Hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non” của thi hào R.Tagore
NGUYỄN THỊ THƠM
LỚP ĐH4C1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Giảng viên hướng dẫn
Ths.Phùng Hoài Ngọc
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là đất nước có nền văn học phát triển rực rỡ từ thời cổ đại. Nó đã gây ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nền văn học trên thế giới, đặc biệt là ViệtNam. Nền văn học ViệtNamđã tiếp thu nhiều thành tựu của nền văn học Ấn Độ để sáng tạo ra những cái riêng cho dân tộc mình. Vì vậy, việc học tập nghiên cứu văn học Ấn Độ là rất cần thiết, góp phần phổ biến rộng rãi văn học Ấn Độ vào ViệtNam.
Khi nói đến văn học Ấn Độ, ngoài thành tựu nổi bật là sử thi Ramayana và Mahabharata trong thời cổ đại, chúng ta còn phải khẳng định một đóng góp quan trọng của nền văn học Ấn Độ thời hiện đại qua những sáng tác có giá trị của các nhà văn, nhà thơ Ấn Độ, tiêu biểu là Rabindranath Tagore.
Tagore là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Ông thành công nhiều nhất là lĩnh vực thơ ca. Những sáng tác của ông thường thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Tấm lòng nhân đạo ấy được thể hiện ở nhiều biểu hiện khác nhau. Một trong những biểu hiện của tấm lòng nhân đạo ở Tagore là tình yêu thương trẻ em. Ông đã dành tình cảm thương yêu trân trọng trẻ em. Điều này được thể hiện qua nhiều sáng tác thơ ca của ông. Trong đó có một tập thơ Tagore dành riêng viết về trẻ em. Đó là tập thơ tiếng Ấn với nhan đề là Sisu, tiếng Anh là The Crescent Moon và được dịch sang tiếng Việt là Trăng non.
Hình tượng trẻ em trong tập thơ được ông khắc họa hiện lên với nhiều vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, những ước mơ giản dị mà chân thành sâu lắng. Thông qua hình tượng đó, nhà thơ muốn bày tỏ quan niệm của mình về trẻ em. Hình tượng trẻ em qua ngòi bút giàu tình thương của ông đã để lại ấn tượng tốt trong lòng người đọc. Vì vậy, nghiên cứu đề tài hình tượng trẻ em trong thơ Tagore là rất cần thiết và có ý nghĩa.
Bên cạnh tập thơ “Trăng non” còn nhiều tập thơ khác của Tagore cũng có một số bài viết về trẻ em. Tuy nhiên ở tập thơ “Trăng non” thì hình tượng trẻ em được tác giả khắc họa đầy đủ và rõ nét nhất. Mặt khác, do hạn chế bởi nhiều vấn đề mà người viết không thể đi vào tìm hiểu hình tượng trẻ em rải rác ở các tập thơ khác. Vì vậy, người viết chỉ có thể quan tâm đến vấn đề hình tượng trẻ em trong tập “Trăng non” của Tagore. Trên đây là lý do người viết chọn đề tài “Hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non” của nhà thơ Tagore.
II. Lịch sử vấn đề
Ở ViệtNam, hầu hết những sáng tác của Tagore từ tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch đến thơ đều được nhiều dịch giả và giới phê bình, nghiên cứu văn học quan tâm, đặc biệt là thơ.
Tagore thành công nhiều nhất ở lĩnh vực thơ ca. Ông đạt được giải thưởng Nobel văn học năm 1913 với tập Thơ Dâng (Gitanjali). Tập Thơ Dâng ra đời khẳng định tài năng ngày càng mạnh mẽ của Tagore. Nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tagore lần lượt ra đời, chẳng hạn như “Chất trữ tình – triết lí trong Thơ Dâng” của tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh, “Một số đặc điểm nghệ thuật thơ tình Tagore qua hai tập “Người làm vườn” và “Tặng phẩm của người yêu”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Bích Thúy, “Thi pháp thơ Tagore”- chuyên đề sau đại học của giáo sư Lưu Đức Trung… Bên cạnh đó, còn có một số bài tiểu luận, bài viết trên các báo cũng nghiên cứu về thơ Tagore. Chẳng hạn như Nguyễn Thị Bích Thúy với “Chất trí tuệ – điểm sáng thẩm mỹ trong thơ Tagore”- Tạp chí văn học số 4/1994.
Riêng tập thơ “Trăng non” – Tagore dành riêng viết về trẻ em – cũng có một vài công trình nghiên cứu. Đa số những công trình này đều đề cập đến nghệ thuật trong tập thơ. Điển hình như đề tài “Nghệ thuật tương phản trong Trăng non” của Nguyễn Thị Thu Hương, “Không gian nghệ thuật trong Trăng non” của Trần Thị Thanh…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả sẽ giúp người viết có được sự định hướng ban đầu. Trên cơ sở đó, người viết sẽ đi vào nghiên cứu cụ thể và trọn vẹn tập thơ “Trăng non” để làm nổi bật vấn đề người viết cần đề cập. Đó là vấn đề hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non”.
Tập thơ “Trăng non” được in trong “R. Tagore– tuyển tập tác phẩm”- tập 2 của Nhà xuất bản Lao Động- Trung tâm văn hóa Đông Tây- là đầy đủ và trọn vẹn nhất. Người viết sẽ dựa vào bản dịch thơ này để đi vào tìm hiểu hình tượng trẻ em.
Vấn đề hình tượng trẻ em trong tập “Trăng non” chưa được giới nghiên cứu đi sâu tìm hiểu. Nó chỉ được nhắc đến thông qua việc tìm hiểu nội dung khái quát của tập “Trăng non” như trong quyển “Văn học Trung Quốc, văn học Ấn Độ”- trường Cao Đẳng Sư Phạm Nghệ An. Hoặc nó chỉ được nhắc đến như một biểu hiện của tấm lòng nhân đạo trong Tagore như trong giáo trình “Văn học Ấn Độ” của Lưu Đức Trung đã nhắc đến.
Dù chưa đi sâu nghiên cứu nhưng những ý kiến, những định hướng của các tác giả về hình tượng trẻ em trong tập “Trăng non” sẽ là những gợi ý quan trọng, giúp đỡ rất nhiều cho tôi trong việc nghiên cứu đề tài này. Tất cả những công trình sẽ là cơ sở để tôi đi vào tìm hiểu hình tượng trẻ em trong tập thơ. Trên cơ sở thành tựu của những người nghiên cứu trước, tôi sẽ tiếp thu có hệ thống và chọn lọc những ý kiến đó để tiếp tục đi sâu tìm hiểu làm rõ quan niệm của nhà thơ thông qua việc khắc họa hình tượng trẻ em.
Với đề tài “Hình tượng trẻ em trong tập thơ Trăng non của nhà thơ R. Tagore”, tôi đi vào tìm hiểu một cách cụ thể về hình tượng trẻ em. Hình tượng ấy được tác giả khắc họa như thế nào, mang những nội dung ý nghĩa gì, giá trị nghệ thuật của hình tượng này ra sao. Có thể nói ở đề tài này, hình tượng trẻ em được nghiên cứu là nhân vật chính, chi phối toàn bộ tập thơ “Trăng non”. Vì vậy, việc chọn hình tượng trẻ em trong thơ “Trăng non” là đối tượng nghiên cứu. Cùng với việc đi sâu tìm hiểu nó, tôi hi vọng rằng hình tượng trẻ em được tác giả Tagore khắc họa nên với bao tâm huyết và tình cảm yêu thương trong tập “Trăng non” sẽ được trình bày trọn vẹn và sâu sắc hơn nữa.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non” của nhà thơ Tagore. Vì vậy đối tượng nghiên cứu ở đây tập thơ “Trăng non” của nhà thơ Tagore.
2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Hình tượng trẻ em trong tập thơ Trăng non của nhà thơ R. Tagore”, luận văn chỉ khảo sát sâu vào tập thơ “Trăng non” của nhà thơ Tagore do nhiều dịch giả dịch, chẳng hạn như: Cao Huy Đỉnh, Đào Xuân Quý, Phạm Hồng Nhung và Phạm Bích Thủy, Lưu Đức Trung. Tất cả được in trong “R. Tagore – tuyển tập tác phẩm” gồm hai tập (Nhà xuất bản Lao Động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây” giới thiệu).
Luận văn sẽ khảo sát toàn bộ tập thơ “Trăng non” của Tagore để thấy được hình tượng trẻ em được tác giả khắc họa như thế nào. Bên cạnh đó, luận văn sẽ đi sâu vào khảo sát chuyên biệt quan niệm của Tagore và những đặc sắc nghệ thuật của hình tượng trẻ em thông qua một số bài tiêu biểu trong tập thơ như bài “Mây và Sóng”, “Trên bờ biển”, “Món quà”, “Người phán xử”, “Bờ bên kia”…
IV. Mục đích nghiên cứu
Tagore là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Ấn Độ được nhiều người biết đến. Những sáng tác của ông, nhất là ở lĩnh vực thơ ca, đã góp phần làm phong phú cho nền văn hóa Thế giới nói chung và Ấn Độ nói riêng. Và ít nhiều những sáng tác ấy cũng ảnh hưởng đến thơ ca Việt Nam. Vậy nên việc nghiên cứu “hình tượng trẻ em trong tập thơ Trăng non của nhà thơ R.Tagore” của người viết nhằm:
Trước hết, những sáng tác của Tagore thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông. Nghiên cứu hình tượng trẻ em để thấy được tấm lòng nhân đạo của Tagore được biểu hiện thông qua việc khắc họa hình tượng trẻ em với đầy lòng thương yêu và quý mến của nhà thơ. Thông qua việc khắc họa hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non”, Tagore muốn thể hiện một quan niệm của mình về trẻ em, đồng thời ông còn muốn nhắn nhủ các bậc làm cha làm mẹ phải hiểu biết trẻ em, phải yêu thương và quí trọng trẻ em. Vì vậy, việc nghiên cứu hình tượng trẻ em để thấy được quan niệm của nhà thơ về trẻ em và ý thức được ở người lớn lòng thương yêu và quí trọng trẻ em mà nhà thơ đã gửi gắm thông qua hình tượng này.
Mặt khác, nghiên cứu hình tượng trẻ em để thấy được bản chất tốt đẹp của trẻ em. Từ đó giáo dục lòng yêu thương của người lớn dành cho trẻ em. Đồng thời, qua đó còn giáo dục tính trung thực cho trẻ em.
Và cuối cùng kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần thiết thực trong việc phổ biến văn hóa Ấn Độ ở ViệtNamvà phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu giảng dạy văn học Ấn Độ ở các trường trung học.
V. Đóng góp mới của đề tài
“Trăng non” là tập thơ có giá trị, thể hiện được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ. Trước đây, trong các luận văn tốt nghiệp, các bài nghiên cứu khoa học của những người đi trước, cũng chú ý nghiên cứu về tập thơ “Trăng non”. Tuy nhiên, mỗi người nghiên cứu ở một khía cạnh khác nhau của tập thơ. Chẳng hạn như cô Nguyễn Thị Thu Hương với đề tài “Nghệ thuật tương phản trong Trăng non”, Trần Kim Dung với “Yếu tốt huyền ảo trong Trăng non” và Trần Thị Thanh với “Không gian nghệ thuật trong Trăng non”…chưa có ai nghiên cứu về hình tượng trẻ em trong Trăng non”. Mặt khác, hiện nay tuy có công trình nghiên cứu về trẻ em, nhưng họ nghiên cứu trẻ em dưới góc độ xã hội học, tâm lý học…Vì vậy, việc nghiên cứu hình tượng trẻ em dưới góc độ văn học và đặt vào trong tác phẩm cụ thể, hi vọng sẽ là một đóng góp mới của đề tài.
Ở đề tài này, hình tượng trẻ em bộc lộ quan niệm của nhà thơ. Quan niệm ấy sẽ được khai thác khám phá để đem lại cho người đọc thấy được quan niệm của Tagore được thể hiện như thế nào. Từ đó người đọc có thể đồng tình hoặc phủ nhận quan niệm của nhà thơ về trẻ em. Đồng thời với đề tài “Hình tượng trẻ em trong tập thơ Trăng non của nhà thơ R.Tagore”, tôi mong muốn góp thêm một phần công sức ít ỏi của mình để giúp cho việc nghiên cứu và phổ biến nền văn học Ấn Độ vào ViệtNam.
VI. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu và để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, tôi đã sử dụng một hệ thống phương pháp, cụ thể như sau:
- 1. Phương pháp khảo sát văn bản
Hình tượng trẻ em được tác giả khắc họa trong tập “Trăng non” nằm rải rác ở tất cả các bài trong tập thơ. Do đó, với một tập thơ gồm nhiều bài như vậy, tôi cần phải sử dụng phương pháp này để phát hiện hình tượng trẻ em được tác giả thể hiện trong tập thơ.
2. Phương pháp phân tích tổng hợp
Để làm sáng rõ các luận điểm cần triển khai trong bài luận văn, tôi sẽ đi vào phân tích các dẫn chứng bằng một số bài thơ tiêu biểu, sau đó, tôi tiến hành tổng hợp khái quát lại và đi đến khẳng định vấn đề.
3. Phương pháp so sánh
Trong quá trình xác định thành công của nhà thơ Tagore về nghệ thuật khắc họa hình tượng trẻ em trong tập “Trăng non”, cần phải đặt tập thơ này vào trong mối quan hệ với các tập thơ khác của ông hoặc các tác phẩm cùng thời viết về trẻ em để so sánh thì mới thấy được sự sáng tạo của tác giả.
VII. Cấu trúc luận văn
Luận văn được bố cục theo các phần sau:
Phần mở đầu bao gồm các mục: Lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đóng góp mới của đề tài, phương pháp nghiên cứu và cấu trúc luận văn.
Phần nội dung chia làm hai chương.
Chương I: Khái quát văn học hiện đại Ấn Độ.
1. Những đặc điểm văn học Ấn Độ
2. Nhà thơ Rabindranath Tagore
2.1.Cuộc đời một thiên tài
2.2.Chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ Tagore
2.2.1.Tình yêu con người và cuộc sống
2.2.2. Lòng ưu ái phụ nữ
2.2.3. Thơ Tagore về tình yêu nam nữ
2.2.4. Tình yêu hòa bình và tinh thần chống chiến tranh
2.2.5. Tình yêu thương trẻ em
3. Đặc điểm nghệ thuật trong thơ Tagore
Chương II: Hình tượng trẻ em trong tập thơ Trăng non
1.Quan niệm của Tagore về trẻ em
1.1. Tìm hiểu thế giới tâm hồn của trẻ em
1.1.1.Tâm hồn ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của trẻ em
1.1.2.Trí tưởng tượng phong phú của trẻ em
1.1.3.Sự khao khát bước vào khám phá thế giới củe tâm hồn trẻ thơ
1.2. Quan niệm của Tagore về trò chơi trẻ em
1.3. Niềm tin và tình yêu của trẻ đối với cha mẹ
2. Thái độ của người lớn cần có khi đối xử với trẻ em
2.1. Nhận thức của người lớn về trẻ em
2.2. Thái độ đối xử cần có đối với trẻ em
2.2.1. Thương yêu và quí trọng bản chất tâm hồn trẻ em trước giai đoạn trưởng thành
2.2.2. Khoan dung và cảm thông với trẻ em khi họ đang bước vào giai đoạn trương thành
3. Đặc sắc của nghệ thuật xây dựng hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non”
3.1. Nghệ thuật xây dựng hình tượng trẻ em theo thủ pháp tương phản
3.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng trẻ em theo phương pháp hiện thực kết hợp huyền ảo
3.3.Vận dụng thủ pháp tượng trưng, so sánh, ẩn dụ trong việc xây dựng hình tượng trẻ em
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo.
* * *
PHẦN NỘI DUNG
ﻫ ﻫ ﻫ
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VĂN HỌC HIỆN ĐẠI ẤN ĐỘ
1. Những đặc điểm văn học Ấn Độ hiện đại
Sau khi thực dân Anh tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị trên đất nước Ấn Độ, khoảng từ đầu thế kỷ XIX trở đi nền văn học Ấn Độ có những chuyển biến sâu sắc.
Sự chuyển biến đầu tiên của nền văn học hiện đại Ấn Độ bắt đầu từ một phong trào cải cách đạo Hindu mà thủ lĩnh là Ram Mohan Ray (1772 – 1833) – người cha đẻ về tinh thần của đất nước Ấn Độ mới. Mohan Ray đã bảo vệ và cách tân đạo Hindu, gạn lọc các giá trị truyền thống của tôn giáo này, loại trừ các hủ tục tệ lậu, tiếp thu và hình dung nó với những tinh hoa văn hóa Phương Tây đậm tính duy lý. Về văn học và ngôn ngữ, ông dịch các bộ kinh Vedanta và Upanisad ra tiếng Bengali, chủ trương phổ biến văn xuôi vốn đang bị hạn chế. Mohan Ray chính là người đặt nền móng cho nền văn học mới Ấn Độ về mặt tư tưởng.
Sau giai đoạn chuyển tiếp khoảng nửa thế kỷ, nền văn học Ấn Độ mới có những bước tiến lớn lao vào cuối thế kỷ XIX. Văn xuôi ngày càng phát triển. Các tiếng dân tộc địa phương cũng góp mặt vào văn học. Xứ Bengal trở thành trung tâm lớn và tiếng Bengali đi đầu trong các phong trào văn học. Một số tác giả người Ấn Độ bắt đầu viết văn bằng tiếng Anh. Văn sĩ đấu tranh chính trị do Gandhi khởi xướng. Mặt khác, ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân Ấn Độ, nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Liên Xô đã là những nhân tố tác động đến tư tưởng và nội dung tác phẩm của nhiều nhà văn Ấn Độ. Vallahton (1878 – 1958) là nhà thơ Ấn Độ đầu tiên chào mừng Cách mạng vô sản Nga với bài thơ Ngày 7 tháng 11. Một số tác giả đã đi sâu vào vấn đề quan hệ truyền thống và đổi mới, giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế, phân tích những vấn đề đó dưới những góc độ mới.
Nét đáng chú ý trong nền văn học cận hiện đại Ấn Độ là sự tồn tại song song nhiều dòng văn học có những khuynh hướng tư tưởng khác nhau
Bên cạnh dòng văn học mang tính tôn giáo truyền thống, thời kì này ở Ấn Độ còn xuất hiện một số dòng văn học mới. Chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn Tây Âu thế kỷ XIX, trước hết là chủ nghĩa lãng mạn Anh, một dòng văn học lãng mạn nhân đạo cũng xuất hiện ở Ấn Độ từ nửa sau thể kỷ XIX, với các gương mặt tiêu biểu như Madusudan Datta và Bankim Sandra. Tình yêu thiên nhiên và con người, tình yêu đất nước, chủ nghĩa anh hùng mã thượng…là những đề tài ưa thích của các nhà văn này.
Một dòng văn học khác ngày một lớn mạnh là dòng văn học hiện thực phê phán. Các tác giả này một mặt đề cập và phân tích những vấn đề xã hội truyền thống Ấn Độ. Mặt khác họ đã miêu tả đời sống cực khổ về vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân lao động. Đại biểu xuất sắc của trào lưu văn học này là Prem Chand. Một số tác giả trong dòng văn học này ngày càng đi đến lập trường của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Một dòng văn học mới có tính chất chủ đạo và ảnh hưởng quan trọng đến các dòng khác là dòng văn học yêu nước – dân tộc. Qua văn thơ, tác giả khơi dậy tâm hồn Ấn Độ, những giá trị văn hóa truyền thống, lòng yêu nước, sức mạnh tiềm tàng của nền văn hóa cổ kính và niềm tin vào tương lai. Ông Mahatma Gandhi lãnh tụ chính trị vĩ đại của Ấn Độ, người suốt đời đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân dân Ấn Độ, đồng thời cũng là một người viết văn. Nữ thi sĩ Sarojini Naidu được mệnh danh là “con chim họa mi Ấn Độ” đã viết về những vần thơ yêu nước cháy bỏng để phục vụ cho các hoạt động chính trị xã hội của bà.
Tất cả những tinh hoa của các dòng văn học nói trên đã được tổng hợp lại trong một hiện tượng văn học độc đáo mang tầm cỡ quốc tế ở Ấn Độ vào đầu thế kỷ XX. Đó là Rabindranath Tagore. Ở Tagore có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa tâm linh, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực xã hội, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế. Với Tagore, văn học hiện đại Ấn Độ đã chiếm được vị trí xứng đáng trong nền văn học thế giới.
Sau đây chúng ta đi vào tìm hiểu một số nét tiêu biểu về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác và tư tưởng của thi hào R.Tagore
2. Nhà thơ Rabindranath Tagore (1861-1941)
2.1. Cuộc đời một thiên tài
Tagore là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch lớn, một họa sĩ có tài, một nhạc sĩ nổi tiếng, một nhà giáo, một vị hiền triết và một nhà hoạt động xã hội. Đó là thiên tài của Ấn Độ và thế giới.
Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 tại thành phố Cancutta, bang Bengan giàu đẹp. Tagore xuất thân trong gia đình quí tộc Bà la môn, về sau gia đình ông vì chống lại đẳng cấp đó mà bị khai trừ ra khỏi đẳng cấp.
Cha của Tagore là Devendranath Tagore (1817-1905) triết gia và nhà cải cách xã hội nổi tiếng, trở thành lãnh tụ của phong trào Barahma somaj.
Gia đình Tagore có 15 anh chị em ruột. Ông là con thứ 14. Tagore được cha quan tâm và chăm sóc nhiều nhất. Ông thường theo cha đi du lịch khắp đất nước từ rừng núiHimalayacó nhiều thắng cảnh đẹp đến tận bờ biển phía nam lộng gió tràn ngập ánh mặt trời.
Tagore còn theo cha tham dự các cuộc mít tinh, hội thảo của các nhà cải cách xã hội về các đề tài chính trị, thời sự và văn hóa nghệ thuật. Đó là những dịp tốt tạo cho Tagore thêm lòng yêu đất nước, yêu dân tộc mình một cách sâu sắc.
Tagore là cậu bé thông minh, chăm chỉ , hiếu học, ba lần gia đình gửi đến ba trường khác nhau nhưng Tagore không chịu ngồi yên ở một trường nào cả, vì Tagore không chịu nổi cảnh thầy giáo người Anh đánh đập, hành hạ học trò bắt học trò hát những bài hát tiếng Anh vô nghĩa. Tagore chỉ thích tự học. Ông đã tự học lấy tiếng cổ Sanskrit và đọc được các tác phẩm văn học cổ, tự trau dồi ngôn ngữ và chẳng bao lâu đã nổi tiếng là cậu bé giỏi văn Bengan. Tagore cũng tự học tiếng Anh, đến năm 11 tuổi đã dịch được kịch Macbeth của Shakespeare ra tiếng Bengan. Đến tuổi thanh niên Tagore đã thông thạo trong việc dịch thuật thơ ca của Schille, Byron, Browning, Victor Hugo…
Tagore còn chú trọng học hỏi những người xung quanh, những người lao động giúp việc trong gia đình mà ông gọi họ là “Vương quốc của những người đầy tớ” [4; 144]. Tagore thường chăm chú nghe họ kể truyện, ngâm vịnh bản trường ca Ramayana, nghe hát những bài dân ca trữ tình giàu tình yêu con người.
Là cậu bé hay xúc động, khi lớn lên Tagore gặp cảnh đau buồn của gia đình, trong vòng bốn năm trời, người thân cứ lần lượt vĩnh biệt ông (Năm 1902 vợ chết, 1904 con gái thứ hai chết, 1905 cha và anh chết, 1907 con trai đầu chết). Từ đó Tagore càng buồn phiền. Ông thích vào rừng ngồi ngắm nhìn cảnh đẹp của cây cối hoa lá hoặc ngồi trên bờ sông ngắm nhìn dòng nước lững lờ trôi trong buổi hoàng hôn.
Tagore bước vào cuộc đời hoạt động xã hội và chính trị khá sớm. Năm 1877, cha cho qua học luật ở Anh, không thích, ông lại trở về. Từ đó ông lại bắt tay vào hoạt động xã hội và tích cực sáng tác văn học- nghệ thuật, ông say mê hăng hái sáng tác và hoạt động xã hội.
Từ năm 1916 trở đi, Tagore lần lượt đi thăm một số nước trên thế giới như :Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Trung Quốc….Ông đi thăm không phải để du lịch mà là nhiệm vụ con ong đi hút mật ngọt bồi bổ cho dân tộc mình, để ông được “tái sinh mãi mãi” trên quê hương Ấn Độ nghèo khổ và đau thương của mình.
Sau khi đi thăm một số nước về, ông lại lập ra trường Visua Bharati
(Đại học thế giới) vào năm 1922 để thu hút thanh niên quốc tế đến học tập văn hóa Ấn Độ trên tinh thần hòa hợp dân tộc- ông đã từng mong mỏi mỗi sinh viên đều là Visuamana (người rộng rãi) với tư tưởng “cả thế giới là nhà của tôi, tất cả mọi người là bạn của tôi”.
Sự nghiệp văn học nghệ thuật của Tagore rất lớn, ông để lại Ấn Độ và thế giới 52 tập thơ, 42 vở kịch, trong đó vở kịch “Sự trả thù của tự nhiên” (1883), “Lễ máu” (1890) là nổi tiếng hơn cả, 12 tập tiểu thuyết trong đó “Gora”(1808), “Nhà thế giới”(1916) là tác phẩm ưu tú, gần 100 truyện ngắn khác….
Ngoài ra Tagore còn để lại nhiều tập ca khúc. Quốc ca của nước cộng hòa Ấn Độ hiện nay là ca khúc của Tagore và hàng nghìn bức tranh do ông vẽ đang được giữ gìn ở viện bảo tàng.
Ngày 7 tháng 8 năm 1941, Tagore kết thúc cuộc đời mình như kết thúc một bảng hợp tấu hùng hồn vĩ đại- bản hợp tấu mang ý chí và nghị lực của một thiên tài lớn lao.
2.2. Chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ Tagore
Tagore là nhà “nhân đạo chủ nghĩa” (lời Nehru), tinh thần nhân đạo của ông kế thừa truyền thống nhân đạo của nhân dân Ấn Độ qua nền văn học cổ điển từ kinh Veda, Upanisad, cho đến Kalidsa. Ông còn chịu ảnh hưởng chủ nghĩa nhân đạo của giai cấp tư sản và nền văn hóa phục hưng phương Tây.
Tagore tiếp thu những nét tích cực như đòi giải phóng cá tính, đề cao tinh thần tự giác, đấu tranh cho tự do và công bằng bác ái, tin ở sức mạnh con người và tình yêu con người.
Tagore đã kết hợp nhuần nhuyễn các truyền thống nhân đạo cổ kim đông tây rồi biến thành chủ nghĩa nhân đạo riêng của mình.
Tagore ca ngợi tình yêu thương cao cả giữa con người một cách chân thành với lòng thiện, với đức tin, với lòng từ bi của tôn giáo Ấn Độ.
Ông chủ trương muốn giải phóng đất nước, trước hết phải giải phóng con người, giải phóng bản chất tự nhiên của con người, là tinh thần và ý thiện.
Mặc dù trong chủ nghĩa nhân đạo của Tagore còn để lại dấu ấn của tư tưởng duy tâm siêu hình và huyền bí, nhưng nội dung căn bản là lòng yêu nước, yêu nhân dân, đặc biệt là yêu nhân dân lao động cùng khổ- điều đó khiến cho Tagore vĩ đại.
Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa của Tagore được thể hiện sâu sắc và cụ thể trong toàn bộ thơ ca của ông. Sau đây chúng ta lần lượt tìm hiểu nội dung thơ ca của ông.
2.2.1. Tình yêu con người và cuộc sống
Con người đối với Tagore là vĩ đại, là ánh sáng thiêng liêng, là lòng khoan hồng rộng mở, là tâm hồn thanh thản, là tình yêu, là kẻ thù của kêu ngạo và bạo tàn.
Trong tác phẩm triết học Sadhana (có nghĩa là: thực hiện toàn diện, toàn mỹ), Tagore viết “chúng ta không bao giờ có một quan niệm chân chính về con người nếu chúng ta không chứng tỏa tình yêu đối với nó” [4; 64].
Thơ của Tagore chan chứa lòng tin yêu con người. Con người trong thơ ca của ông có lúc chung chung nhưng có lúc cụ thể, có lúc trừu tượng lại có lúc thật rõ ràng. Dù là miêu tả hình ảnh gì, cuối cùng Tagore cũng nói tới con người Ấn Độ nghèo khổ và đau thương của mình.
Tagore quan niệm rằng, trước hết phải giải phóng con người ra khỏi những chổ ẩn náu trong hang động, sau những tượng đá trong bóng tối âm u ở các góc đền. Con người muốn giải thoát ra khỏi khổ đau chỉ có lao động:
“Muốn giải thoát ư,
anh muốn tìm đâu ?
Chính thượng đế cũng vui vẻ
tự đem mình ràng buộc với trần thế
và đời đời quyến luyến chúng ta
Thôi đừng trầm tư mặc tưởng
cất đi cả hương hoa
quần áo rách bẩn, mặc
đến gặp thượng đế thôi
cứ đứng bên Người
trong lao động cùng cực
khi trán đổ mồ hôi”.
(Thơ Dâng, 1913)
Tagore đòi tự do cho tổ quốc, tự do cho nhân dân, cho con người Ấn Độ của ông. Ông mong con người sẽ được sống trong sự hòa hợp và bình đẳng với nhau:
“Trong sân chầu vũ trụ
chiếc lá cỏ bình thường
cùng ngồi chung một mâm
với ánh sáng mặt trời
và sao sáng trong đêm”
(Người làm vườn, 1914)
Tagore tin tưởng rằng “trên quê hương tự chủ”, “hạnh phúc ca khải hoàn” sẽ đến với nhân dân Ấn Độ yêu thương, sẽ không còn tiếng ai oán rên xiết đau khổ nữa.
Tagore vốn là người trầm lặng suy tư, có buồn riêng trong lòng nhưng không sầu muộn rên rỉ bi ai như các nhà thơ lãng mạn tiêu cực khác. Âm điệu buồn trong thơ ông là cái buồn của dân tộc ông. Ông tin rằng con người có thể làm thay đổi cuộc sống ngột ngạt, đói khổ bệnh hoạn của xã hội ông- xã hội thuộc địa. Vì vậy ông vẫn yêu cuộc sống, lạc quan, tin tưởng và hòa mình với cuộc sống.
Ông coi cuộc sống như “li rượu tràn đầy” luôn luôn nồng nàn:
“Người đã tạo cho tôi vô tận, đó là ý thích của người
cái li mảnh khảnh này, người không ngớt rót
vơi đi mà không ngớt lại rót đầy sự sống tươi mới”
Cuộc sống tràn đầy như vậy, nhưng ông tiếc rằng đôi bàn tay của mình quá nhỏ hẹp không đủ sức ôm vào lòng những cái mà cuộc sống cho mình:
“Những của vô tận người cho, tôi chỉ có đôi tay hẹp để mà bắt lấy
Nhưng thời gian qua người còn rót và mãi mãi còn chỗ để rót cho đầy”
Đó là những câu thơ trong bài thơ mở đầu của tập Thơ Dâng, tập thơ mà ông muốn dâng cho đời, cho con người.
Và cũng bởi yêu cuộc sống, nhà thơ Tagore yêu cả cái chết. Chết là một qui luật không ai tránh khỏi, cho nên không cần phải sợ sệt, lo lắng, hoảng hốt trước cái chết. Con người cần bình thản, ung dung bước vào cõi chết như đi trên chiếc cầu bắc qua sông, từ bờ này sang bờ khác.
Trước khi bước vào cõi chết, phải tự xem mình đã làm được gì cho cuộc đời và để lại cái gì mình đã có và làm ra:
“Sẽ có một ngày ngày tử thần đến rõ cửa anh
Anh sẽ có món chi làm tặng vật ?
trước vị khách đến thăm, tôi sẽ đặt
cái li rượu tràn đầy cuộc sống tôi dâng
tôi đâu chịu để khách về với những tay không
tôi sẽ đặt, cuộc đời tôi tất cả
khi tử thần tới đây và rõ cửa”.
(Bài thơ số 90- tập Thơ Dâng)
Nếu không có trách nhiệm với cuộc đời thì cũng khó mà có một thái độ đúng đắn về lẽ sống, chết như vậy.
2.2.2. Lòng ưu ái phụ nữ
Người phụ nữ Ấn Độ cũng có những nỗi đau khổ giống như phụ nữ ViệtNamdưới chế độ phong kiến. Họ là loại người bị chà đạp nhân phẩm triền miên qua nhiều chế độ.
Tagore rất quan tâm đến số phận phụ nữ Ấn Độ và biểu lộ lòng ưu ái sâu sắc. Ông đã dành nhiều trang thơ ca ngợi họ. Trước hết Tagore tìm thấy ở phụ nữ Ấn một sắc đẹp tự nhiên, được đất trời tô thắm và được bàn tay con người tô vẽ thêm:
“Không chỉ riêng thượng đế
đã thêu dệt nên nàng
mà cả loài người nữa
Nhà thơ dùng sợi vàng
dệt nên hình dáng nàng
họa sĩ tô đường nét
cho nàng đẹp vạn đời”
(Người làm vườn, 1914)
Phụ nữ chẳng những chỉ đẹp hình dáng bên ngoài mà còn đẹp cả trong tâm hồn nữa. Tagore thấy “lòng người phụ nữ là ngai vàng”[1;67] như trong truyện ngắn Minu mà ông tả. Tagore thương xót những người phụ nữ đẹp cả sắc và tình nhưng không được hạnh phúc xứng đáng.
Cuộc đời họ cũng giống như một cô gái mù:
“Một buổi sáng trong vườn hoa có một cô gái mù
đến tặng tôi một vòng hoa bọc kín trong lá sen.
Tôi quàng vòng hoa vào cổ, nước mắt rưng rưng.
Tôi hôn nàng và nói: Nàng mù đúng lúc những bông hoa nở,
chính nàng cũng không rõ quà tặng của mình đẹp biết chừng nào”
(Bài thơ số 58-tập Người làm vườn)
Thơ Tagore giàu tính triết lý, “cô gái mù” cần được hiểu là những người phụ nữ vô tư không tự biết mình đã đem cho mọi người bao nhiêu vẻ đẹp và niềm hạnh phúc.
Cuộc đời người phụ nữ Ấn Độ bị kìm hãm bởi cái vòng xiềng đeo ở chân và chiếc khăn trùm mặt, bị ngăn cách giao tiếp với mọi người …Cuộc đời họ cần được giải phóng- đó là nguyện vọng, là tình cảm, là mối quan tâm hàng đầu của nhà nhân đạo chủ nghĩa Tagore
Bài “Nữ quyền” viết năm 1928 có thể xem là “chiến lệnh”, là lời kêu gọi giục giã phụ nữ Ấn Độ xông ra chiến trường nhằm thẳng số mệnh, nhằm thẳng xiềng xích mà đập phá, giành lấy tự do nữ quyền:
“Không đời nào ta lẩn trốn vào buồng đâu
với đôi kiềng chân rụt rè kêu lẻng xẻng
trong bóng tối âm u
Không, ta hiên ngang xông pha vào chốn hiểm nghèo
đầy tuyệt vọng của tình yêu
trong bể cồn cuộn sóng;
Nơi bão tố cuồn say
giật ngay cái khăn trùm lên mặt ta
là phận héo hon của đàn bà
và giữa tiếng chim bể rùng rợn, nhức nhói
giọng ta truyền chiến lệnh vang vang:
anh là của riêng em.”
Đó là “chiến lệnh”của hàng triệu phụ nữ Ấn Độ giành tự do cho tình yêu, hôn nhân, gia đình và tự do trong xã hội.
Tagore không chỉ đấu tranh cho phụ nữ bằng thơ văn mà bằng cả hành động thiết thực của mình nữa.
Khi Gandhi đề xướng cuộc vận động giải phóng phụ nữ và tầng lớp cùng đinh thì Tagore nhiệt tình ủng hộ ngay. Qua tập thơ ngắn Patataca, ông phê phán xã hội khắc nghiệt đối với phụ nữ nông thôn, đòi hủy bỏ tục tảo hôn, xóa bỏ chế độ phân biệt đẳng cấp, đòi tự do hôn nhân.
Bài thơ Raida người phu quét rát bẩn thể hiện chủ trương nam nữ tự do yêu đương và hôn nhân không kể đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn và lên án lễ giáo Bà la môn: Nàng công chúa yêu người phu quét rát bẩn. Thầy tu Bà la môn kết tội nàng vi phạm lễ giáo. Nàng kiên quyết bảo vệ tự do và công lí:
“Thầy tu cứ kêu ngạo thắt dây nữa đi cho thỏa thích, thắt bao nhiêu nút nữa cũng vô ích. Thầy cứ việc chà xát trái tim khắc khổ của thầy nữa đi. Còn tôi, người con gái hành khất, tôi vẫn sung sướng nhận của yêu, nhận quà dính bụi của chồng tôi là người phu quét rát”.
Tagore tích cực đóng góp tiếng nói nghệ thuật vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng phụ nữ bằng trái tim, bằng lòng yêu thương thắm thiết của nhà thơ:
“Hãy lấy tình thương và từ thiện bao la
mà tẩy sạch bao hoen mờ trong lòng trái đất”
2.2.3. Thơ Tagore về tình yêu nam nữ
Thơ tình yêu chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác của Tagore. Thơ tình Tagore thể hiện một quan niệm yêu đương đúng đắn và tiến bộ.
Nhà thơ cho rằng tình yêu là một nhân tính thiêng liêng. Con người, ai cũng phải yêu, vì đó là hạnh phúc, là nhu cầu của sự sống, cần thiết như ánh lửa và mặt trời vậy.
Những kẻ nói không cần tình yêu là kẻ giả dối. Tình yêu đã từng lung lay biết bao trái tim kẻ theo chủ nghĩa khổ hạnh, từng thề thốt không bao giờ yêu và căm ghét tình yêu.
Nhà thơ cảm thấy thỏa mãn là suốt đời đã từng yêu và mong muốn cuối cùng là được nói lên điều đó trước khi bước vào cõi chết:
Cõi đời ơi khi tôi đã chết rồi
thì trong cõi vắng lặng của người
chỉ một lời náy còn lại
“tôi đã từng yêu”
Tình yêu trong thơ Tagore không có cái dung tục tầm thường, không phải thứ tình yêu rầu rĩ, rên xiết, cũng không quá cao siêu, lí tưởng. Tagore tìm sự hòa hợp giữa hai tâm hồn và tự do trong tình yêu.
“Trái tim anh là con chim quen sống cảnh hoang vu
đã tìm được nơi mắt em khung trời của nó”
Nhưng không dễ dàng tìm được tình yêu hòa hợp tâm hồn và sự tự do trong tình yêu
“trái tim anh cũng ở gần em như chính đời anh vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết chọn nó đâu!”
Trong tình yêu nam nữ không hiểu nhau còn vì “những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu”. Nhà thơ cho rằng trong tình yêu sắc đẹp thể xác giống như bông hồng chóng tàn phai, chỉ có tâm hồn đẹp mới bền lâu
“Tôi muốn nắm trong tay sắc đẹp của nàng
Nhưng nó cứ thoát ra
Và trong tay tôi chỉ còn thân thể
Tôi đã mõi mệt quay về thất vọng
Ôi thân thể làm sao chạm được đền bông hoa
Tagore không giống các nhà thơ tình lãng mạn khác. Tình yêu tuy đau khổ nhưng không chịu khóc than rên xiết hoặc hủy hoại thân mình mà vẫn giữ lấy niềm tin tưởng
“Hãy tin tưởng ở tình yêu
Dù nó có đem sầu muộn đến
Đừng đóng kín tình anh”
Và cũng vì:
“Tôi biết rằng cuộc đời này
Dù không chín rộ trong tình yêu
Cũng không phải mất đi tất cả”
2.2.4. Tình yêu hòa bình và tinh thần chống chiến tranh
Tagore đã chứng kiến hai cuộc chiến tranh thế giới. Đất nước Ấn Độ cũng là nạn nhân của hai cuộc chiến ấy. Thực dân vơ vét người và của cải Ấn Độ ném vào hai lò lửa ấy. Nhân dân Ấn Độ chịu bao nhiêu thảm họa.
Khát vọng hòa bình, nổi căm giận chiến tranh đế quốc của Tagore được phản ánh trong thơ một cách nồng nhiệt
Năm 1939, sau khi bọn phát xít phát động cuộc chiến tranh thế giới lần hai, Tagore viết bài thơ “Luồng phá hoại mù quáng cuồng điên”. Bài thơ đó được xem như bản tuyên ngôn gửi các dân tộc nhỏ bé bị nô lệ, kêu gọi họ đoàn kết, đấu tranh ngăn chặn cuộc chiến tranh tàn bạo này
Hãy đến đây các dân tộc trẻ trung
Hãy tuyên bố đấu tranh giành tự do trở lại
Hãy giương cao ngọn cờ của lòng tin
không ai lay chuyển nổi
Hãy lấy đời mình bắc những chiếc cầu tiếp nối
Qua những vực hằn thù trong lòng đất thẳm sâu
Và cùng nhau tiến tới
Trong đoạn kết thúc bài thơ về hòa bình trong tập “Cánh thiên nga”(A flight of swans) Tagore tuyên bố:
“Ta có thể biến đời ta cho lòng tin tưởng
Hòa bình là có thực
Lòng từ thiện là có thực
Sự hòa hợp muôn đời là có thực”
Đó là lý tưởng cao đẹp của nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại Tagore.
2.2.5. Tình yêu thương trẻ em
Hầu như nhà thơ lớn nào cũng vậy, đều dành cho trẻ em những bài thơ hay để ca ngợi và khuyên bảo các em, mong mỏi các em phát huy và giữ gìn bản chất ngây thơ tốt đẹp để phục vụ tổ quốc và xã hội.
Các nhà văn thế giới từ Gorki, Lỗ Tấn, Victor Hugo, Liev Tolstoi…đến Hồ Chí Minh đều có tác phẩm hay viết về trẻ em. Tagore viết thơ cho trẻ nhỏ xuất phát từ tình cảm chân thành của một người ông, người cha, người thầy. Tagore yêu mến và tin tưởng vào tương lai các em và nhắc nhở mọi người hãy giữ chân- thiện- mỹ trong trẻ nhỏ.
Tagore làm thơ cho trẻ em trong một hoàn cảnh buồn đau khi hai con ông lần lượt chết.
Tập Sisu viết năm 1909, đến năm 1915 được dịch ra Anh văn là The crescent moon (Trăng lưỡi liềm, Trăng non hoặc Trẻ thơ).
Tagore chú trọng ca ngợi tính hồn nhiên, trung thực và vô tư của thiếu nhi. Đứa trẻ nào cũng vậy, thích hòa mình với thiên nhiên, thích vui đùa cùng cái thế giới bao la ấy.
“Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Giông tố gặp nhau trên bầu trời không một lối đi
Thuyền bè đắm trên nước không dấu vết
Cái chết ở ngoài kia, nhưng lũ trẻ vẫn đùa chơi
Trên bến bờ những thế giới vô biên
Là hội lớn của bầy con trẻ”
(Trên bờ biển)
Nói về tính chất thật thà trung thực của trẻ em, Tagore kể lại câu chuyện sau đây thật cảm động. Một chú bé không cha đến xin học với đạo sĩ Bà la môn. Đạo sĩ hỏi em ở đẳng cấp nào, nếu thuộc dẳng cấp Bá la môn mới được ngồi học chung với trò cùng đẳng cấp đó. Chú bé không biết, chạy về hỏi mẹ, mẹ nói rằng:
“Ngày trẻ mẹ nghèo, phải đi làm cho nhiều chủ, và con ơi, con đã ra đời trên cánh tay của mẹ JabAllah – một người mẹ không chồng”.
Chú bé trở lại thuật cho đạo sĩ Gotama đúng như vậy. Đạo sĩ ôm chú bé vào lòng và nói:
“Con ơi con là người Bramin ưu việt
Con đã có được cái gia tài cao quí nhất
Đó là lòng trung thực của con”
(Truyện ngắn “Em Ái Chân”)
“Bản hợp đồng cuối cùng” là bài thơ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thơ kể chuyện một người làm thuê, vừa đi vừa rao “nào ai thuê tôi thì đến thuê”. Nhà vua thuê anh bằng quyền lực, tên triệu phú muốn thuê anh bằng tiền bạc, cô gái đẹp muốn thuê anh bằng nụ cười, nhưng anh đều từ chối.
Nhưng đến khi cậu bé thuê anh bằng “hai tay trắng”- không phải quyền lực, của cải và cũng chẳng phải sắc đẹp, anh đã đồng ý:
“Ánh mặt trời long lanh trên cát
Và sóng vỗ rì rào
Một cậu bé ngồi chơi với dăm vò ốc
Cậu ngẩng đầu lên và dường như cậu nhận ra tôi
Cậu nói “Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng”
Và từ khi bàn hợp đồng được kí kết chơi với cậu bé,
Tôi đã trở thành người tự do.”
Tagore trân trọng, chăm sóc trẻ em từ giấc ngủ bình thường đến một ước mơ nho nhỏ.
Bài thơ “Người ăn cấp giấc ngủ” nói lên tình cảm đó:
“Con đang ngủ,
mẹ xuống suối lấy nước trở về, thấy con đã thức,
Đang ngao du bằng cả bốn chân khắp gian phòng
Mẹ bực tức tìm hỏi ai đã ăn cắp giấc ngủ trên đôi mắt bé?
Cho đến khi chiều xuống và chợ đã tan,
Và trẻ con trong làng đã ngồi trên đùi mẹ
thì những con chim đến thét vào tai tên ăn cắp giấc ngủ
rằng: “Bây giờ ngươi sẽ ăn cắp giấc ngủ của ai nào?”
Giọng điệu bài thơ thật ngây ngô, ngộ nghĩnh phù hợp tâm lí trẻ thơ.
Tagore hiểu tình cảm của trẻ thơ đối với cha mẹ, nhất là mẹ- người đã mang nặng đẻ đau, nuôi nấng bé từ lọt lòng, cho nên bé luôn luôn quấn quít bên mẹ, luôn luôn nũng nịu với mẹ, đòi hỏi ở mẹ một tình thương bao la:
“Bé có hàng trăm đống vàng đống ngọc
thế nhưng bé đã đến mặt đất này
như một kẻ ăn xin
không phải tự nhiên mà bé đến
cải trang như vậy
cậu bé ăn xin, trần truồng, yêu mến này
muốn làm ra thảm hại vô cùng
để có thể xin cả kho báu tình thương của mẹ.”
(Bài thơ Đường trẻ-tập Trăng non)
Yêu thương nhưng vẫn phải nghiêm khắc giáo dục khi trẻ có lỗi, và cha mẹ cũng thấy một phần trách nhiệm ở mình:
“Khi tôi phải trừng phạt nó
thì nó càng trở nên một phần của bản thân tôi
và khi tôi làm nó khóc
thì lòng tôi cũng khóc cùng với nó.
Chỉ tôi mới có quyền rầy la và trừng phạt
bởi vì chỉ có ai thương
người đó mới có quyền trừng phạt.”
(Phán xử)
Khi con cái lớn lên tách khỏi cha mẹ thì chúng có bổn phận của chúng. Cha mẹ không thể dùng của cải tiền bạc mua chuộc trái tim chúng, mà phải dùng tình thương yêu bao la và lòng khoan dung độ lượng. Thái độ làm cha mẹ bình thản như ngọn núi đứng nhìn âu yếm dòng sông (bài thơ Món quà-tập trăng non).
3. Đặc điểm nghệ thuật trong thơ Tagore
Thơ giàu chất hiện thực là đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Tagore mà nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến. Tagore không phải là một nhà thơ hiện thực thuần túy nhưng nội dung thơ ca của ông đều phản ánh cuộc đời và sự sống. Mặc dù nội dung ấy được bọc ngoài một lớp từ ngữ, hình ảnh tượng trưng có tính chất tôn giáo, siêu hình thần bí như Chúa Đời, Thượng đế, Thầy, Người…nhưng những câu chuyện, tình tiết, hình ảnh ông sáng tạo ra đều là những chuyện thực, người thực từng xảy ra trên đất nước Ấn Độ nghèo khổ và đau thương của ông.
Nira Chandhuri- nhà phê bình văn học Ấn Độ đã nhận xét: “Thơ tôn giáo của Tagore là thơ sùng kính, không phải là thơ thần bí” [10; 28]. Ông khẳng định rằng: “một người yêu đời như ông (Tagore) không thể là một người thần bí và hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy trong việc tự phủ nhận mình và phủ nhận cõi đời này” [10; 28].
Chất trữ tình và tính lãng mạn dồi dào. Về đặc điểm này, Giáo sư Lưu Đức Trung có nhận xét “Thơ ca của Tagore vừa là bản tình ca tuyệt diệu, vừa là bức tranh thiên nhiên muôn màu. Ông thường tạo ra trong thơ nhiều hình ảnh lung linh huyền diệu, nhiều màu sắc tươi mát, biến nỗi khổ đau thành niềm vui kì lạ của đất nước, của con người “tan ra chảy thành tiếng hát trong trái tim thi sĩ” (Bài 86- Mùa hái quả) [2; 159].
Thiên nhiên là đối tượng được Tagore miêu tả khá nhiều, ông đã để cho thiên nhiên ùa ngập vào trong thơ ca. Tagore vốn là nhà thơ yêu thích thiên nhiên, chủ trương con người hòa đồng với thiên nhiên, với vũ trụ. Người nghệ sĩ là người tình của thiên nhiên và xem thiên nhiên là đối tượng gần gũi như con người “Một chủ thể cả thiên nhiên được biểu hiện hài hòa trong muôn vàn chủ thể khác vô hình” [4; 75], vì vậy ông kêu gọi: “Nhà thơ ơi, anh đã từng thấy trong ánh hồng rực cháy mùa xuân. Ôi, tôi ghi lại tất cả khi đang cất bước lên đường” (bài 41- tập Cánh thiên nga).
Từ ngữ thơ ca Tagore được chọn lọc, điêu luyện và đẹp đẽ, giàu hình ảnh gây cho người đọc nhiều cảm xúc. Đúng như Illia Erenbua (1891-1967) nhà văn Liên Xô đã nhận xét: “Tagore là nhà thơ trữ tình tinh tế vào bậc nhất của Ấn Độ” [2; 156] và “nhà lãng mạn sáng tạo”[4; 75] như Tagore đã tự nhận xét.
Chất trí tuệ là nét đặc trưng khác bộc lộ trong thơ Tagore là: sự tư duy trăn trở tạo cho thơ dồi dào về từ, hàm súc về ý.
Những hình ảnh sinh động, những mẫu truyện thâm thúy, những từ ngữ giản dị trong sáng được ông sử dụng để lí giải một cách minh bạch, sâu sắc, đầy sức thuyết phục về triết lí con người, cuộc đời và sự sống.
Ông để lại cho người đọc một nhận thức đúng đắn về Thượng đế, thiên đường, địa ngục, sự sống và sự chết, đau khổ và hạnh phúc.
Trong thơ ông, không phải bài thơ nào đọc cũng hiểu ngay được, đặc biệt tập Thơ Dâng, có bài phải đọc nhiều lần mới hiểu. Người đọc phải suy ngẫm, đấm mình vào sự liên tưởng, mơ ước, gây niềm tin mới, làm cho trí tuệ bừng sáng. Nhiều đoạn thơ như ngụ ngôn, cách ngôn có tác dụng giáo dục sâu sắc như trong tập thơ “Những con chim bay lạc”.
Thủ pháp biểu hiện tượng trưng:
Để làm nổi bật những đặc điểm trên đây, Tagore thường vận dụng lối biểu hiện tượng trưng như trong kinh thánh, kinh phật, tức là mượn câu truyện để bày tỏ ý kiến và quan niệm của mình. Ông vận dụng linh hoạt những hình ảnh tôn giáo, kể cả thần thoại truyền thuyết, cổ tích trong văn học cổ để thực hiện nội dung mới. Ngoài ra, Tagore còn dùng các hình ảnh loài vật, thiên nhiên và ngôn ngữ tượng trưng, ngụ ý.
Chính nhờ vận dụng thủ pháp biểu hiện- tượng trưng trên đây mà nhà thơ Tagore dễ đi vào lòng người, cả lí trí và tình cảm. Đó là thủ pháp độc đáo trong nghệ thuật thơ ca lãng mạng của Tagore.
Cheliev – nhà Ấn Độ học Liên Xô đánh giá Tagore như sau: “Tagore là một tổng hợp thiên tài kì diệu của văn học Ấn Độ, từ Upanisad qua tài liệu phật giáo đến thơ Kalidasa, kể cả tinh thần nhân đạo thời trung cổ, cùng với tính chất lãng mạn tiến bộ trong văn học Anh và tinh thần đấu tranh chống đế quốc giành độc lập của nhân dân Ấn Độ” [2; 26, 27].
Chính vì thế, thơ Tagore “vừa rất dân tộc lại vừa là của chung toàn thế giới” (Nehru). Giá trị thơ ca của Tagore đã khiến cho ông xứng đáng là “ngôi sao sáng Ấn Độ phục hưng”[4;76] và là “nhà cách tân vĩ đại” [9; 170]. Người ta còn xếp ông là một trong mười nhà thơ lớn nhất thế kỷ XX.
Nhìn chung, Văn học hiện đại Ấn Độ đã đóng góp cho nền Văn học Thế giới nhiều thành tựu nổi bật gắn liền với tên tuổi của một số tác giả tiêu biểu như đã kể trên. Đặc biệt với thi hào R.Tagore, ông đã đưa nền Văn học Ấn Độ lên đến đỉnh cao nghệ thuật.
Sáng tác của Tagore là một tập hợp cả quá khứ, hiện tại của nền văn minh Ấn Độ. Không những thế, ông còn mở ra một nguyên mẫu cho tương lai của nền Văn học Ấn Độ. Ảnh hưởng của Tagore là rất lớn. J.Neru- nhà nghiên cứu Văn học Ấn Độ- đã rất đúng khi nhận xét về ảnh hưởng của Tagore: “Ảnh hưởng của Tagore đối với tinh thần Ấn Độ và đặc biệt các thế hệ đang kế tiếp nhau lớn lên là to lớn. Không chỉ tiếng Bengan là ngôn ngữ ong dùng để viết mà tất cả các ngôn ngữ Ấn Độ nào khác, ông đã góp phần mang lại sự hài hòa cho các lý tương của Đông và Tây” [10; 27, 28 ].
Sáng tác của Tagore thấm đậm tinh thần nhân đạo cao cả của ông. Đặc biệt ông dành nhiều tình yêu thương đối với trẻ em. Ông thấy ở thiếu nhi những vẻ đẹp ngây thơ, chất phác mà người lớn không bao giờ có được. R. Tagore đã dành cả một tập thơ để nói về trẻ em. Đó là tập “Trăng non”. Cao Huy Đỉnh- nhà nghiên cứu Văn học Việt Nam- nhận xét về tập thơ như sau: “Đó là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí nhi đồng. Đó còn là triết lí của R. Tagore về cuộc đời, làm những bài học tốt cho các bậc cha mẹ. Lòng yêu con trẻ, yêu thiên nhiên đất nước, trí tưởng tượng vô cùng phong phú của Tagore đã khám phá cả một thế giới toàn thiện toàn mĩ, một thế giới thần tiên và nghệ sĩ trong tâm hồn em bé” [10; 29]
Viết tập thơ này, nhà thơ còn xuất phát từ những đau buồn trong đời sống riêng. Sau mấy năm liền đau khổ vì mất đứa con gái thứ hai (1904) và đứa con trai đầu (1907) Tagore đã viết tập thơ này. Ông coi đó là niềm an ủi và một dịp để tìm lại hình ảnh những đứa con yêu quí đã qua đời. Bản tiếng Bengan lấy tên là Susi xuất bản 1905. Về sau được bổ sung và dịch ra tiếng Anh lấy tên là Trăng non (Crescent Moon- có bản dịch là Mảnh trăng non hay Trăng lưỡi liềm) xuất bản 1915.
Trong tập thơ, nhà thơ ghi nhận những điều hết sức giản dị về thiếu nhi: Câu hỏi ngây thơ, nụ cười êm dịu, giấc mơ tiên, hoa Susi (một thứ hoa nhỏ, đẹp mà trẻ con Ấn Độ rấ thích), tia trăng non óng ả, đám mây như buồm trắng, chiếc thuyền giấy, cái lông chim, tất cả đều hợp thành sức sống đang trỗi dậy trong tâm hồn em bé. Tâm hồn đó không hề vướng một tí danh, vị, lợi, không hề biết đến thành kiến đẳng cấp và tôn giáo. Tagore đã cho chúng ta rõ rằng ở bên trong những vật tầm thường là cả một thế giới kì lạ đối với trẻ em. Chúng ta phải thật tinh vi, tế nhị mới hiểu được con em chúng ta. Chúng ta phải biết tôn trọng nhi đồng, giáo dục con em và giữ cho các em có được bản chất hồn nhiên trong sáng.
Sau đây chúng ta đi vào khai thác một hình tượng tiêu biểu, đó là hình tượng trẻ em – nhân vật chính của tập thơ để thấy được tình yêu cũng như quan niệm của Tagore về trẻ em.
CHƯƠNG II:HÌNH TƯỢNG TRẺ EM TRONG TẬP THƠ
TRĂNG NON
1. Quan niệm của Tagore về trẻ em
1.1. Tìm hiểu thế giới tâm hồn của trẻ em
R. Tagore viết thơ về trẻ em với tình thương bao la của một người ông, người cha, người thầy. Vì vậy nhà thơ đã đi vào tìm hiểu thế giới tâm hồn của trẻ em. Trong tập Trăng non, nhà thơ xây dựng hình tượng trẻ em với đầy đủ vẻ hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, trí tưởng tượng phong phú và sự khao khát bước vào và khám phá thế giới tâm hồn trẻ em.
Sau đây, chúng ta đi vào tìm hiểu từng vẻ đẹp cụ thể trong tâm hồn thiếu nhi.
1.1.1. Tâm hồn ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của trẻ em:
Dưới ngòi bút nhân đạo và tấm lòng yêu thương, quí trọng trẻ em, Tagore đã ca ngợi tâm hồn ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của trẻ em.
Trong bài “Buổi sơ khai”, em bé không biết mình được sinh ra từ đâu, em hỏi mẹ:
“Mẹ ơi, con từ đâu đến vậy
Mẹ đã nhặt con ở tận nơi nào?”
Thật ra đây không phải là câu hỏi thốt ra từ miệng em bé để biết về nguồn gốc của mình. Mà đây là lời của nhà thơ muốn nói với những bậc làm cha làm mẹ phải sống sao cho xứng đáng, để đứa trẻ khi lớn lên sẽ không phải hổ thẹn về nguồn gốc gia đình mình.
Trong bài thơ, Nhà thơ cho người đọc biết rằng: Trẻ em được kết tinh từ những cái đẹp đẽ nhất của tạo hóa. Giấc ngủ của em thì từ làng tiên nữ đến. Ở đó có “đom đóm lập lòe”, có “hai nụ hoa thần kì níu cành e lệ”. Nụ cười của em thì xuất phát từ “tia trăng non vàng viền quanh đám mây thu tàn”, từ “trong giấc mơ buổi sáng đầm sương”,tay chân em kết tinh từ tình yêu sâu kín trong lòng người mẹ thuở đương xuân.
“Màu mát dịu phơi phới trên tay chân em bé.
Ai biết màu tươi mát từ lâu ẩn ở đâu?
Ừ, thưở mẹ đang là gái xuân,
màu tươi mát thấm đầy lòng mẹ
trong tình yêu sâu kín, dịu dàng, lặng lẽ”.
(Từ đâu- tập Trăng non)
Thông qua những hình ảnh ẩn dụ trên, nhà thơ muốn nói đến mọi ưutiên người lớn đều dành cho trẻ.
Tagore ca ngợi bản tính ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của trẻ em. Ông đã dành hàng loạt bài thơ viết về phẩm chất đó. Chính vì ngây thơ, hồn nhiên, thích vui đùa nên trẻ em không biết đến sự nguy hiểm đang đến gần đe dọa.
“Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Bầu trời mênh mông trên đầu các em không động đậy
Mà nước thì gào réo liên hồi.
Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Cười reo nhảy múa.
Các em xây nhũng ngôi nhà bằng cát
Và chơi với những vỏ sò rỗng không.
Các em dùng lá khô đan những chiếc thuyền
Và vui cười thả chúng trên biển sâu vô tận.
Bọn trẻ đùa chơi trên bờ những thế giới vô biên.
…
Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Dông tố gầm lên trên bầu trời không một lối đi
Thuyền bè đắm chìm trên nước không dấu vết.
Cái chết ở ngoài kia,
nhưng lũ trẻ vẫn đùa chơi.
Trên bến bờ những thế giới vô biên
là một hội lớn của bầy con trẻ.”
(Trên bờ biển- tập Trăng non)
Thông qua những dòng thơ này, nhà thơ cho chúng ta hiểu thêm nhu cầu về trò chơi của trẻ em và quan niệm về cuộc sống của chúng. Là trẻ em, chúng không biết đến những giới hạn, cả giới hạn của tự nhiên và giới hạn của xã hội. Mọi thứ đối với trẻ đều là “những thế giới vô biên”. Trẻ em không biết trong những trò chơi mà các em chơi đều có những giới hạn nhất định. Nếu vượt qua ngoài những giới hạn đó thì nguy hiểm sẽ đe dọa.
Đối với người lớn, một năm chỉ có vài ngày là “ngày hội lớn” và người lớn chỉ có thể vui đùa trong những trò chơi của “ngày hội lớn” ấy. Thế nhưng đối với tâm hồn ngây thơ của em bé thì ngày nào cũng là “ngaỳ hội lớn”, và trò chơi nào các em đang chơi cũng đều là những trò chơi trong “ngày hội lớn” đó. Trong bài thơ, trẻ em đâu biết rằng những trò mà các em đang chơi cạnh bờ biển là nguy hiểm. Bản thân những trò chơi mà các em đang chơi là không nguy hiểm, là rất thú vị. Nhưng các em chơi những trò ấy bên cạnh bờ biển là rất nguy hiểm. Nếu vì vui quá mà các em vượt ngoài chỗ bờ biển là rất nguy hiểm. Nhưng trẻ em đâu biết đến những giới hạn đó. Vì thế các em cứ vui chơi “cười reo nhảy múa” và xem những trò vui của mình là những trò vui của “ngày hội lớn”, mặc cho “nước gào réo liên hồi” , “dông tố gầm”, “thuyền bè đắm” và “cái chết ở ngoài kia”…
Tagore am hiểu tường tận thế giới tâm hồn của bé. Trong tâm hồn bé không có sự ganh đua, tị hiềm, cũng không vướng bận bởi danh lợi. Nơi tầm hồn bé chỉ có sự an lành, có sao trò chuyện, có bầu trời trong xanh, có đám mây, có chiếc cầu vồng…Trong bài “Thế giới của bé”,nhà thơ đã nói lên điều này:
“Ước gì tôi chiếm được một góc an lành trong lòng thế giới riêng của chính bé của tôi.
Tôi biết trong thế giới đó có sao trò chuyện cùng bé, có một bầu trời sà xuống mặt bé để ghẹo bằng những đám mây và chiếc cầu vồng khù khờ.
Những đám mây giả bộ ngốc nghếch và trông như chẳng bao giờ di động nổi, bò tới cửa sổ bé chuyện trò với những mâm đầy đồ chơi chói ngời…”
Ngoài ra Tagore còn cho chúng ta thấy rằng: chính bởi tâm hồn ngây thơ, hồn nhiên của các em, mà các em trở thành nguồn vui lớn của mỗi gia đình. Các em đem đến cho gia đình sự yên vui, hạnh phúc, thổi tan đi những quạu quọ, bực dọc trong lòng những người lớn. Trong bài thơ “Em bé thiên thần”, nhà thơ cho rằng chính em bé như những “thiên thần” đem đến cho mọi người niềm vui và hạnh phúc:
“Họ la lối và tranh giành, họ hoài nghi và tuyệt vọng, họ cãi cọ chẳng bao giờ thôi.
Con ơi, hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi, khiến họ say mê đến im lời.
Họ độc ác trong tham lam và ghen tị, lời họ như những con dao giấu kín khát máu người.
Con ơi, hãy bước tới đứng giữa những tấm lòng quạu cọ và đoái nhìn họ với cặp mắt hiền từ như cái nhìn an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh đấu.
Con ơi, hãy để họ thấy mặt con và như thế hiểu nghĩa muôn loài, hãy để họ yêu con và như thế họ yêu thương nhau.
Con ơi, hãy đến ngự trong lòng cái vô biên. Bình minh con mở rộng và cất cao trái tim như một bông hoa nở, và hoàng hôn con cúi đầu yên lặng làm tròn sự thờ phượng trong ngày”.
Bài thơ ví trẻ em như một nguồn vui lớn, như ngọn đuốc soi sáng những hoài nghi, tuyệt vọng trong lòng những người lớn. Các em đem đến cho những người lớn sự an bình, thổi tan đi những quạu cọ, đấu tranh trong lòng họ. Chính những đứa trẻ được sinh ra là nguồn vui, hạnh phúc của gia đình.
Chỉ có tình yêu thương bao la dành cho trẻ em, nhà thơ mới có thể viết nên những dòng thơ thể hiện sự am hiểu tường tận thế giới tâm hồn bé. Ông ca ngợi sự ngây thơ, vẻ hồn nhiên chân thật của em bé. Tâm hồn em chưa hề vướng bận một tí danh, vị, lợi…Các em thật hồn nhiên và đầy sức sống!
Viết những dòng thơ về trẻ em, ngoài tình yêu thương, quí trọng trẻ, nhà thơ còn gửi gắm lời nhắn nhủ các em hãy giữ gìn bản chất tâm hồn ngây thơ, trong sáng của mình.
1.1.2 Trí tưởng tượng phong phú của trẻ em.
Khi viết về trẻ em, nhà thơ dường như đặt mình vào vị trí một em bé để cảm nhận, để tưởng tượng ra những điều kì diệu của cuộc sống này. Trong tập thơ, ta bắt gặp nhiều nhất là những hình ảnh giàu tưởng tượng về thế giới tâm hồn của bé. Trí tưởng tượng của các em thật phong phú. Nhìn mặt trăng, em bé tưởng tượng ra mặt mẹ cũng to bằng mặt trăng, nên em muốn dùng hai tay hứng trăng như em đã từng dùng hai tay để ôm lấy má của mẹ. Trong bài “Nhà thiên văn”, em bé nhìn trăng vào buổi tối “khi trăng tròn, treo lơ lửng giữa lùm cây”, em đã tưởng tượng “có ai ôm được nó không?”. Người anh cho rằng em bé ngốc nghếch, mặt trăng ở xa vời vợi và to thì làm sao tìm ra lưới khổng lồ để vớt trăng. Em bé cho rằng : “Tất nhiên phải lấy đôi bàn tay để hứng” và em đã tưởng tượng ra mặt mẹ cũng to bằng mặt trăng khi mẹ cúi đầu ôm hôn em:
“Khi mẹ cúi đầu ôm hôn chúng mình
Mặt mẹ to biết dường nào?”
Đặc biệt, trong bài “Mây và sóng” ta bắt gặp hình ảnh tưởng tượng hết sức dễ thương. Tagore như nhập vai vào em bé để thể hiện trí tưởng tượng thật phong phú. Trong bài thơ, em bé nhìn những đám mây bay trên bầu trời và những con sóng tung tăng trên mặt biển, em đã tưởng tượng ra những đám mây và những con sóng ấy như là những con người biết đùa vui nhảy múa. Họ là bạn của em, rủ em đi chơi.
Em đã tưởng tượng ra câu chuyện có lời rủ rê của bạn mây và bạn sóng. Đồng thời cũng có lời nói của em. Em đã kể cho mẹ nghe với một giọng thật ngây ngô, ngộ nghĩnh, vừa là lời độc thoại, lại vừa như lời đối thoại:
“Mẹ ơi, những người sống trên mây đang gọi con:
“Chúng ta chơi đùa từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà,
Chúng ta chơi với buổi sớm mai vàng,
Chúng ta chơi với vầng trăng bạc”.
…
Những người sống trong sóng nước gọi con:
“Chúng ta hát từ sớm mai cho đến tối,
Chúng ta ngao du khắp nơi này nơi nọ
Mà không biết mình đã từng qua những nơi nào.”
Em bé không chỉ tưởng tượng ra mây và sóng là bạn, với những trò chơi kì diệu của họ. Mà em còn tưởng tượng ra con đường để đến chơi với bạn mây:
“Hãy đến bên bờ trái đất
Và đưa tay lên trời
em sẽ được nhấc bổng lên mây”.
Và đến với các bạn sóng thì:
“Hãy đến chỗ gần sát biển
Và đứng đó đứng nghiền mắt lại
Là em sẽ được đưa lên trên làn sóng”
Khi em tưởng tượng ra những trò vui của các bạn mây, sóng và con đường đến chơi với các bạn ấy. Nhưng vì không muốn xa mẹ, em bé đã từ chối lời mời của họ. Thật ra không phải vì em bé không muốn xa mẹ mà từ chối lời mời đi chơi của các bạn mây và sóng mà vì em bé còn bé quá không đủ sức để đi theo mây vàsóng. Đó chỉ là ước mơ được đi khắp nơi giống như mây và sóng mà em bé tưởng tượng ra mà thôi. Và khi biết mình không đủ sức để đi với các bạn mây và sóng, em bé tiếp tục tưởng tượng ra một trò chơi vui hơn trò chơi của các bạn mây và sóng. Nơi ấy có em và có mẹ. Em đã tưởng tượng ra em sẽ là sóng và mẹ sẽ là bờ biển. Em sẽ lăn dài trên bờ biển mẹ, như người mẹ ôm ấp đứa con thơ:
“nhưng con biết một trò chơi vui hơn trò ấy,
Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng.
Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi
Và vỗ vào gối mẹ, cười vang.
Và không một ai trên cõi đời này biết nơi đâu mẹ con ta đang ở”
Ta thấy trò chơi mà em bé tưởng tượng ra để chơi cùng với mẹ là sự tập dượt để sau này lớn lên em cũng có thể như mây và sóng đi khắp nơi. “Mây” và “sóng” là hình ảnh tượng trưng cho tự do mà em bé có khát vọng vươn đến.
Nhiều bài thơ khác trong tập Trăng non xuất hiện hàng loạt những hình ảnh tưởng tượng vừa gần gũi vừa sâu xa của tâm hồn em bé. Trong bài “Cảm tình” em bé tưởng tượng ra cảnh: nếu em là “một con chó con” và là “một con vẹt nhỏ màu xanh” chứ không phải là “bé của mẹ” thì thái độ đối xử của mẹ khác đi. Em hình dung ra cả thái độ đối xử của mẹ dành cho em. Nếu em không phải là con của mẹ thì mẹ xua đuổi em, không cho em đến gần và ăn trong đĩa ăn của mẹ.
Thật là chỉ có trí tưởng tượng phong phú, em bé mới có thể hình dung
được những hình ảnh nói trên.
1.1.3 Sự khao khát bước vào khám phá thế giới của tâm hồn trẻ thơ
Trẻ em nào cũng vậy, đều ưa thích những điều mới lạ. Các em cố gắng tìm tòi, phát hiện những gì còn là bí ẩn về xung quanh trong thế giới tâm hồn em bé. Đối với thiếu nhi, mọi cái xung quanh em đều lạ lẫm. Có những việc tưởng như rất bình thường nhưng đối với các em là một một sự mới lạ, khó khăn. Hiểu được điều này, ta càng thấy được lòng yêu thương và sự am hiểu tường tận tâm lí nhi đồng của thi hào Tagore. Ông luôn nâng niu, trân trọng bản chất tâm hồn trẻ thơ.
Ông hiểu rõ trẻ thơ luôn luôn muốn được hòa mình vào những việc mà đối với các em còn quá lạ lẫm. Điều này Tagore nhằm gợi cho chúng ta biết được sự tò mò trong tâm trẻ. Điều gì các em chưa biết, các em luôn tò mò muốn biết, muốn khám phá. Tagore còn cho chúng ta biết, trẻ em của chúng ta chưa bao giờ biết tới sự nguy hiểm là gì? Đối với thiếu nhi, cái mới lạ bao giờ cũng thu hút các em. Trẻ em của chúng ta đâu biết rằng hòa vào trong cái mới lạ ấy là chứa đựng vô vàn những sư đe dọa đến các em.
Trong bài thơ “Trên bờ biển” Tagore đã vẽ nên một bức tranh có những cảnh tượng tốt đẹp nhưng không kém phần nguy hiểm đối với trẻ thơ, đối lập với sự vui đùa khám phá cái mới của trẻ thơ. Đó là cảnh trên bờ biển- bến bờ của những thế giới vô biên, có bầu trời mênh mông, nước gào réo liên hồi. Nhưng các em không biết được sự nguy hiểm đó đang đe dọa đến tính mạng các em nên các em vẫn vui chơi “cười reo nhảy múa”. Các em cho rằng nơi thế giới vô biên ấy chính là khung trời đẹp đẽ mà các em mặc sức vui chơi thỏa thích. Ở nơi ấy các em xây những ngôi nhà bằng cát và chơi với những vỏ sò trống không và em dùng lá khô đan những chiếc thuyền rồi vui cười thả chúng tren biển sâu vô tận:
“Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Bầu trời mênh mông trên đầu các em không động đậy
Mà nước thì gào réo liên hồi
Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Cười reo nhảy múa
Các em xây những ngôi nhà bằng cát
Và chơi với những vỏ sò rỗng không
Các em dùng lá khô đan những chiếc thuyền
Và vui cười thả chúng trên biển sâu vô tận”
Trong cặp mắt ngây thơ của bọn trẻ, sóng biển gầm thét chính là những trận cười giòn giã. Và tiếng gầm thét của sóng chẳng khác nào những bài ca vô nghĩa của những người mẹ khi ru con ngủ. Các em dường như đơn giản hóa những nguy hiểm.
Và đối với trẻ thơ, các em xem biển như là một người bạn thân thiết, gần gũi :
“Biển đùa chơi với bọn trẻ con
Và soi những nụ cười trên bãi cát xanh xao”
Mặc cho trong cái thế giới vô biên ấy, còn chứa đựng biết bao mầm móng của sự chết chóc: bầu trời xám xịt, thuyền bè đắm chìm, nhưng bọn trẻ vẫn đùa vui và xem đó như là một ngày hội lớn của các em:
“Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Dông tố gầm lên trên bầu trời không có một lối đi
Thuyền bè đắm trên nước không dấu vết
Cái chết ở ngoài kia,
Nhưng lũ trẻ vẫn đùa chơi
Trên bến bờ nhũng thế giới vô biên
Là một hội lớn của bầy con trẻ.”
Ta thấy cũng vì tò mò, ham hiểu biết và khả năng muốn bước vào thế giới nên các em rất vô tư. Bài thơ như một thông điệp của Tagore nhắn nhủ người lớn phải am hiểu sự khát khao của các em. Đó là điều rất cần thiết đối với các em. Chúng ta phải để cho trẻ chơi nhưng phải chú ý giữ gìn trẻ.
Cũng vì tò mò nên em bé luôn khát khao khám phá thế giới. Trong bài “Bờ bên kia”, Tagore viết về một đứa trẻ được nghe người lớn nói nhiều về thế giới bên kia- nơi xa lạ với các em. Nơi đó, em được nghe người lớn nói nhiều về những điều rất thú vị. Em ước ao được đi sang đó để khám phá ra những điều mà em nghe kể. Vì vậy mà em muốn trở thành “bác lái đò đưa khách” để được đi sang bờ bên kia.
“Con ao ước được đi sang bên kia bờ sông,
Nơi thuyền neo cọc tre làm thành hàng
Nơi sáng sáng, người ta vượt thuyền,
cày đeo trên vai để đi xới những đất ruộng xa
Nơi bọn mục đồng bắt trâu bò bơi qua sông ăn cỏ;
Chiều tối họ từ đó về nhà,
bỏ mặc chó tru trên đồng hoang, cỏ dại…”
Cũng trong bài thơ “Mây và sóng”, ta bắt gặp hình tượng trẻ em với sự khát khao đến cháy bỏng được bước vào và khám phá những trò vui của các bạn mây và sóng. Khi được các bạn mây và sóng rủ đi chơi và nghe các bạn kể ở đó có nhiều trò vui lạ như: các bạn mây thì có “chơi với buổi mai vàng”và”chơi với vầng trăng bạc”. Còn các bạn sóng thì “ngao du khắp nơi này nơi nọ”. Em bé nghe các bạn kể về trò chơi như vậy, mà trò nào cũng xa lạ dối với em. Nên ngay lập tức, em hỏi các bạn cách đến đó cùng chơi. Qua đây nhà thơ cho người đọc hiểu được ở trong lòng các em luôn có sự khao khát khám phá những trò chơi vui và mới lạ.
1.2. Quan niệm của Tagore về trò chơi trẻ em
Khi viết về trẻ thơ, Tagore bộc lộ sự nâng niu, trân trọng và tình yêu thương mãnh liệt của mình bằng thơ ca. Tagore đưa ra nững đức tính của trẻ thơ: chân, thiện, mĩ đối lập với sự lừa lọc, xảo trá của một xã hôi mà đồng tiền và quyền uy đang ngự trị.Vì vậy, nhà thơ có quan niệm hết sức đúng đắn về trò chơi cùa trẻ em. Điều này được thể hiện rõ trong bài “Đồ chơi”. Ở bài thơ này Tagore nói về những đồ chơi của các em hết sức giản dị nhưng rất thú vị đối với các em. Từ vỏ sò, chiếc lá khô, những hạt cát trên bờ biển, những viên đá cuội, chiếc thuyền giấy, hoa Siuli…đến cành cây gãy đều trở thành đồ chơi thích thú đối với trẻ thơ.
Chính bởi tâm hồn trong sáng, trẻ em của chúng ta chưa hề bị quyến rũ bởi tiền tài, danh vọng…nên các em lấy làm rất vui khi chơi với những đồ chơi bình thường ấy.
Trong bài “Trên bờ biển”, Tagore cho chúng ta thấy trò chơi của các em hết sức bình thường. Đó là những đồ chơi có sẵn của tự nhiên, đó có thể là cái bỏ đi, không giá trị gì, không mất tiền mua: hạt cát, hòn đá, lá khô, vỏ sò…nhưng các em chơi hết sức vui vẻ. Các em đã biến những cái tưởng chừng như không giá trị đối với người lớn thành những cái có giá trị trong mắt các em và các em thích thú về điều đó. Trong bài thơ, các em lấy những hạt cát có sẵn trên bờ biển xây thành những “ngôi nhà bằng cát”, dùng chiếc lá khô làm thuyền thả xuống nước, nhặt những viên đá cuội ném ra mặt biển…và các em vui vẻ đùa chơi cùng những trò chơi đó.
“Các em xây những ngôi nhà bằng cát
Và chơi với những vỏ sò rỗng không
Các em dùng lá khô đan những chiếc thuyền
Và vui cười thả chúng trên biển sâu vô tận”
Những thứ giản dị có sẵn ấy là những trò vui trong mắt các em. Đặc biệt, với bài thơ này nhà thơ còn chỉ ra sự đối lập giữa trẻ em và người lớn về đồ chơi. Nhà thơ thể hiện rõ quan niệm của mình về trò chơi của thiếu nhi: đối với trẻ em, bất cứ các em nhặt được những gì các em cũng lấy đó làm trò chơi thích thú và các em thấy sung sướng với đồ chơi ấy. Còn người lớn- trong bài thơ là cha của em bé- cha em phải cất công tìm những “kho bạc nén vàng” để làm thú vui. Trong con mắt ngây thơ c(Vf1ủa thiếu nhi, những việc của người cha làm là vô ích, không thú vị gì cả:
“Con ơi, suốt buổi sáng, con ngồi trên nền đất chơi với cành gãy, sung sướng biết bao.
Cha mỉm cười nhìn con đùa với một lẻ nhỏ của cành cây gãy.
Cha đang bận tính sổ, cộng từng chữ số hàng giờ.
Có lẽ con liếc nhìn cha và suy nghĩ: “Cha chơi trò gì ngớ ngẩn, mất toi buổi sáng rồi!”
Con ơi, cha đã quên trò chơi mê mải với cành que và chim đất.
Cha tìm đồ chơi quý và thu nhặt những thoi bạc nén vàng.
Tìm được gì, con cũng làm nên đồ chơi thích thú. Còn cha bỏ cả thì giờ và sức lực tìm những của có bao giờ được đâu.
Trên thuyền mỏng manh, cha cố chèo chống mong vượt qua bể dục, mà quên rằng chính mình cũng đang diễn một trò chơi.”
(Đồ chơi- tập Trăng non)
Con người khi lớn lên, chịu sự chi phối của qui luật xã hội. Đôi lúc con người phải bon chen, tranh giành thì mới có thể tồn tại. Lúc bấy giờ người lớn xem những “thoi bạc nén vàng” là thứ quí giá nhất và là trò vui. Bởi thế nên họ có thể bỏ cả thì giờ và sức lực để tìm kiếm. Có thể họ sẽ chẳng vui thú gì khi buộc phải làm những việc như vậy. Còn trẻ em “tìm được gì cũng làm nên đồ chơi thích thú”. Ở bài thơ này, nhà thơ bộc lộ một quan niệm hết sức giản dị về trò chơi của trẻ em. Ông đối lập giữa trẻ em với người lớn. Trò chơi của trẻ là những thứ sẵn có, giản dị, không nhất thiết phải tranh giành, phải tìm kiếm. Và như thế các em rất hạnh phúc và sung sướng. Còn người lớn luôn tìm kiếm những gì quí giá như bạc vàng làm thú vui. Người lớn đã đánh mất trò chơi thuở nhỏ của mình. Thông qua đó, nhà thơ thể hiện rõ quan niệm của mình về trò chơi trẻ em. Chỉ với những thứ đồ chơi bình thường, sẵn có ấy, không phải tranh giành chiếm đoạt thì mới thật sung sướng và hạnh phúc. Hạnh phúc nằm ngay trong những cái giản dị, đời thường chứ không cần phải cất công tìm kiếm đâu xa. Vì vậy mà em bé trong bài thơ đã thật sự sung sướng và hạnh phúc với những trò giản dị của em.
1.3. Niềm tin và tình yêu của trẻ đối với cha mẹ.
Đa số trẻ em được sinh ra đều được cha mẹ chăm sóc và bảo vệ. Một đứa trẻ sẽ được hưởng hạnh phúc tron vẹn khi có cha và mẹ chăm lo, yêu thương và chiều chuộng. Bất cứ khi gặp hoàn cảnh nào, trẻ em cũng luôn được bảo vệ bởi những người làm cha làm mẹ. Họ có thể hi sinh tất cả vì những đứa con của họ.
Một đứa trẻ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi các em có đầy đủ cha mẹ để được yêu thương chiều chuộng. Vậy nên đối với trẻ em, niềm tin lớn nhất mà các em đặt là nơi ba mẹ, bởi vì trong bất cứ hoàn cảnh nào cha mẹ cũng bênh vực và bảo vệ các em, chính vì đặt nềm tin tuyệt đối vào cha mẹ, nên các em không cần gì hơn ngoài tình thương, đặc biệt là tình thương của người mẹ.
Trong bài thơ “Cung cách của bé”, Tagore cho chúng ta thấy rõ điều này. Bài thơ nói về một em bé có đầy đủ tất cả: em có lời lẽ khôn ngoan để lấy lòng mọi người, có “hàng đống vàng đống ngọc“, có cả tự do…nhưng em đã từ bỏ tất cả để được “xin cả kho báu tình thương của mẹ”. Đối với em bé, tình thương của mẹ là quan trọng nhất, quí giá hơn cả bạc vàng. Vì thế mà em đã từ bỏ tất cả để được tình thương của người mẹ. Cho dù em có thể bay lên tận trời xanh nếu em muốn. Nhưng em vẫn không muốn, bởi em cần được ở gần mẹ, cần được đặt đầu vào trong lòng mẹ, và em không bao giờ chịu rời xa mẹ:
“Nếu bé muốn thì bây giờ bé có thể bay lên tận trời.
Không phải tự nhiên mà bé không chịu rời bỏ chúng ta.
Bé thích đặt đầu mình vào trong lòng mẹ
Và mắt bé không chịu rời xa mẹ bao giờ.”
Nhưng cho dù em có lời nói khôn khéo mấy đi nữa thì những người không thật sự thương em như mẹ của em thì không bao giờ hiểu được ý nghĩa lời em nói, nên em không nói. Em chỉ nói bắt chước theo lời mẹ, vì như vậy mẹ sẽ hiểu em nói gì:
“Bé biết trăm nghìn cách nói ra những lời khôn khéo
Nhưng trên mặt đất này
Mấy ai đã hiểu hết ý nghĩa của những lời ấy đâu.
Không phải tự nhiên mà bé không bao giờ muốn nói
Cái điều bé thích nhất là được học những lời của mẹ nói ra
từ trên đôi môi của mẹ.
Chính vì vậy mà bé có vẻ ngây thơ đến thế!”
Em bé đến để “xin kho báu tình thương của mẹ”nên em hóa trang như “một kẻ ăn xin làm ra thảm hại vô cùng” để xin không phải của cải mà xin tình thương của mẹ.
“Bé có hàng đống vàng đống ngọc
Thế nhưng bé đã đến mặt đất này
như một kẻ ăn xin
không phải tự nhiên mà bé đến cải trang như vậy
Cậu bé ăn xin, trần truồng, yêu mến này
Muốn làm ra thảm hại vô cùng
Để có thể xin cả kho báu tình thương của mẹ.”
Hơn nữa, sống ở nơi “mảnh đất của vầng trăng non”, không có mẹ rất được tự do. Nhưng em không thích” tự do”- tự do theo kiểu của những đứa trẻ mồ côi cha mẹ, không được sự chăm sóc, thương yêu của cha mẹ. Bởi em tìm thấy nơi trái tim mẹ chứa đựng một niềm vui vô tận mà em luôn muốn có:
“Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng
Bé tự do không hề bị ràng buộc chút nào
Nhưng không phải tự nhiên mà bé không cần đến tự do
Bé biết rằng trong góc nhỏ trái tim của mẹ
Có chứa một niềm vui vô tận, vô cùng
Và được ghì, được ôm chặt trong cánh tay thân yêu của mẹ.
Còn dịu dàng hơn tất thảy tự do.”
Em bé sống ở một nơi hạnh phúc tràn đầy, em không bao giờ biết khóc. Em chỉ có nụ cười. Và cho dù nụ cười của em cũng gợi trong lòng mẹ sự yêu thương. Nhưng em bé muốn khóc, bởi tiếng khóc thơ trẻ của em sẽ dệt nên trong lòng mẹ không chỉ có tình thương mà còn có cả sự xót xa, tội nghiệp.
“Bé không bao giờ biết khóc
Bé sống trong một nơi hạnh phúc tròn đầy..
Không phải tự nhiên mà bé để cho dòng lệ chảy
Mặc dù với nụ cười trên khuôn mặt thân yêu của bé
Bé có thể gây được trong lòng mẹ một niềm yêu mến thiết tha.
Thế nhưng những tiếng khóc nhỏ do nỗi buồn thơ trẻ.
Đã dệt nên một sợi dây chung của tình thương và của nỗi xót xa.”
Qua bài thơ, R.Tagore cho chúng ta thấy niềm tin mà bé đặt cho cha mẹ là vững bền và tuyệt đối. Trẻ tin ở tình yêu thương và sự chở che của cha mẹ. Thật không có gì có thể thay thế được niềm tin của trẻ đối với cha mẹ. Đọc bài thơ ta cảm động biết bao trước niềm tin của bé tin vào cha mẹ. Các bé tin ở tình yêu và sự nâng niu, nuôi dưỡng của cha mẹ dành cho các bé trong bất cứ hoàn hoàn cảnh nào. Ta thấy đáng thương biết bao niềm tin của trẻ. Em đã từ bỏ tất cả để mong có được sự thương yêu của ba mẹ.
Chính vì xuất phát từ niềm tin tuyệt đối vào cha mẹ nên trẻ em rất yêu thương cha mẹ của mình. Tình yêu thương của các em dành cho cha mẹ làm ta xúc động. Điều này được thể hiện rõ trong bài “Mây và sóng”. Ở bài thơ này, Tagore đã sáng tạo ra một cốt truyện mang tính huyền thoại. Đó là câu chuyện về sự rủ rê của các bạn mây và sóng đối với em bé. Những trò chơi của bạn mây và bạn sóng rất thu hút em. Em bé đứng trước một sự lựa chọn, buông mình xuôi theo những trò chơi kỳ thú của mây, sóng hay trở về với mẹ? và như một tất yếu “không làm sao bỏ mẹ mà đi cho được” và “mẹ muốn em ở nhà”nên em đã trở về trong tình thương và vòng tay che chở của mẹ.
Trong bài thơ, hình ảnh của mẹ vừa lớn lao, vừa gần gũi, mang tầm vóc vũ trụ, của trăng ,của biển, che chở, đùm bọc đứa con thơ. Vậy nên em bé đã tự nghĩ ra một trò vui khác có con có mẹ: “con sẽ làm mây, mẹ làm mặt trăng” và “con làm sóng, mẹ làm bãi cát xa”. Ở trò vui này, em sẽ hạnh phúc hơn nhiều bởi có mẹ có em cùng chơi. Thông qua tình yêu của bé dành cho mẹ trong bài thơ, R.Tagore cho chúng ta hiểu thêm một triết lí thật sâu xa: hạnh phúc trọn vẹn của trẻ thơ không ở đâu xa mà ở ngay trong cuộc đời này, trong tình yêu thương và vòng tay che chở của ba mẹ. Chính đó là chiếc nôi hình thành nhân cách, năng lực, nuôi dưỡng tâm hồn các em. Đồng thời cũng thông qua đó nhà thơ nhắc nhở trẻ em chúng ta phải có niềm tin và tình yêu thương dành cho ba mẹ của mình. Vì chỉ có như thế, các em mới có được hạnh phúc thật sự.
2. Thái độ của người lớn cần có khi đối xử với trẻ em.
2.1. Nhận thức của người lớn về trẻ em
Mọi đứa trẻ được sinh ra đều mang bản tính ngây thơ và tâm hồn trong sáng. Đôi lúc chính sự ngây thơ của các em làm nên sự giận dữ trong lòng những người lớn. Vì vậy, viết tập thơ này, nhà thơ còn yêu cầu người lớn phải nhận thức đúng về trẻ em để có thái độ đối xử với các em cho phù hợp. Tagore cho chúng ta hiểu rằng chính tâm hồn ngây thơ, trong trắng của các em tạo cho các em niềm vui sống và sự tin yêu vào cuộc đời. Đặc biệt tin vào tình yêu thương bao la của người mẹ. Là người lớn,chúng ta không nên căn cứ vào những lỗi lầm do sự vô tình của các em gây ra mà ruồng rẫy các em.
Trong tập thơ, Tagore cho người đọc thấy được những nhận thức của người lớn, hay nói đúng hơn là của chính bản thân nhà thơ về trẻ em. Trong sự cảm nhận của nhà thơ, trẻ em được kết tinh từ nét đẹp thiên thần. Sự có mặt của em bé trên cõi đời đem lại cho mọi người niềm vui, làm giảm đi sự tranh giành, giận dữ trong lòng những người lớn. Trong bài “Em bé thiên thần”, nhà thơ nói về sự xuất hiện của em bé mang lại cho mọi người niềm vui. Em bé như “ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi” soi sáng và chiếu vào tận đáy lòng người lớn, làm cho người lớn giảm bớt đi sự hằn học, ganh tị, tham lam và ích kỉ. Em bé đến làm cho mọi người biết yêu thương nhau: “Con ơi, haỹ để họ thấy mặt con và như thế hiểu nghĩa của muôn loài; hãy để họ yêu con và như thế họ yêu thương nhau”.
Qua bài thơ, ta thấy trong mắt nhà thơ, trẻ em chính là nguồn vui và niềm hạnh phúc của tất cả mọi người.
Ngoài vẻ đẹp của một “Em bé thiên thần”, nhà thơ còn nhìn nhận trẻ em ở một vẻ đẹp khác- một vẻ đẹp đời thường vốn có ở tất cả mọi đứa trẻ. Nhà thơ cho chúng ta hiểu rằng, sở dĩ em bé là nguồn vui của tất cả mọi người bởi em mang trong mình bản tính ngây thơ, hồn nhiên, chưa trải qua sự cám dỗ của đời sống, chưa bị danh lợi chi phối. Vì vậy mà trong bài thơ “Ban phước”, nhà thơ tha thiết kêu gọi mọi người hãy dành tình cảm thương yêu cho trẻ em, cho “trái tim bé nhỏ, cho linh hồn trong trắng” của chúng. Nơi trái tim bé nhỏ của em bé chứa đựng một tình yêu thương vô bờ và rất đỗi thiêng liêng. Đó là tình yêu dành cho mẹ: “Nó yêu ánh dương, nó yêu gương mặt mẹ hiền”,và chính bởi linh hồn trong trắng của em bé mà em “chưa biết khinh cát bụi và chạy theo bạc vàng”. Vì vậy mà em rất cần được sự thương yêu, dìu dắt của người lớn. Chúng ta cần hiểu là tất cả mọi đứa trẻ đều rất hiếu động. Các em luôn muốn tìm hiểu và phát hiện những thứ đã bày ra trước mắt các em hoặc đã nghe người khác kể. Nhà thơ cũng hiểu rất rõ về điều này, nên ông đã dành hàng loạt những bài thơ để viết về sự hiếu động của trẻ. Trong đó có bài “Trên bờ biển”, nhà thơ viết về niềm mong ước được đến chơi quanh bờ biển, mặc cho sóng ngầm có đe dọa các em.
Hay như bài “Bờ bên kia”, nhà thơ viết về những cảm nhận và niềm mong ước của em bé. Trong bài thơ, em bé ao ước được “đi sang bên kia bờ sông”. Vì trong sự cảm nhận ngây thơ của em, nơi “bên kia bờ sông” là nơi “thuyền neo cọc tre làm thành hàng”, là nơi “sáng sáng, người ta vượt thuyền, cày đeo trên vai để đi xới những đất ruộng xa”, là nơi “bọn mục đồng dắt trâu bò bơi qua sông ăn cỏ”. Chúng ta hãy nghe một ước mơ hết sức giản dị của em:
“Mẹ ơi, nếu mẹ bằng lòng, sau này lớn lên con muốn làm bác lái đò đưa khách”.
Sở dĩ em ước mơ như vậy là vì em đã nghe:
“Người ta nói rằng bên kia bờ cao có nhiều ao đưa khách;
Ở đó, từng đàn vịt trời bay tới khi mưa tạnh, và lau sậy rậm rịt quanh bờ chỗ le le đẻ trứng;
Ở đó, loài cuốc múa tít đuôi, in dấu chân xinh trên nền đất sạch mềm;
Ở đó, ban đêm cỏ lau trổ cờ trắng xóa mời ánh trăng đong đưa.”
Qua bài thơ, Tagore còn cho người lớn nhận thức được rằng: Trẻ em của chúng ta có một trí tưởng tượng vô cùng phong phú. Mặc dù em chưa nhìn thấy cảnh vật ở “ Bờ bên kia” nhưng em đã tưởng tượng ra hàng loạt hình ảnh thật sinh động. Qua đó, Tagore cho người đọc hiểu rõ hơn về trẻ em, để từ đó có thái độ đối xử phù hợp với các em. Nhà thơ đặt ra yêu cầu đối với người lớn trong thái độ đối xử với trẻ em: đối với trẻ trước tuổi trưởng thành, người lớn cần phải yêu thương, chăm sóc cho các em. Nhưng bên cạnh sự yêu thương cần có thái độ nghiêm khắc để giữ được những bản chất tốt đẹp vốn có nơi trẻ. Còn khi con trẻ đã bước sang tuổi trưởng thành, là những bậc làm cha, làm mẹ, cần rộng lượng khoan dung cho những hành động và suy nghĩ muốn thoát ly khỏi gia đình của con trẻ. Các bậc cha mẹ nên hiểu rằng khi con mình đã lớn thì chúng chịu chi phối bởi nhiều mối quan hệ: bạn bè, xã hội… và chúng cũng có những trò chơi và thú vui riêng (bài “Món Quà”) .Vì vậy chúng ta không nên ích kỉ mà ràng buộc chúng. Có như thế, chúng ta mới thật sự dành cho chúng sự thương yêu và niềm tin tuyệt đối để chúng vui sống. Muốn làm được điều đó, trước hết chúng ta cần có sự nhận thức đúng đắn và sâu sắc về chúng.
2.2. Thái độ đối xử cần có đối với trẻ em.
Viết tập thơ về trẻ em, nhà thơ đặt ra yêu cầu đối với người lớn cần nhận thức về trẻ em một cách đúng đắn và toàn diện nhất. Từ đó để có thái độ đối xử với chúng một cách hợp lí, phát huy được bản chất tâm hồn trong sáng của các em. Nhà thơ yêu cầu những người lớn phải biết yêu thương con trẻ không chỉ khi chúng ở trước tuổi trưởng thành (bài “Phán xử”), mà phải có tấm lòng khoan dung khi chúng đang bước vào tuổi trưởng thành, chúng có những trò chơi, bạn bè và những thú vui riêng (bài “Món quà”). Tagore yêu cầu các bậc làm cha làm mẹ phải rộng lượng thương yêu trẻ với tình yêu nhiệt thành. Sau đây chúng ta đi vào tìm hiểu từng yêu cầu của nhà thơ đặt ra cho người lớn trong thái độ đối xử với trẻ.
2.2.1. Thương yêu và quí trọng bản chất tâm hồn trẻ em trước giai đoạn trưởng thành.
Trẻ em vốn hay nghịch, hay đùa. Các em không biết đến sự nguy hiểm có thể cướp đi tính mạng của các em. Điều này được Tagore thể hiện khá thành công trong bài “Trên bờ biển”. Bài thơ nói về việc những đứa trẻ mặc cho biển gào thét liên hồi, dông bão gầm lên dữ dội…nhưng các em vẫn vui đùa thỏa thích. Đây chính là một trong những đặc điểm làm nên vẻ đẹp ngây thơ, trong sáng trong tâm hồn em bé. Vì thế, nhà thơ yêu cầu chúng ta không nên cấm đoán bé, cứ để cho bé vui đùa thỏa thích. Nhưng bên cạnh đó, người lớn phải thận trọng bảo vệ, ngăn chặn những trò chơi làm nguy hiểm đến tính mạng bé.
Không những thế, Tagore còn yêu cầu người lớn phải chăm lo cho các em từ miếng ăn đến giấc ngủ. Trong bài “Người ăn cắp giấc ngủ”, nhà thơ cho chúng ta thấy rằng giấc ngủ của em bé là rất quan trọng. Người mẹ trong bài thơ đã rất tức giận khi có kẻ đến quấy rầy giấc ngủ của bé. Người mẹ đã dỗ dành giấc ngủ cho con rồi mới đi ra suối lấy nước. Nhưng khi mẹ quay về thì thấy con đã thức. Mẹ cho rằng có kẻ đến ăn cắp giấc ngủ của bé, nên mẹ đã tức giận đi tìm kẻ ăn cắp giấc ngủ. Bài thơ như sau:
“Ai đã ăn cắp giấc ngủ trên đôi mắt bé?
Ta phải biết mới được.
Mẹ ôm vò đi lấy nước ở làng bên.
Đang lúc ngủ trưa,
giờ chơi của các em đã vãn,
và bọn vịt cũng im lặng ở trong ao.
Chú mục đồng nằm ngủ dưới bóng đa
Con sếu đứng trang nghiêm, yên tĩnh trong đầm bên rừng muỗm
Trong lúc đó thì tên ăn cắp giấc ngủ đã đến.
Và cuỗm luôn giấc ngủ trên đôi mắt bé bay đi
Khi mẹ về, mẹ thấy bé ngao du bằng cả bốn chân tay trong khắp gian phòng.
…
Ai đã ăn cắp giấc ngủ trên mắt bé của ta?
Ta phải biết mới được,
Ta phải tìm cho ra và trói hắn lại…”
(“Kẻ ăn cắp giấc ngủ”-Trăng non)
Bài thơ như một sự trân trọng và thương yêu vô bờ của Tagore dành cho trẻ em. Vốn có tình yêu thương con trẻ nên nhà thơ mới viết những dòng thơ cảm động về tình yêu thương của người mẹ đến như vậy.
Nhưng bên cạnh sự thương yêu, nhà thơ còn yêu cầu cha mẹ phải có cách giáo dục trẻ đúng đắn. Chúng ta không nên dành cho trẻ một tình thương mù quáng. Bên cạnh sự thương yêu, chăm sóc chi li từng miếng ăn, giấc ngủ cho đến trò vui của trẻ, chúng ta cần nghiêm khắc với trẻ mỗi khi chúng có lỗi. Tuy nhiên, chúng ta cần có tấm lòng khoan dung độ lượng đối với ngững lỗi lầm của trẻ, ta không nên xét nét quá kĩ những lỗi lầm của trẻ mà đánh mất đi niềm tin và tình yêu thương dành cho chúng. Thật ra, nếu chúng ta dành tình yêu thương cho chúng thật sự thì khi nhận ra lỗi lầm của trẻ và trừng phạt chúng thì ta như trừng phạt chính bản thân ta. Điều này được Tagore thể hiện khá rõ trong bài “Người phán xử”. Bài thơ làm người đọc cảm động biết bao trước tình yêu thương của người lớn dành cho trẻ. Và khi trẻ em của chúng ta nếu đọc được những dòng thơ này và hiểu được ý nghĩa của những dòng thơ ấy, có lẽ chúng càng trân trọng và yêu mến biết bao tấm lòng khoan dung của cha mẹ. Qua bài thơ, Tagore còn cho chúng ta hiểu những người không thật sự thương yêu trẻ, sẽ không bắt gặp ở trẻ những nét đẹp tâm hồn. Đồng thời cũng không hiểu được những chỗ yếu của các em. Chỉ có những người thật sự yêu thương các em, nhất là ba mẹ của các em mới hiểu được chỗ yếu của con mình. Họ yêu các em không phải vì các em ngoan, giỏi mà vì các em chính là đứa con nhỏ mà họ đã tạo ra bằng dòng máu ấm nóng của bản thân họ:
“Anh muốn nói gì về nó tùy anh
Nhưng tôi hiểu những chỗ yếu của con tôi
Tôi yêu nó không phải vì nó ngoan nó giỏi
mà vì là đứa con nhỏ của tôi”
và chỉ có cha mẹ của trẻ mới thấy được những điểm đáng quí ở trẻ.Vì vậy mà họ đã rất đau lòng khi trừng phạt con mình khi chúng có lỗi. Còn những người khác, họ cứ cố tìm ra lỗi lầm của các em mà để khinh bỏ các em:
“Anh làm sao hiểu được nó đáng quí đến chừng nào,
khi anh muốn đặt lên bàn cân
những nết hay và tật xấu của nó.
Khi tôi phải trừng phạt nó
thì nó lại càng trở nên một phần của bản thân tôi”
Thật cảm động và đáng quí biết bao trước tình thương của những bậc làm cha, làm mẹ. Họ phải đau xót biết bao khi chính mình phải trừng phạt chính đứa con mà mình đã sinh ra. Trừng phạt chúng, cha mẹ cũng như trừng phạt chính bản thân mình. Và hơn nữa, khi trẻ có lỗi lầm, buộc lòng cha mẹ phải răn dạy chúng, làm cho chúng khóc thì lòng họ cũng khóc cùng với con mình:
“Và khi tôi làm cho nó khóc
thì lòng tôi cũng khóc cùng với nó”
Đọc những dòng thơ trên, ta như cảm nhận được sự thiêng liêng trong tình cảm của cha mẹ đối với con cái. Và thật sự cho đến bây giờ, khi đọc lại những dòng thơ này, ta yêu biết bao tấm lòng của cha mẹ, sao tấm lòng họ cao cả và bao la đến thế? Và sự băn khoăn này được nhà thơ giải thích ở những dòng thơ cuối bài thơ: tấm lòng cao cả của cha mẹ chỉ xuất phát từ tình thương. Đó là tình thương con sâu sắc:
“Chỉ tôi mới có quyền rầy la và trừng phạt
Bởi vì chỉ có ai thương
Thì người đó mới có quyền trừng phạt.”
Thật vậy, chỉ có những ai dành tình thương đối với con mình thì họ mới có quyền rầy la và trừng phạt mỗi khi con trẻ có lỗi. Còn những người dửng dưng, có thái độ lạnh lùng đối với trẻ thì họ có bao giờ hiểu được trẻ. Như thế họ không có tư cách để rầy la và trừng phạt các em. Chỉ có những bậc làm cha, làm mẹ yêu thương con mình thật sự, họ mới đau khổ khi buộc phải trừng phạt đối với những lỗi lầm của con họ.
Trên đây là những thái độ cần thiết mà nhà thơ đặt ra để yêu cầu ngừoi lớn trong cách đối xử với trẻ em trước tuổi trưởng thành. Còn đối với trẻ đang bước vào tuổi trưởng thành thì nhà thơ lại đặt ra một yêu cầu khác. Đó là sự khoan dung và cảm thông với các em khi các em đang bước vào giai đoạn trưởng thành.
2.2.2.Khoan dung và cảm thông với trẻ em khi họ đang bước vào giai đoạn trưởng thành .
Mọi người con được sinh ra trên đời, cho dù họ khôn lớn đến dường nào thì họ cũng còn rất nhỏ trong lòng của ba mẹ. Vậy nên, Tagore đã rất sâu sắc khi nhận ra điều này. Khi trẻ đang bước vào giai đoạn trưởng thành, trẻ luôn muốn tách khỏi ba mẹ để có những trò chơi và bạn bè riêng. Các em muốn tự mình khám phá cuộc sống xung quanh. Các em dường như ít cần và ít muốn gần gũi ba mẹ. Còn ba mẹ của chúng thì ngược lại: càng về già, càng lớn tuổi, luôn muốn con cái gần gũi bên mình. Vì thế mà Tagore đã rất tinh tế khi nhận ra điều này. Ông đã khuyên các bậc làm cha làm mẹ không nên ích kỉ giữ con lại bên mình. Hãy để chúng được tự do có bạn, có những trò chơi riêng…Điều này ta bắt gặp rõ nhất trong bài thơ “Món quà”. Bài thơ là thông điệp yêu thương của ba mẹ dành cho con cái. Trong bài thơ, Tagore nói về tấm lòng khoan dung của cha mẹ dành cho con khi con đang tuổi trưởng thành. Người cha, người mẹ trong bài thơ luôn dành cho con mình những tình cảm tốt đẹp nhất. Họ cũng muốn con mình gần gũi bên mình, nhưng họ không muốn dùng những món quà, những cám dỗ bên ngoài để mua chuộc trái tim con. Bởi họ hiểu rằng, khi con họ lớn lên tất yếu sẽ lìa xa họ để tìm những thú vui và bè bạn riêng. Hiểu được điều đó nên tấm lòng của các bậc làm cha, làm mẹ luôn rộng lượng, khoan dung đối với con mình. Họ lặng lẽ, cao vời như ngọn núi âm thầm, trìu mến nhìn dòng sông chảy xiết.
Qua bài thơ, nhà thơ muốn cho chúng ta hiểu rằng: bất cứ người cha, người mẹ nào cũng muốn dành tình cảm tốt đẹp cho con. Khi con lớn, cha mẹ muốn “cho con một thứ gì”. Bởi họ dự đoán được điều tất yếu rằng khi con cái họ lớn lên thì sẽ tách ra khỏi họ. Lúc bấy giờ cha mẹ luôn nghĩ rằng mình không còn chỗ trong trái tim con, và rồi con mình sẽ quên mất đi tình cảm của mình. Như thế, họ cố gắng níu kéo:
“Con ơi, ta muốn cho con một thứ gì
Bởi rồi đây chúng ta sẽ bị cuốn đi
theo dòng sông trần thế
cuộc đời chúng ta rồi sẽ bị tách ra
và tình ta sẽ rơi vào quên lãng”
Mặc dù luôn muốn con cái ở gần bên mình, nhưng cha mẹ không ích kỉ, không “điên rồ” dùng những món quà để mua chuộc trái tim con, họ nói:
“Nhưng ta không điên rồ đến nỗi
hi vọng có thể dùng những món quà
để mua trái tim con”
Nhà thơ trong vai trò là cha mẹ hiểu rằng, khi đứa con lớn lên sẽ chịu sự chi phối bởi hàng trăm mối quan hệ xã hội. Và đường đời của chúng còn rất dài, còn biết bao điều cần phát hiện. Hiểu được điều đó, vậy nên cho dù con cái có mải mê với những thú vui và bạn bè của chúng mà tách rời cha mẹ thì cũng không có gì là đáng trách. Ta hãy nghe lời nói chân thành của những người làm cha, làm mẹ:
“Đời của con còn trẻ
Đường của con còn dài
Và mối tình ta mang đến cho con
Con uống luôn một ngụm
Rồi con bỏ chúng ta mà quay lưng đi thẳng
Con có những trò chơi và bè bạn của con
Nếu con không có thì giờ tưởng nhớ đến ta
thì cũng chẳng có gì đáng trách”
Và cho dù không được con cái tưởng nhớ đến, nhưng cha mẹ vẫn dành cho con mình những tình cảm tốt đẹp nhất. Khi tuổi đã về già, có thời gian nhàn rỗi , cha mẹ chỉ luôn nghĩ về con:
“Còn chúng ta, tất nhiên trong tuổi già
Chúng ta có đủ thời giờ nhàn rỗi
Để đếm những ngày đã trôi qua
và để ôm ấp trong lòng ta
Những thứ mà tay ta đã mất đi mãi mãi”
Cha mẹ luôn muốn con cái gần gũi bên mình lúc tuổi già. Tuy nhiên họ vẫn dành tấm lòng trìu mến cho những đứa con. Họ lặng lẽ trong sự thương yêu đến im lời. Những đứa con như những dòng sông chảy xiết, vui đùa, vùng vẫy chạy theo dòng đời. Còn tình của cha mẹ cao vời như ngọn núi đứng nhìn trìu mến dòng sông:
“Dòng sông vừa chảy xiết vừa ca
và đập tan hết những thứ gì ngăn cản
Nhưng núi thì ở lại, nhớ mong
Và nhìn theo dòng sông
Với tấm lòng trìu mến”
Thật đáng trân trọng và kính yêu biết bao tình cảm của cha mẹ dành cho con. Họ đã không quản nhọc mệt để sinh ra và nuôi nấng con mình. Và khi con trưởng thành, họ lại một lần nữa là người hiểu và thông cảm cho những ước mơ và khát vọng của con. Họ lặng lẽ hi sinh niềm vui của mình để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con.
Bài thơ cho người đọc nhận ra những tình cảm cao quí của cha mẹ dành cho con. Đồng thời, thông qua bài thơ, nhà thơ như nhắc nhở hay nói đúng hơn là yêu cầu những người là cha, là mẹ hãy hiểu và có lòng khoan dung độ lượng đối với con mình. Nhà thơ yêu cầu người lớn hiểu rằng, khi con trẻ của chúng ta đang bước vào trong tuổi trưởng thành, chúng luôn có khát vọng đi xa trong cuộc sống rộng mở. Khi hiểu được điều này, người lớn cần có tấm lòng khoan dung cho những hành động và nghĩ suy thoát ly khỏi gia đình của các em.
3. Đặc sắc của nghệ thuật xây dựng hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non”.
Hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non” là một đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của thi hào Tagore. Để có được hình tượng trẻ em sinh động và hấp dẫn đến như vậy không phải là điều đơn giản. Chỉ có những nhà thơ có tâm huyết và thật sự đạt đến tầm cao nghệ thuật mới có thể sáng tạo nên hình tượng trẻ em sinh động đến như vậy. Và với Tagore, ông còn xuất phát từ tình yêu dành cho con trẻ thật sâu sắc. Vì vậy hình tượng trẻ em hiện lên trong thơ ông vừa gần gũi thân thiết vừa sinh động, hấp dẫn.
Mặc dù chúng ta không được tiếp xúc với thơ Tagore ở dạng nguyên bản. Nhưng qua các bài dịch ta vẫn cảm nhận được cái hay, cái đẹp của từng câu thơ, ý thơ. Trong tập thơ “Trăng non”, ta bắt gặp nhiều bút pháp nghệ thuật đặc sắc trong việc xây dựng hình tượng trẻ em. Đó là các bút pháp: tương phản, bút pháp hiện thực kết hợp huyền ảo, bút pháp tượng trưng, so sánh, ẩn dụ…Chính nhờ vận dụng một cách linh hoạt tất cả các bút pháp nghệ thuật này mà hình tượng trẻ em được Tagore xây dựng hiện lên thật đặc sắc. Nó để lại ấn tượng khá sâu trong lòng người đọc.
Sau đây, chúng ta cùng đi vào tìm hiểu một số bút pháp nghệ thuật được Tagore sử dụng trong việc khắc họa hình tượng trẻ em.
3.1. Nghệ thuật xây dựng hình tượng trẻ em theo thủ pháp tương phản
Để làm nổi bật hình tượng trẻ em, nhà thơ đã vận dụng khéo léo nghệ thuật tương phản. Trong tập thơ “Trăng non”, ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh tương phản.
Bài thơ “Mây và sóng” được nhà thơ phác họa bằng một loạt những hình ảnh tương phản chồng chất lên nhau, làm tăng sức hấp dẫn đối với người đọc. Bằng một thứ ngôn ngữ trong trẻo của trẻ nhỏ, em đã kể cho mẹ nghe:
“Mẹ ơi, những người sống trên mây đang gọi con:
“Chúng ta chơi đùa từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà.
Chúng ta chơi với buổi sớm mai vàng,
Chúng ta chơi với vầng trăng bạc.
…
Những người sống trong sóng nước gọi con:
“Chúng ta hát từ sớm mai đến tối
Chúng ta ngao du khắp nơi này nơi nọ
mà không biết mình đã từng qua những nơi nào.”
Trước hết, bài thơ là sự tưởng tượng phong phú của trẻ thơ về thế giới bên ngoài- thế giới của mây và nước. Mây và nước được vẽ lên từ những đường nét tương phản: cao (mây) >< thấp (nước) tạo độ thông thoáng cho bức tranh thiên nhiên, làm cho bức tranh ấy có cả ba chiều: cao, rộng, sâu.
Trong bài thơ không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tương phản với thiên nhiên, mà ta còn bắt gặp hình ảnh con người tương phản với thiên nhiên: Mây và sóng >< mẹ và con. Đây có thể coi là sự tương phản giữa hư vô >< thực tại, giữa thiên đường >< trần thế, làm cho bài thơ mang tính chất diệu kì thường hay gặp trong những truyện cổ tích. Thế giới của những người sống trong mây trong nước là sản phẩm của sự tưởng tượng trong tâm hồn em bé. “Mây và sóng” là những hình ảnh tượng trưng chỉ cuộc sống bao la, tự do, rộng mở. Dùng những hình ảnh này, nhà thơ còn muốn cho người đọc thấy được trẻ em có một trí tưởng tưởng rất phong phú. Điều này vốn có ở đa số trẻ em. Chúng ta phải biết trân trọng và tạo điều kiện cho trẻ phát huy trí tưởng tượng của chúng.
Khi đã tưởng tượng ra những trò vui và những lời rủ rê của các bạn mây, bạn sóng. Em bé trả lời sự mời gọi của bạn mây rằng:
“Mẹ tôi đang đợi tôi ở nhà
Làm sao có thể bỏ mẹ tôi mà đi được?”
Thế rồi họ cười rồi bay đi mất
Nhưng con biết một trò chơi thích hơn trò ấy, mẹ ơi,
Con sẽ là mây và mẹ sẽ là trăng
Con sẽ lấy hai tay trùm lên người mẹ,
Và mái nhà sẽ là bầu trời xanh thẳm”
Qua ngôn ngữ ngây thơ của bé, ta lại bắt gặp hình ảnh tương phản: con (là mây) >< mẹ (là trăng). Đây là sự tương phản nhau giữa con người với con người- “tương phản nhau về khái niệm” [10; 137]. Nó được vẽ bằng chính sự tưởng tượng của bé.
Và sau khi từ chối lời mời gọi của sóng:
“Buổi chiều, mẹ tôi luôn muốn tôi ở nhà với mẹ
Làm sao tôi bỏ mẹ tôi mà đi được?”
Bé lại nói với mẹ:
“Nhưng con biết một trò chơi hay hơn trò ấy,
Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng.
Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi
Và vỗ vào gối mẹ, cười vang.
Và không một ai trên cõi đời này biết mẹ con ta đang ở”
Ở đây, ta lại tiếp tục bắt gặp một hình ảnh thứ hai tương phản nhau về khái niệm. Đó là biển (con) >< bờ (mẹ). “Những hình ảnh tương phản nhau về khái niệm đó đã giúp cho Tagore làm nổi bật lên tình yêu thương của bé đối với mẹ” [10; 137]. Bé đã từ chối việc đi chơi đầy thích thú, đầy quyến rủ của các bạn mây và sóng. Thật ra, không phải em không muốn đi chơi với các bạn mây và song mà vì em chưa có khả năng để đi, nên em tạm thời ở chơi bên cạnh mẹ . Đối với em, trò chơi ở gần bên mẹ chính là sự tập dượt để khi lớn lên em có thể đi xa như các bạn “mây và sóng”. Mẹ là người tập cho bé những trò chơi bước đầu, định hình cho những khát vọng sau này của bé. Ở bên mẹ, bé sẽ là mây, mẹ là trăng và bé là sóng còn mẹ là bờ biển lạ lùng. Mây- trăng luôn gắn bó, luôn có nhau trên cùng bầu trời; biển- bờ luôn đi liền bên nhau. Điều này tạo ra nghĩa ẩn dụ trong bài thơ: Sự gắn bó giữa mây- trăng; biển- bờ cũng giống như sự gắn bó giữa mẹ- con.
Qua đây, nhà thơ muốn bộc lộ một quan niệm khá tiêu biểu, không kém phần quan trọng. Đó là “tình mẹ con, tình mẫu tử không thể tách rời- không ai trên đời này có thể yêu mẹ bằng chính những đứa con do mẹ đã sinh ra, với con mẹ là tất cả, là vầng trăng dịu êm của mùa hạ, là bờ cát hiền từ che chở cho con những lúc sóng to, gió lớn” [10; 138].
Thông qua tầng ý nghĩa do cặp phạm trù tương phản giữa hư vô và thực tại, chúng ta rút ra được bài học triết lí của nhà thơ về cuộc đời: “Nhà thơ khuyên chúng ta đừng bao giờ tìm kiếm hạnh phúc ở đâu xa mà hạnh phúc của con người có ở ngay trên quả đất này, nó không phải ở trong thiên đường, mà cũng không phải ở tầng sâu địa ngục mà nó ở ngay trong lòng mỗi người. Đừng bao giờ đi tìm cái hư vô, tìm những vật “không mong gì có được”, hãy bằng lòng với thực tại và đi tìm hạnh phúc của mình trên chính cuộc đời này” [10; 138].
Bài học triết lí của Tagore mà chúng ta vừa rút ra được, giúp chúng ta hiểu thêm rằng hạnh phúc của trẻ em ở ngay trong tình yêu thương của mẹ. Trẻ cần đến mẹ cũng như bông hoa cần đến ánh sáng mặt trời. Có ánh sáng mặt trời, bông hoa sẽ tươi tốt, tràn đầy nhựa sống. Trẻ em có tình thương của mẹ, các em sẽ thật sự có lòng tin và niềm hạnh phúc trọn vẹn để vui sống trong cuộc đời.
Ngoài bài “Mây và sóng”, ta còn bắt gặp rất nhiều hình ảnh tương phản nhằm làm nổi bật hình tượng trẻ em. Bài thơ “Trên bờ biển”, nhà thơ đã tạo ra hàng loạt hình ảnh tương phản để thể hiện được đặc điểm là trẻ em vốn thích khám phá và tìm hiểu thế giới bên ngoài bất chấp sự nguy hiểm đe dọa tính mạng các em. Đó là sự tương phản giữa ước mơ của bé với các hiện tượng thiên nhiên nguy hiểm. Trong bài thơ, các em bé muốn đến chơi chỗ gần bờ biển. Nhưng ở nơi này có hàng loạt sự nguy hiểm đang đến gần đe dọa các em: “nước gào réo liên hồi”, “dông tố gầm lên”, còn bầu trời thì “xám xịt không lối đi”, dưới mặt biển thì “thuyền bè đắm”…và “cái chết ở ngoài kia”. Các hình ảnh này tương phản với sự vô tư hồn nhiên của các em. Các em mặc cho sự nguy hiểm đang đến gần, các em “vẫn đùa chơi”. Qua sự tương phản này, nhà thơ muốn làm nổi bật đặc tính ngây thơ, hồn nhiên, thích vui đùa và khám phá thế giới của trẻ thơ. Vì vậy mà hình tượng trẻ em trở nên sinh động, hấp dẫn, tạo được ấn tượng đẹp trong lòng người đọc.
3.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng trẻ em theo phương pháp hiện thực kết hợp huyền ảo.
Trong việc khắc họa hình tượng trẻ em, để làm nổi bật hình tượng đó, đồng thời để bày tỏ quan niệm của mình,Tagore thường kết hợp khéo léo hai yếu tố hiện thực với huyền ảo.
“Huyền ảo là những gì vừa như thực, vừa như hư, như trong giấc mơ, thường tạo ra được vẻ đẹp kì lạ và bí ẩn, lấp lánh màu sắc lung linh huyền diệu” [7; 885].
Khi kết hợp hiện thực với huyền ảo trong xây dựng hình tượng trẻ em, nhà thơ thường dùng những huyền thoại, những hình ảnh thần bí, những hình ảnh hư ảo để biểu hiện, để thông báo một ý nghĩa hiện thực nhất định. Bởi vì đằng sau lớp từ, lớp hình ảnh hư ảo thì cốt lõi của hiện thực sẽ được phơi bày.
Trong tập thơ “Trăng non”, cốt lõi của hiện thực được tác giả biểu hiện qua việc chọn đề tài từ truyện cổ tích, thần thoại. Trong bài thơ “Bản hợp đồng cuối cùng”, nhà thơ xây dựng những hình ảnh, những chi tiết, những chất liệu mang âm hưởng của truyện cổ tích Ấn Độ. Câu chuyện thơ kể về một anh làm thuê, buổi sáng anh ta rao lên để tìm người thuê anh “Nào ai thuê tôi thì đến đây thuê”. Nhà vua đến thuê anh bằng quyền lực ông ta: “Ta muốn thuê ngươi bằng quyền lực của ta” ; lão trọc phú giàu có, nhiều tiền đến thuê anh bằng tiền bạc của ông ta: “Ta sẽ thuê ngươi bằng tiền bạc của ta” và đến lượt cô gái xinh đẹp đến thuê anh bằng nụ cười: “Tôi sẽ thuê anh bằng một nụ cười”. Nhưng tất cả những thứ đó anh đều không cần, mà anh lại chấp nhận lời của em bé khi em chỉ thuê anh bằng hai tay trắng: “Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng”. Anh đã ký bản hợp đồng chơi với cậu bé:
“và từ khi bản hợp đồng được kí kết
tôi đã thành người tự do”
Qua câu chuyện thơ này, Tagore muốn bộc lộ một một điều là khi đến với tâm hồn em bé, người lớn sẽ được tự do. Bởi nơi tâm hồn em bé chưa chứa đựng những tham vọng, những quyền uy, danh lợi và sắc đẹp (hạnh phúc cá nhân). Nơi tâm hồn em, chỉ có một vẻ hồn nhiên, ngây thơ rất đáng yêu.
Thông qua những chi tiết, những hình ảnh có tính chất hư ảo như trong truyện cổ tích, nhà thơ muốn người đọc hiểu được hiện thực bên trong của các hình ảnh, các chi tiết đó. Đó là hiện thực về tâm hồn trong sáng của trẻ thơ, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về nét đẹp trong tâm hồn của các em.
Bên cạnh những chi tiết mang màu sắc cổ tích, tác giả còn huyền thoại hóa một số đề tài như tình mẹ và con để làm nổi bật tình cảm của trẻ thơ đối với mẹ.
Trong bài nói chuyện “Trường học của tôi”, nhà thơ nói rằng: “Một đứa bé sinh ra phải được nuôi bằng sữa mẹ, do đó nó vừa biết thứ sữa mình ăn, vừa biết cả người mẹ mình nữa. Thứ đồ ăn của bé đó vừa nuôi được cơ thể vừa nuôi được cả tâm hồn bé” [7; 458]. Và “Đứa trẻ được sinh ra đã được những người thân yêu nâng đỡ, chăm chút, lớn lên mới biết bản thân mình.” [7; 458]. Chính vì được gắn bó trong tình yêu thương và sự chăm sóc của người mẹ mà bé yêu mẹ hơn cả mọi thứ trên đời. Bài thơ “Mây và sóng” thể hiện khá rõ điều này. Đứa trẻ trong bài thơ rất thích được cùng vui chơi với các bạn mây và bạn sóng. Đây vốn là đặc điểm vốn có ở trẻ thơ. Tagore cũng đã nói lên điều này trong bài nói chuyện “Trường học của tôi”: “Ta biết rằng con trẻ hay thích lăn lộn với đất bụi, sở thích của chúng là muốn hít thở không khí, đón chào ánh sáng; cũng như bông hoa cần đến khí trời và ánh sáng để nảy nở” [7; 459]. Thế nhưng em bé trong bài thơ, tuy bị cám dỗ bởi hàng loạt những trò chơi thú vị của các bạn mây và sóng. Những trò chơi đó rất thu hút em! Còn gì thú vị bằng khi bé được “chơi đùa từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà; chơi với buổi sớm mai vàng; chơi với vầng trăng bạc” và “hát từ sớm mai đến tối; ngao du khắp nơi này nơi nọ”. Nhưng em đã từ chối những trò chơi đầy uyến rũ đó. Bởi em bé biết rằng mặc dù những trò chơi của các bạn mây và sóng thú vị thật đấy, vui thật đấy, nhưng niềm vui và niềm hạnh phúc thật sự của em chỉ khi em ở bên cạnh mẹ, chơi cùng với mẹ, sống trong sự gần gũi và tình yêu thương của người mẹ. Vì thế mà em đã nghĩ ra “một trò chơi hay hơn trò ấy”. Đó là em sẽ là mây, mẹ là trăng; em sẽ là biển còn mẹ là bờ. Mây – trăng, biển- bờ luôn gắn bó với nhau cũng giống như em bé gần gũi, quấn quít bên mẹ.
Qua việc khắc họa những hình ảnh nói lên tình mẹ và con, nhà thơ cho chúng ta hiểu được quan niệm của ông rằng: hạnh phúc thật sự của bé chỉ có trong tình thương yêu của người mẹ.
Thông qua việc nhà thơ huyền thoại hóa tình mẹ và con bằng các hình ảnh mây- trăng; biển- bờ, cho người đọc cảm nhận một cách sâu sắc tình cảm của trẻ thơ đối với mẹ. Đó là tình cảm thiêng liêng của bé dành cho mẹ, không gì có thể đánh đổi được.
Chính nhờ việc sử dụng những hình ảnh, những yếu tố mang đậm màu sắc của truyện cổ tích, thần thoại như đã phân tích trên, ta thấy hình tượng trẻ em hiện lên với đầy đủ bản chất của chúng: một tâm hồn ngây thơ trong sáng, một ước mơ muốn khám phá những điều mới lạ, đặc biệt là một tình yêu mẹ thắm thiết. Nhờ vậy mà hình tượng trẻ em được nhà thơ khắc họa luôn được sự yêu mến của nhiều người đọc.
3.3.Vận dụng thủ pháp tượng trưng, so sánh, ẩn dụ trong việc xây dựng hình tượng trẻ em.
Khi nhận xét về việc vận dụng thủ pháp tượng trưng, so sánh, ẩn dụ trong thơ Tagore nói chung, Lưu Đức Trung viết: “Thủ pháp tượng trưng, so sánh, ẩn dụ trong thơ Tagore thường mang ý nghĩa liên tưởng, vừa so sánh vừa tượng trưng, vừa so sánh vừa ẩn dụ” [7; 895].
Tượng trưng được hiểu theo nghĩa rộng là “hình tượng biểu hiện ở bình diện kí hiệu, là kí hiệu chứa tính đa nghĩa của hình tượng” [3; 266]. Còn theo nghĩa hẹp “tượng trưng là một dạng chuyển nghĩa” [3; 266].
Còn “ẩn dụ với nghĩa là ví ngầm, gắn liền với những tưởng tượng, liên tưởng cảm nhận sống động của chủ thể, tạo hình, cá thể hóa” [7; 895].
Trong tập thơ “Trăng non”, các thủ pháp nghệ thuật trên được Tagore sử dụng rất linh hoạt để xây dựng những sắc màu cuộc sống sinh động trong thế giới trẻ thơ. Đồng thời cũng để làm nổi bật ý nghĩa, hình ảnh thơ.
Trong thơ ca hiện đại, “tượng trưng, ẩn dụ là sự va chạm giữa các từ trong sự đối lập giữa các yếu tố thực và ảo, là hình ảnh cô đúc của sự khái quát nghệ thuật, mang sắc thái tinh vi của cảm xúc, của ý nghĩ để mở ra chân trời liên tưởng bát ngát” [10; 139].
Trong tập thơ “Trăng non”, nhà thơ đã dùng hình ảnh tượng trưng, so sánh, ẩn dụ như một phương tiện tạo hình, biểu hiện tạo ra ấn tượng thẩm mỹ hết sức phong phú cho người đọc, giúp người đọc có khả năng nhận thấy được những cảnh tượng, hình ảnh sống động. Điều này, ta bắt gặp rõ trong bài thơ “Nhà thiên văn”. Trong bài thơ, Tagore dùng hình ảnh “trăng tròn” để tượng trưng cho người mẹ. Mặc dù trăng ở xa và rất to, ở dưới đất chúng ta không thể nào với tới được. Thế nhưng trong trí tưởng tượng của trẻ thơ, trăng lại hóa ra rất gần gũi, thân thiết giống như người mẹ đang tựa cửa trông con mình chơi dưới sân:
“Khi mẹ nhìn qua cửa sổ,
Thấy chúng mình nghịch ngợm dưới sân chơi,
Lẽ nào anh cũng bảo mẹ ở xa vời!”
Và : “Khi mẹ cúi đầu ôm hôn chúng mình,
Mặt mẹ to biết dường nào!”
Bài thơ là một chuỗi dài các câu hỏi, thể hiện sự băn khoăn của trẻ thơ. Tagore giải tỏa bằng hình ảnh tượng trưng để phá tan sự nhập nhòa chưa giải thích nổi của tâm hồn trẻ thơ. Hình ảnh người mẹ trở nên cao vời và đẹp đẽ biết dường nào.
Trong bài thơ “Buổi sơ khai”, nhà thơ cho rằng trẻ thơ trong “Trăng non” từ xưa đã là hình ảnh tượng trưng cho những gì cao siêu thần bí. Các em là hình ảnh của chúa Đời, là đóa hoa, là mây, trời, sóng biển…
“Con là đứa con cưng của Thượng đế
là anh em sinh đôi với ánh bình minh”
và cuối cùng con là “kho vàng trên cõi thế”.
Tất cả các hình ảnh tượng trưng trên nhằm nói đến những nét đẹp trong tâm hồn trẻ thơ. Trẻ thơ là tượng trưng của những cái thanh khiết, trong sạch.
Ngoài các hình ảnh trên, ta còn bắt gặp hàng loạt những hình ảnh tượng trưng khác. Hình ảnh “thuyền” và “biển” trong bài “Người lái thuyền” cũng là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng. Hình ảnh “thuyền” và “biển” là tượng trưng cho niềm mơ ước, khao khát của trẻ em về một thế giới thần tiên, huyền ảo. Con thuyền bồng bềnh ngao du trong cõi xa khơi, trong nhịp thơ giàu cảm xúc:
… “Chúng con sẽ vui sướng giong buồm vượt qua
bảy biển mười ba sông của xứ sở thần tiên…”
Nếu như ở bài thơ “Nhà thiên văn”, ta nói “trăng” là hình ảnh tượng trưng cho người mẹ.Thì ở bài thơ “Từ đâu”, trăng còn là hình ảnh trẻ thơ, là sự chất lọc từ bầu trời bao la bát ngát của những gì tinh túy. Trong bài thơ, Tagore đã ví “nụ cười khẽ rung đôi môi em bé ngủ” giống như hình ảnh của “tia trăng non vàng viền quanh đám mây thu tàn”.
Bài thơ “Bài hát của mẹ” cũng đã ẩn chứa hàng loạt hình ảnh so sánh. Nhà thơ đã ví “bài hát của mẹ” như “vòng tay ôm ấp tỏa hơi ấm tình thương”, như “ngôi sao chiếu sáng trong đêm tối con đi”
Hình ảnh “con đò” trong bài thơ “Bờ bên kia” là một hình ảnh ẩn dụ. Người lái đò chính là em bé, con đò là sự hiện thân của chiếc cầu nối giữa bên này với bên kia bờ sông. Điều này thể hiện khát vọng tìm hiểu, khám phá thế giới của tâm hồn em bé. Em bé đã nghe người ta nói nhiều về nơi “bờ bên kia”:
“Người ta nói rằng bên kia bờ cao có nhiều ao đưa khách
Ở đó, từng đàn vịt trời bay tới khi mưa lạnh,
Và lau sậy rậm rịt quanh bờ chỗ le le đẻ trứng;
Ở đó, loài cuốc múa tít đuôi,
in dấu chân xinh trên nền đất sạch mềm;
Ở đó, ban đêm lau trổ cờ trắng xóa mời ánh trăng đong đưa.”
Qua những hình ảnh trên, ta thấy hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ…có khi chỉ là một từ, một câu thơ, lại có khi là cả đoạn thơ. Nhà thơ đã sử dụng một cách linh hoạt để làm nổi bật vẻ đẹp nghệ thuật của bài thơ. Ta thấy, chính nhờ bút pháp tượng trưng, so sánh, ẩn dụ mà hình ảnh trẻ thơ trong “Trăng non” trở nên thật sinh động, thật đa dạng nhiều dáng vẻ.
Những từ ngữ so sánh “là”, “như”, “sẽ là”…tạo nên nhiều dáng vẻ trong thế giới tâm hồn trẻ thơ. Đó là hình ảnh cảm động về tình mẹ con, những giấc mơ đẹp… Những hình ảnh này giúp người đọc cảm nhận một cách đầy đủ về thế giới tâm hồn trẻ thơ.
Nhìn chung, hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non” được nhà thơ khắc họa bằng những bút pháp nghệ thuật đặc sắc đã hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp. Ta bắt gặp ở trẻ thơ một tâm hồn ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên, một trí tưởng tượng phong phú, một khát vọng khám phá những điều mới lạ. Đặc biệt, chúng ta thấy ở trẻ thơ một tình yêu mẹ tha thiết. Qua những nét đẹp của trẻ thơ, nhà thơ muốn nhắn nhủ trẻ em nên biết phát huy và giữ gìn bản chất tâm hồn vốn có. Đồng thời, nhà thơ còn nhắn nhủ người lớn cần có thái độ đối xử đúng đắn với các em, phải có một tình yêu thương các em chân thành và sâu sắc.
Điều góp phần làm nên thành công trong việc khắc họa hình tượng trẻ em chính là ở sự khéo léo vận dụng các thủ pháp nghệ thuật vào trong thơ của thi hào Tagore.
PHẦN KẾT LUẬN
ﻫ ﻫ ﻫ
Ấn Độ là một đất nước có nền văn minh phát triển từ lâu đời. Và nơi đây là mãi là một mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, văn học. Đặc biệt ở lĩnh vực văn học, Ấn Độ đã có nhiều tác phẩm mang bản sắc văn hóa và quan niệm tiêu biểu của người Ấn Độ. Trong nền văn học Ấn Độ Cổ đại, tác phẩm gây tiếng vang và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc nhiều thế hệ, nhiều quốc gia phải kể đến hai bộ sử thi đồ sộ Ramayana và Mahabharata. Còn trong nền văn học Ấn Độ hiện đại, có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của nhiều tác giả tiêu biểu. Nhưng có lẽ tiêu biểu hơn cả là thi hào Tagore. “Tagore là một tổng hợp thiên tài kì diệu của văn học Ấn Độ” [10; 26]. Bởi “Sáng tác của Tago cho thấy trí tuệ thâm nhập thật sâu xa, chất thơ thật huyền hoặc và tinh thần thật tha thiết. Những sáng tác ấy đã bộc lộ được những gì nhân loại hằng mơ ước và khao khát” [10; 29].
Tagore sáng tác thành công ở nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, hồi kí…Nhưng có lẽ ông thành công hơn cả là lĩnh vực thơ ca. Ông đã sáng tác rất nhiều tập thơ (52 tập), trong đó ông dành riêng một tập để viết về trẻ em với tình cảm chân thành của một người ông, người cha thật sự yêu thương con trẻ. Đó là tập “Trăng non” (The Crescent Moon). Tập thơ có nhiều vấn đề để nghiên cứu. Ở đề tài “Hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non” của nhà thơ R. Tagore”, người viết đã đặc biệt đi sâu nghiên cứu nhiều khía cạnh về hình tượng trẻ em, cái mà trước đây đã được nhắc đến một cách khái quát trong các công trình nghiên cứu khác. Người viết đã tập trung đi sâu vào tìm hiểu hình tượng trẻ em- hình tượng cốt lõi của tập thơ. Chính vì vậy, qua quá trình tìm hiểu, luận văn có thể rút ra những kết luận sau:
1. Hình tượng trẻ em là yếu tố cốt lõi được Tagore xây dựng để biểu hiện một quan niệm, một nhận thức của nhà thơ về thế giới tâm hồn trẻ em. Trẻ em được kết tinh từ nét đẹp của một thiên thần.
Hình tượng trẻ em được nhà thơ khắc họa với đầy đủ những nét tiêu biểu. Các em có một bản tính ngây thơ, một tâm hồn trong sáng, một trí tưởng tượng phong phú cùng với những ước mơ khám phá những điều mới lạ. Đặc biệt, trẻ em còn có một tình thương thắm thiết. Chính điều này đã giúp các em có niềm tin để vui sống trong cuộc đời. Các em chỉ thật sự có niềm vui và hạnh phúc khi các em sống trong tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ. Những người làm cha, làm mẹ nên thật sự hiểu con mình để dành cho chúng những tình cảm tốt đẹp nhất. Đó là lời nhắn nhủ chân thành của nhà thơ trong thái độ đối xử của cha mẹ dành cho con trẻ. Cũng thông qua đó, nhà thơ muốn khuyên dạy trẻ thơ cần phát huy và giữ gìn những bản chất tâm hồn trong sáng của mình để các em thật sự dành được tình cảm thương yêu của tất cả mọi người.
2. Hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non” là một hình tượng nghệ thuật tiêu biểu. Nhà thơ đã thể hiện chúng bằng một biện pháp nghệ thuật thật đơn giản, nhưng đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Bút pháp nghệ thuật tương phản, kết hợp hiện thực với huyền ảo, thủ pháp tượng trưng, so sánh, ẩn dụ là những biện pháp nghệ thuật chính được tác giả khéo léo vận dụng để làm cho hình tượng trẻ em trở nên sinh động. Và đặc biệt, bằng chất liệu ngôn từ ngộ nghĩnh tưởng chừng như đơn giản nhưng lại phù hợp với ngôn ngữ trẻ thơ đã tạo nên một hình tượng trẻ em thật sinh động và hấp dẫn.
Như vậy, với việc đi sâu nghiên cứu trọn vẹn hình tượng trẻ em trong tập thơ “Trăng non”, luận văn đã đem đến cái nhìn toàn diện, sâu sắc về một hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Đồng thời luận văn cũng ít nhiều đã khơi dậy được những giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ. Điều này giúp người đọc hiểu thêm được quan niệm của nhà thơ trong việc xây dựng hình tượng trẻ em. Một lần nữa, người viết khẳng định rằng những đóng góp mới của đề tài là sự đào sâu, khai thác một cách đầy đủ và trọn vẹn để thấy được nhhững cái hay, cái đẹp của hình tượng trẻ em trong “Trăng non”.
Sau này nếu có điều kiện, người viết mong sẽ được tiếp tục nghiên cứu về các tập thơ khác của thi hào Tagore. Người viết hi vọng tìm hiểu sâu được “Quan niệm của Tagore về tình yêu nam nữ trong hai tập Người làm vườn và Tặng phẩm người yêu”. Từ đó, người viết mong rằng sẽ hiểu rõ quan niệm của nhà thơ về tình yêu, hạnh phúc… mà ông đã thể hiện hầu hết trong các sáng tác thơ của mình.
Hết
*
SV Nguyễn Thị Thơm
An Giang 23.4.2007
Share this:
Thích bài này:
Thích
Đang tải…
Có liên quan