sau, vua Lý Thái Tổ (làm vua từ năm 1010 đến năm 1028 – NKT) phong làm Xung Thiên Thần Vương”. Lời bàn (Của giáo sư Trần Văn Giàu trong Việt sử giai thoại):Chuyện dân gian hẳn nhiên không phải là lịch sử, nhưng, bất cứ chuyện dân gian nào cũng đều phản ánh một cái lõi có thật nào đấy của lịch sử. Cái lõi có thật ấy, có thể chính là bản thân sự kiện hoặc nhân vật, nhưng có khi chỉ là một ý nguyện chân thành, gởi gắm qua cách nhìn nhận một sự kiện hoặc một nhân vật lịch sử nào đó. Không ai tin rằng một đứa trẻ lên ba lại có thể cưỡi ngựa vung gươm, dẫn đầu quan quân ra trận và đánh tan lũ giặc hung tàn, nhưng bất cứ ai cũng đều tin rằng, hễ có giặc thì hết thảy già trẻ gái trai nước Việt đều hăm hở ra chiến trường. Chí lớn và tài cao chẳng phải lúc nào cũng đi đôi với tuổi tác. Thắng trận rồi, đứa trẻ lẳng lặng bay lên trời, không bàn tâm suy tính công lao, chẳng băn khoăn gì về sự ân thưởng. Mới hay, lòng dân muôn đời vẫn vậy, bình thản lo đại nghĩa một cách vô tư. Người có công tạo lập và gìn giữ thái bình chẳng hề đòi hỏi bất cứ một điều gì cho riêng mình cả. Từ Lý Thái Tổ trở đi, các vua nối nhau đều phong thần cho đứa trẻ quê ở Phù Đổng. Chính hương khói của việc thờ phụng này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra khí phách hiên ngang và sự vô tư lạ kì cho lớp lớp những thế hệ trẻ, vì nước quên than, vì dân quên mình. Kính thay!
Nay ở trên mạng có bác thắc mắc là cái bọn giặc Ân ấy nó ở đâu ra, kể cũng hay!
-Giặc Ân là giặc nào? Bên Tàu xửa xưa có nhà Ân ở vế phía bắc sông Hoàng Hà, quá xa đối với nước Văn Lang ta. Ở bên xứ Khựa có một đền Thánh Gióng ở trấn Võ Ninh, cũng có tích y như bên ta, oánh giặc Ân. Sao thế nhỉ?
Xứ Việt ta từ ngàn xưa, chẳng ai thống kê hết có bao nhiêu thứ giặc. Kể cũng phải, vị trí thuận lợi quá đi mất, như cái nhà mặt phố ở ngã tư Sở. Ai đi qua cũng dòm vào. Mở cửa hàng thì hút khách. Hút khách đông như cháo thí ắt có kẻ ghen ghét mà tính chuyện phá phách.
Quay lại với lịch sử. Lịch sử Việt Nam có một phần gắn với sử Trung Quốc, và ngược lại, sử Trung Quốc có một phần gắn với lịch sử Việt Nam. Tích mẹ Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nhưng “tác giả” của cái bọc ấy, Lạc Long Quân nếu tra gúc-gồ thì Lạc Long Quân phát tích ở phía nam hồ Động Đình (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Bản thân ngay khi xem wiki tiếng Việt về trống đồng cũng thấy trống đồng được các nhà khảo cổ học tìm thấy lung tung cả ở Lưỡng Quảng, nhiều nhất là ở Đông Sơn, Thanh Hóa, nhưng ở Quảng Tây cũng có đến 3 chục cái. Kỳ lạ, là nơi đóng đô của Vua Hùng (Việt Trì, Phú Thọ) lại chẳng đào được cái nào. Lên Phú Thọ thấy biểu tượng chim lạc, rồi trống đồng nhan nhản, chẳng ngượng lắm ru?
Vậy Âu Lạc (Âu Việt và Lạc Việt) có lãnh thổ từ nam hồ động đình vào đến tận Nghệ An ngày nay. Trải qua bao lần loạn lạc, đánh nhau, giặc giã… thì dân cư Âu Lạc mới bị người Hoa Hạ đẩy dần xuống phương Nam như ngày nay.
Một trong những điều minh chứng rõ nhất của việc nước Việt là của người Việt là ở chỗ: người Việt định cư trên vùng có nhiều sông ngòi chằng chịt, nên không gọi Tổ quốc là quốc, mà gọi là NƯỚC. Tôi đi nước ngoài, mai tôi về nước; tôi yêu tiếng nước tôi….
Người Việt Nam không thể bị đồng hóa là như thế, dù bọn nào và muốn đến mấy chăng nữa. Dù 80% ngôn ngữ của tao gốc của chúng mày, nhưng sau 1000 năm vẫn là từ Hán Việt. Bướng ra bướng!
Về cái thời xa xưa đó, Trung Quốc cũng lờ mờ về lịch sử, chẳng cứ gì ta. Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, rồi Thuấn truyền ngôi cho Vũ… mỗi ông sống có đến trăm rưởi hai trăm năm, chẳng lờ mờ sao?
Nôm na rằng, cũng giống như Hùng Vương của ta, cũng là mấy ông tù trưởng của thị tộc, bộ lạc. Nay gọi là vua, nhưng lãnh thổ bé tí ấy mà.
Ân hay là Thương, một nhà trong sử Trung Quốc từ thế kỷ 14 đến 11 trước Công nguyên, chủ yếu là ở đâu đó trong cái tỉnh Hà Nam thuộc Trung Nguyên, không phải là thuộc Hà Nam Ninh (cũ) nhà ta đâu. Cách đây hơn trăm năm người ta đào được nhiều di vật, di chỉ ở An Dương (Hà Nam) thuộc về đời nhà Ân và Thương.
Nguyễn Hiến Lê viết Theo Từ Hải và các bộ sử cũ thì nhà Thương bắt đầu từ khoảng 1766 trước công nguyên và chấm dứt năm 1122 trước công nguyên. Nhưng theo Eberhard (sách đã dẫn) thì những niên đại đã được ghi nhận là sai. Nhà Hạ chỉ dài khoảng 300 năm từ 1800 đến 1500 trước công nguyên (phỏng chừng) chứ không phải từ 2201đến 1760 trước công nguyên, và nhà Thương bắt đầu từ khoảng 1450, chấm dứt khoảng 1050 trước công nguyên
Như vậy từ nhà Thương đến nhà ta khoảng 3000 năm.
Nguyễn Hiến Lê viết tiếp
Chúng ta chỉ biết đại khái rằng vua Thành Thang khi diệt vua Kiệt rồi, khai sáng nhà Thương, quy tụ được nhiều bộ lạc và đất đai nhà Thương gồm các tỉnh Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam ngày nay. Kinh đô mới đầu ở đất Bạc, sau bị các dân tộc du mục ở phía Tây lấn, phải dời chỗ bảy lần, lần cuối cùng tới Ân Khư (khư nghĩa là đồi) ở phía Đông, gần An Dương, đổi quốc hiệu là Ân, và thời đó phải chiến đấu rất thường xuyên với các bộ lạc chung quanh
Hỏi Wiki tiếng Việt thì Hùng Chiêu hay Tiết Liêu hay còn gọi là Lang Liêu vốn nổi tiếng với món bánh chưng bánh dày, được truyền ngôi trở thành Hùng Vương đời thứ bảy, tại ngôi từ 1631 – 1431 trước công nguyên. Vậy thì bố của ông ta, Hùng Vương đệ lục cứ cho là trước đó 4, 5 chục năm, thì so với cái anh nhà Ân trên đây cũng là đúng tầm.
Hỏi anh gúc-gồ mép thì từ Trịnh Châu (thủ phủ tỉnh Hà Nam) đến Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam) đường bộ khoảng 860 km. Không quá khó để giặc Ân tràn xuống đánh dân cư của cụ Lạc Long Quân. Ngày nay chạy ô tô tầm 1 ngày đường cao tốc, hồi đó kéo cả đạo quân một tháng, hai tháng, nửa năm một năm rồi cũng tới nơi.
Nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc
Nhà Thương trong lịch sử
Trung Quốc
Như thế có thể nói địa bàn chiến trường của Đức Thánh Tản dễ thường cũng to ra phết. Ai cũng thừa biết đó là câu chuyện hoang đường. Đức Thánh Tản có thể không chỉ là một người, mà là cả một đạo quân, có không chỉ một mà vài đến nhiều chiến tướng, đã lập công trạng hiển hách chống cái bọn giặc Ân từ phương Bắc tràn xuống.Cũng không nhất thiết Thánh Gióng phải ở sân bay Nội Bài, núi Sóc Sơn bay lên giời, mà ở đâu đó giữa thủ đô Hà Nội to vật vã của chúng ta với cái hồ Động Đình trứ danh kia.
Một trang sử hào hùng như thế trên địa bàn rộng lớn mà ngày nay đã thuộc về nước khác, cũng chẳng tội gì mà bỏ – và dân cư ở mỗi nơi đều cố kể những câu chuyện tương tự để mà tự hào – như những khảo dị của cụ Nguyễn Đổng Chi vậy. Dân Trung Quốc cũng kể chuyện Thánh Gióng âu cũng là lẽ thường tình.
Vì thế, cần khẳng định rằng – dù ai nói ngả nói nghiêng – thì Thánh Gióng vẫn là người anh hùng của ta, của người Âu Lạc. Dù trước đây làng của Đức Thánh có ở đâu thì cũng kệ!
Lịch sử vẫn đang chờ viết tiếp về những Thánh Gióng mới nện bọn tân giặc Ân trên biển Đông!

Rate this post

Viết một bình luận