Diện tích ao nuôi cá trê vàng thích hợp từ 500-1.000 m2. Mực nước dao động từ 1,6-1,8 m. Ao nuôi bố trí gần nguồn cung cấp nước, chủ động được khâu cấp, thoát nước. Đáy ao ít bùn, bờ ao vững chắc.
Cải tạo ao nuôi bằng cách tát cạn ao, bón vôi 10 kg/100 m2. Phơi đáy ao từ 3-4 ngày, sau đó cấp nước vào qua lưới lọc. Sử dụng bột đậu nành hay bột cá để bón với liều lượng từ 2-3 kg/100 m2 nhằm gây nuôi thức ăn tự nhiên.
2. Thả giống
Cá giống thả nuôi phải đồng đều, kích cỡ từ 5-10 cm, không xây xát, dị hình. Mật độ thả từ 15-20 con/m2. Nên thả cá vào lúc trời mát. Trước khi thả cá cần tắm cá bằng nước muối với liều lượng từ 3-5 g muối ăn/lít nước.
3. Thức ăn
Sử dụng thức ăn công nghiệp có bổ sung thức ăn tự chế từ phụ phế phẩm nông nghiệp như tấm, cám, phụ phế phẩm của nhà máy chế biến thuỷ sản, phế phẩm từ lò mổ gia súc, các loại tôm tép, cua, ốc, cá tạp…
Tuỳ theo các giai đoạn phát triển, lượng thức ăn hằng ngày cho cá trê vàng dao động từ 5-7% trọng lượng cá trong ao. Hàm lượng chất đạm cần thiết để duy trì cá phát triển tốt ở tháng thứ 1 là từ 28-30%, tháng thứ 2 là 24-26% và tháng thứ 3 là 18-20%. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần. Nên dùng sàng cho ăn và lập nhiều điểm cho ăn ở trong ao để cá phát triển đều hơn.
4. Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Cần duy trì mực nước trong ao nuôi ổn định trong suốt vụ nuôi. Định kỳ thay nước từ 10-15 ngày/lần, mỗi lần thay 1/3 nước trong ao. Thường xuyên kiểm tra bờ, bọng, rào chắn cẩn thận đề phòng sự thất thoát cá nuôi, nhất là vào mùa mưa lũ.
Theo dõi hoạt động của cá hằng ngày. Điều chỉnh lượng thức ăn sao cho vừa đủ, không thừa mà cũng không thiếu. Định kỳ 2 lần/tuần trộn thêm Vitamine C (từ 60-100 mg/kg thức ăn) và chất khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cũng như giúp cá tăng trưởng tốt hơn.
5. Phòng trị bệnh cho cá trê vàng
– Bệnh nhầy da: Bệnh này do ký sinh trùng gây ra. Khi nhiễm bệnh cá bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn, da có đám chất nhầy. Điều trị bệnh nhầy da bằng sunphat đồng 0,3 g/m3 nước, tắm trong 2-3 ngày liên tục hoặc dùng Fomalin 25 g/m3 tắm trong 2 ngày liên tục.
– Bệnh trắng da khoang thân: Khi mắc bệnh cá thường nổi trên mặt nước, da bị loét, thân có những vệt trắng, vây cụt. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra. Điều trị bệnh bằng các loại thuốc kháng sinh như Chloroxit, Tetracilin, Penixilin tắm cho cá trong 30 phút. Liều lượng 1 viên 250 mg/10 lít nước.
– Bệnh trùng quả dưa: Thân cá tại gốc vây ngực có nhiều chấm nhỏ như hạt tấm màu trắng. Các chấm này vỡ ra tạo nên các vết loét ở chỗ vỡ. Điều trị bệnh bằng cách tắm cá bằng thuốc Vernalachite hay Greenmetil 0,1 g/m3 trong 3-4 ngày hoặc dùng Formalin 25 g/m3 trong 8 ngày liên tục
(Lưu ý: Xanh malachite (malachite green) la thuoc thu y thuy san da duoc bo thuy san cam su dung trong san xuat kinh doanh thuy san theo quyet dinh 07/2005/QD-BTS ngay 24/02/2005)
.
– Bệnh sán lá: Cá bị bệnh có màu đen, đầu to, đuôi nhỏ, mang bị đỏ, cá bơi chậm chạp dựng đứng quanh thành ao. Bệnh do vi khuẩn Dactylogyrus gây nên. Điều trị bằng cách tắm cá trong nước muối 3% trong 3-5 phút hoặc phun trực tiếp thuốc Dipterex
(Lưu ý: Dipterex la thuoc thu y thuy san da duoc bo thuy san cam su dung trong san xuat kinh doanh thuy san theo quyet dinh 07/2005/QD-BTS ngay 24/02/2005)
0,25-0,5 g/m3 trong 1-2 ngày liên tục.
6. Thu hoạch
Sau thời gian từ 5-6 tháng nuôi cá trê vàng sẽ đạt kích cỡ thương phẩm tiến hành thu hoạch một lần./.
Ths. Đoàn Hữu Nghị, Báo Cà Mau, 05/09/2013
Nhân giống và nuôi cá trê
Ở Nam bộ hiện nay có tất cả 3 loài cá trê. Hai loài phân bố tự nhiên là cá trê trắng Clarias batrachus và cá trê vàng Clarias macrocephalus. Loài thứ ba là cá trê phi Clarias gariepinus(trước đây còn có tên khoa học là C. lazera) được De Kimpe, một nhà nghiên cứu nuôi cá người Pháp nhập vào nước ta từ đầu năm 1975. Từ Việt Nam, cá trê phi được nhập qua Lào, Campuchia, Thái Lan. Loài này còn có ở một số nu7óc Nam Á khác như Bangladesh. Ở châu Âu, cá trê phi được nuôi nhiều ở Hà Lan, Cộng Hòa Czech…
Có thể phân biệt 3 loài cá trê ở Nam bộ qua hình thái bên ngoài, đặc biệt là qua phần cuối xương chẩm.
Cá trê vàng là một trong những loài thuỷ sản đặc hữu của vùng đất Cà Mau. Trong vài năm qua, cá trê vàng là loại cá đồng luôn có giá cao và ổn định. Tuy nhiên, nguồn lợi cá trê vàng tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Do đó, nhiều địa phương trong tỉnh đã và đang phát triển mô hình gây nuôi cá trê vàng thương phẩm cho hiệu quả kinh tế rất khả quan, bởi cá trê vàng là đối tượng khá dễ nuôi và chi phí đầu tư thấp.Diện tích ao nuôi cá trê vàng thích hợp từ 500-1.000 m2. Mực nước dao động từ 1,6-1,8 m. Ao nuôi bố trí gần nguồn cung cấp nước, chủ động được khâu cấp, thoát nước. Đáy ao ít bùn, bờ ao vững chắc. Cải tạo ao nuôi bằng cách tát cạn ao, bón vôi 10 kg/100 m2. Phơi đáy ao từ 3-4 ngày, sau đó cấp nước vào qua lưới lọc. Sử dụng bột đậu nành hay bột cá để bón với liều lượng từ 2-3 kg/100 m2 nhằm gây nuôi thức ăn tự nhiên.Cá giống thả nuôi phải đồng đều, kích cỡ từ 5-10 cm, không xây xát, dị hình. Mật độ thả từ 15-20 con/m2. Nên thả cá vào lúc trời mát. Trước khi thả cá cần tắm cá bằng nước muối với liều lượng từ 3-5 g muối ăn/lít nước.Sử dụng thức ăn công nghiệp có bổ sung thức ăn tự chế từ phụ phế phẩm nông nghiệp như tấm, cám, phụ phế phẩm của nhà máy chế biến thuỷ sản, phế phẩm từ lò mổ gia súc, các loại tôm tép, cua, ốc, cá tạp… Tuỳ theo các giai đoạn phát triển, lượng thức ăn hằng ngày cho cá trê vàng dao động từ 5-7% trọng lượng cá trong ao. Hàm lượng chất đạm cần thiết để duy trì cá phát triển tốt ở tháng thứ 1 là từ 28-30%, tháng thứ 2 là 24-26% và tháng thứ 3 là 18-20%. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần. Nên dùng sàng cho ăn và lập nhiều điểm cho ăn ở trong ao để cá phát triển đều hơn.Cần duy trì mực nước trong ao nuôi ổn định trong suốt vụ nuôi. Định kỳ thay nước từ 10-15 ngày/lần, mỗi lần thay 1/3 nước trong ao. Thường xuyên kiểm tra bờ, bọng, rào chắn cẩn thận đề phòng sự thất thoát cá nuôi, nhất là vào mùa mưa lũ. Theo dõi hoạt động của cá hằng ngày. Điều chỉnh lượng thức ăn sao cho vừa đủ, không thừa mà cũng không thiếu. Định kỳ 2 lần/tuần trộn thêm Vitamine C (từ 60-100 mg/kg thức ăn) và chất khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cũng như giúp cá tăng trưởng tốt hơn.- Bệnh nhầy da: Bệnh này do ký sinh trùng gây ra. Khi nhiễm bệnh cá bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn, da có đám chất nhầy. Điều trị bệnh nhầy da bằng sunphat đồng 0,3 g/m3 nước, tắm trong 2-3 ngày liên tục hoặc dùng Fomalin 25 g/m3 tắm trong 2 ngày liên tục. – Bệnh trắng da khoang thân: Khi mắc bệnh cá thường nổi trên mặt nước, da bị loét, thân có những vệt trắng, vây cụt. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra. Điều trị bệnh bằng các loại thuốc kháng sinh như Chloroxit, Tetracilin, Penixilin tắm cho cá trong 30 phút. Liều lượng 1 viên 250 mg/10 lít nước. – Bệnh trùng quả dưa: Thân cá tại gốc vây ngực có nhiều chấm nhỏ như hạt tấm màu trắng. Các chấm này vỡ ra tạo nên các vết loét ở chỗ vỡ. Điều trị bệnh bằng cách tắm cá bằng thuốc Vernalachite hay Greenmetil 0,1 g/m3 trong 3-4 ngày hoặc dùng Formalin 25 g/m3 trong 8 ngày liên tục. – Bệnh sán lá: Cá bị bệnh có màu đen, đầu to, đuôi nhỏ, mang bị đỏ, cá bơi chậm chạp dựng đứng quanh thành ao. Bệnh do vi khuẩn Dactylogyrus gây nên. Điều trị bằng cách tắm cá trong nước muối 3% trong 3-5 phút hoặc phun trực tiếp thuốc Dipterex0,25-0,5 g/m3 trong 1-2 ngày liên tục.Sau thời gian từ 5-6 tháng nuôi cá trê vàng sẽ đạt kích cỡ thương phẩm tiến hành thu hoạch một lần./. Ths. Đoàn Hữu Nghị, Báo Cà Mau, 05/09/2013Ở Nam bộ hiện nay có tất cả 3 loài cá trê. Hai loài phân bố tự nhiên là cá trê trắngvà cá trê vàng. Loài thứ ba là cá trê phi(trước đây còn có tên khoa học là) được De Kimpe, một nhà nghiên cứu nuôi cá người Pháp nhập vào nước ta từ đầu năm 1975. Từ Việt Nam, cá trê phi được nhập qua Lào, Campuchia, Thái Lan. Loài này còn có ở một số nu7óc Nam Á khác như Bangladesh. Ở châu Âu, cá trê phi được nuôi nhiều ở Hà Lan, Cộng Hòa Czech… Có thể phân biệt 3 loài cá trê ở Nam bộ qua hình thái bên ngoài, đặc biệt là qua phần cuối xương chẩm.
Phân biệt cá trê vàng, trê trắng và trê phi theo hình thái xương chẩm.
(1): Trê vàng (2): Trê trắng (3): Trê phi
Cá trê được nuôi phổ biến hiện nay ở miền Nam là con lai F1 giữa cá trê vàng cái và cá trê phi đực. Hướng dẫn này cũng tập trung vào kỹ thuật sinh sảnh nhân tạo con lai nói trên.
Phân biệt đực cái và chọn cá bố mẹ thành thục
Ở các loài cá trê thì con đực thành thục có gai sinh dục (lồi hẳn ra ngoài và có đầu nhọn) nên rất dễ phân biệt với cá cái không có điểm này. Lỗ sinh dục cá trê cái hình tròn hơi cương nhưng không dài và nhọn.
Ở các loài cá trê thì con đực thành thục có gai sinh dục (lồi hẳn ra ngoài và có đầu nhọn) nên rất dễ phân biệt với cá cái không có điểm này. Lỗ sinh dục cá trê cái hình tròn hơi cương nhưng không dài và nhọn.
Phân biệt đực cái ở cá trê: cá đực bên trái có đoạn cuối của ống dẫn tinh hình gai nhọn.
Đặc điểm sinh dục phụ là những biểu hiện về hình thái (có khi là cả tập tính) bên ngoài không có liên hệ trực tiếp với tuyến sinh dục nhưng chịu sự điều khiển của các hormon sinh dục, nhất là các hormon sinh dục đực. Những đặc điểm này biểu hiện khi cá trưởng thành, có tuyến sinh dục phát triển nhưng nổi bật nhất vào mùa sinh sản. Trong thời gian giữa hai mùa sinh sản sự biểu hiện của đặc điểm sinh dục phụ có thể suy giảm ở những mức độ khác nhau.
Ở tất cả các loài cá trê hiện có ở nước ta, cơ quan sinh dục ngoài của con đực và con cái có sự khác biệt về hình thái tương đối rõ. Phần cuối của ống dẫn niệu sinh dục của cá đực phía ngoài thân giống như gai nhọn. Ở cá cái lỗ sinh dục hình tròn.
Những cá đực thành thục tốt có “gai sinh dục” phát triển nổi bật, có tập tính hung hăng. Mỗi khi bị chạm vào, những cá đực thường quẫy mạnh và nhiều hơn các cá khác.
Cá trê cái thành thục tốt thường có bụng to, ỏng, mềm, phần ngoài lỗ sinh dục hơi cương, có thể tiết ra trứng khi nặn nhẹ ở vùng bụng gần lỗ sinh dục.
Trong trường hợp chưa thành thạo xác định mức độ thành thục của cá cái, người ta có thể lấy mẫu trứng để khảo sát. Thông thường có thể lấy mẫu trứng bằng dụng cụ gọi là ống thăm trứng hoặc dùng bơm tiêm có gắn ống nhựa mềm luồn qua lỗ sinh dục để hút trứng.
Đặc điểm sinh dục phụ là những biểu hiện về hình thái (có khi là cả tập tính) bên ngoài không có liên hệ trực tiếp với tuyến sinh dục nhưng chịu sự điều khiển của các hormon sinh dục, nhất là các hormon sinh dục đực. Những đặc điểm này biểu hiện khi cá trưởng thành, có tuyến sinh dục phát triển nhưng nổi bật nhất vào mùa sinh sản. Trong thời gian giữa hai mùa sinh sản sự biểu hiện của đặc điểm sinh dục phụ có thể suy giảm ở những mức độ khác nhau. Ở tất cả các loài cá trê hiện có ở nước ta, cơ quan sinh dục ngoài của con đực và con cái có sự khác biệt về hình thái tương đối rõ. Phần cuối của ống dẫn niệu sinh dục của cá đực phía ngoài thân giống như gai nhọn. Ở cá cái lỗ sinh dục hình tròn. Những cá đực thành thục tốt có “gai sinh dục” phát triển nổi bật, có tập tính hung hăng. Mỗi khi bị chạm vào, những cá đực thường quẫy mạnh và nhiều hơn các cá khác. Cá trê cái thành thục tốt thường có bụng to, ỏng, mềm, phần ngoài lỗ sinh dục hơi cương, có thể tiết ra trứng khi nặn nhẹ ở vùng bụng gần lỗ sinh dục. Trong trường hợp chưa thành thạo xác định mức độ thành thục của cá cái, người ta có thể lấy mẫu trứng để khảo sát. Thông thường có thể lấy mẫu trứng bằng dụng cụ gọi là ống thăm trứng hoặc dùng bơm tiêm có gắn ống nhựa mềm luồn qua lỗ sinh dục để hút trứng.
Phương pháp lấy trứng bằng bơm tiêm.
Trứng lấy ra được đặt trên lam kính hoặc đĩa petri, nhỏ vào đấy vài giọt dung dịch EPA. Dung dịch này gồm cồn (ethanol) phormalin và acid acetic đậm đặc theo tỷ lệ thể tích là 6:3:1. Sau vài phút được ngâm trong dung dịch EPA, trứng cá trở nên trong suốt còn nhân noãn bào (còn gọi là túi mầm) thì trắng đục. Cá cái đã thành thục tốt phải có những hạt trứng đạt kích thước tới hạn, rời, các mao mạch trên nang trứng nhỏ hoặc không còn thấy được và quan trọng nhất là có đến trên 60% hạt trứng đã lệch tâm, tức là nhân noãn bào không còn nằm ở giữa nữa.
Gieo tinh nhân tạo
Gieo tinh nhân tạo là tạo điều kiện cho sự gặp nhau của trứng đã rụng với tinh trùng trong điều kiện nhân tạo. Để gieo tinh nhân tạo thu được kết quả tốt, nghĩa là tỷ lệ thụ tinh cao cần lưu ý những điều sau đây:
– Trứng phải được lấy và gieo tinh ngay khi bắt đầu có sự rụng trứng đồng loạt, vì phẩm chất trứng rụng cứ kém dần theo thời gian.
– Trước khi gieo tinh, trứng và tinh sào được lấy ra và đựng trong thau sạch và khô, khi chạm vào môi trường nước, trứng và tinh trùng được hoạt hóa và mất sức sống rất nhanh (1-2 phút).
– Môi trường nước là cần thiết cho sự hoạt hóa và thâm nhập của tinh trùng vào trứng vì thế ngay sau khi rắc tinh trùng lên trứng, cần thêm nước đồng thời với sự khuấy trộn. Sau đó, tiếp tục khuấy trong 2-3 phút nữa.
Những việc cụ thể khi gieo tinh như sau: Khi phát hiện cá cái bắt đầu rụng trứng hàng loạt thì bắt lên, quấn trong khăn bằng vải bông, lau khô mình cá đặc biệt là lỗ sinh dục. Giữ cá chúc đuôi xuống thấp, vuốt nhẹ bụng cá từ phía đầu. Trứng chảy ra được hứng trong một cái chén hoặc tô, chậu sạch (nếu muốn tránh vỡ do cá quẫy, có thể dùng đồ tráng men hoặc đồ nhựa). Khi thấy trứng rụng khó ra hoặc trứng lẫn máu thì ngưng vuốt.
Đối với những loài cá đực có nhiều tinh như các loài mè, trắm, chép … thì dùng bơm tiêm để rút tinh dịch. Cách nặn tinh và lau tương tự như khi lấy trứng rụng. Đối với các loại cá trê, không thể thu nhận tinh dịch bằng cách vuốt bụng, người ta phải mổ cá đực lấy tinh sào. Mỗi nhánh tinh sào của cá đực trê phi cỡ 0,5kg để để gieo tinh cho 1 lít trứng. Trong trường hợp cần giữ lại cá đực cho đợt sinh sản sau người ta chỉ cắt 3/4 nhánh tinh sào từ mỗi bên rồi khâu bụng lại.
Trứng lấy ra được đặt trên lam kính hoặc đĩa petri, nhỏ vào đấy vài giọt dung dịch EPA. Dung dịch này gồm cồn (ethanol) phormalin và acid acetic đậm đặc theo tỷ lệ thể tích là 6:3:1. Sau vài phút được ngâm trong dung dịch EPA, trứng cá trở nên trong suốt còn nhân noãn bào (còn gọi là túi mầm) thì trắng đục. Cá cái đã thành thục tốt phải có những hạt trứng đạt kích thước tới hạn, rời, các mao mạch trên nang trứng nhỏ hoặc không còn thấy được và quan trọng nhất là có đến trên 60% hạt trứng đã lệch tâm, tức là nhân noãn bào không còn nằm ở giữa nữa.Gieo tinh nhân tạo là tạo điều kiện cho sự gặp nhau của trứng đã rụng với tinh trùng trong điều kiện nhân tạo. Để gieo tinh nhân tạo thu được kết quả tốt, nghĩa là tỷ lệ thụ tinh cao cần lưu ý những điều sau đây: – Trứng phải được lấy và gieo tinh ngay khi bắt đầu có sự rụng trứng đồng loạt, vì phẩm chất trứng rụng cứ kém dần theo thời gian. – Trước khi gieo tinh, trứng và tinh sào được lấy ra và đựng trong thau sạch và khô, khi chạm vào môi trường nước, trứng và tinh trùng được hoạt hóa và mất sức sống rất nhanh (1-2 phút). – Môi trường nước là cần thiết cho sự hoạt hóa và thâm nhập của tinh trùng vào trứng vì thế ngay sau khi rắc tinh trùng lên trứng, cần thêm nước đồng thời với sự khuấy trộn. Sau đó, tiếp tục khuấy trong 2-3 phút nữa. Những việc cụ thể khi gieo tinh như sau: Khi phát hiện cá cái bắt đầu rụng trứng hàng loạt thì bắt lên, quấn trong khăn bằng vải bông, lau khô mình cá đặc biệt là lỗ sinh dục. Giữ cá chúc đuôi xuống thấp, vuốt nhẹ bụng cá từ phía đầu. Trứng chảy ra được hứng trong một cái chén hoặc tô, chậu sạch (nếu muốn tránh vỡ do cá quẫy, có thể dùng đồ tráng men hoặc đồ nhựa). Khi thấy trứng rụng khó ra hoặc trứng lẫn máu thì ngưng vuốt. Đối với những loài cá đực có nhiều tinh như các loài mè, trắm, chép … thì dùng bơm tiêm để rút tinh dịch. Cách nặn tinh và lau tương tự như khi lấy trứng rụng. Đối với các loại cá trê, không thể thu nhận tinh dịch bằng cách vuốt bụng, người ta phải mổ cá đực lấy tinh sào. Mỗi nhánh tinh sào của cá đực trê phi cỡ 0,5kg để để gieo tinh cho 1 lít trứng. Trong trường hợp cần giữ lại cá đực cho đợt sinh sản sau người ta chỉ cắt 3/4 nhánh tinh sào từ mỗi bên rồi khâu bụng lại.
Giải phẫu cá trê đực lấy 3/4 tinh sào rồi khâu lại
Sau khi khâu, cá được giữ lại trên bể và được tiêm kháng sinh 2-3 lần trong vòng 8-10 ngày. Lúc vết thương gần như lành hẳn, cá mới được thả vào ao để nuôi vỗ tiếp. 6 tháng nuôi vỗ tiếp cho phép cá đực từng được giải phẫu thành thục trở lại.
Để gieo tinh, nhánh tinh được nặn thành từng giọt trắng đục nhỏ xuống thau đựng trứng, rồi nhánh tinh được cắt nhỏ thành nhiều mảnh rơi xuống thau. Ngay sau đó, đối với mỗi lít trứng mgười ta thêm chừng 300ml nước sạch rồi khuấy trộn trứng với tinh bằng lông cánh gia cầm trong khoảng 3-5 phút. Nước sạch tiếp tục được thêm vào thau đựng trứng đã được gieo tinh rồi được chuyển đến dụng cụ ấp.
Trứng cá trên vàng có tính dính nhưng không dính chắc như trứng cá trê phi, cá tra hay trứng cá chép. Người ta rắc trứng lên lưới cứng hoặc cho dính vào những mảnh lưới mềm đặt trong bể chứa nước sạch có độ sâu 20 – 30cm, được sục khí. Khi cá nở xong vỏ trứng vẫn còn dính vào giá thể. Người ta nhấc các mảnh lưới khỏi bể ấp để giặt sạch, phơi khô, chuẩn bị cho lần ấp sau.
KT SX giống một số loài cá nuôi – Nguyễn Tường Anh – NXB Nông nghiệp
Sau khi khâu, cá được giữ lại trên bể và được tiêm kháng sinh 2-3 lần trong vòng 8-10 ngày. Lúc vết thương gần như lành hẳn, cá mới được thả vào ao để nuôi vỗ tiếp. 6 tháng nuôi vỗ tiếp cho phép cá đực từng được giải phẫu thành thục trở lại. Để gieo tinh, nhánh tinh được nặn thành từng giọt trắng đục nhỏ xuống thau đựng trứng, rồi nhánh tinh được cắt nhỏ thành nhiều mảnh rơi xuống thau. Ngay sau đó, đối với mỗi lít trứng mgười ta thêm chừng 300ml nước sạch rồi khuấy trộn trứng với tinh bằng lông cánh gia cầm trong khoảng 3-5 phút. Nước sạch tiếp tục được thêm vào thau đựng trứng đã được gieo tinh rồi được chuyển đến dụng cụ ấp. Trứng cá trên vàng có tính dính nhưng không dính chắc như trứng cá trê phi, cá tra hay trứng cá chép. Người ta rắc trứng lên lưới cứng hoặc cho dính vào những mảnh lưới mềm đặt trong bể chứa nước sạch có độ sâu 20 – 30cm, được sục khí. Khi cá nở xong vỏ trứng vẫn còn dính vào giá thể. Người ta nhấc các mảnh lưới khỏi bể ấp để giặt sạch, phơi khô, chuẩn bị cho lần ấp sau.
Kỹ thuật nuôi cá trê trong ao đất
I/ KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI CÁ BỘT LÊN CÁ GIỐNG TRONG AO ĐẤT:
1/ Chuẩn bị ao:
Các ao ương có diện tích từ 500 – 1000m2 rất tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch. Mực nước thích hợp trong ao 1 – 1,2m. Đáy ao phải dốc về phía bọng thóat nước.
Sau một vụ nuôi cần phải cải tạo ao để diệt mầm bệnh, rút hết nước và diệt tạp bằng dây thuốc cá 3 – 5 kg /1000m2 . Sau đó tiến hành rải vôi bột để diệt khuẩn liều lượng: 10 – 15 kg/100m2 phơi đáy ao 3 – 5 ngày, cho nước vào ao 0,8 – 1 m; nếu ao mới đào liều lượng vôi tăng từ 15 – 20 kg/100m2.
Bón phân tạo thức ăn tự nhiên: Sử dụng phân chuồng (hữu cơ) hay phân hóa học (phân vô cơ) để gây màu nước.
Nếu bón phân chuồng: Phân gà liều lượng từ 4 – 5 kg/100m2, phân heo: 8 – 10 kg/100m2, phân bò 10 – 15 kg/100m2 >. Các loại phân này, trước khi bón xuống ao phải được ủ cho hoai mục hay phơi thật khô nhằm tránh ao bị dơ và bị nhiễm khuẫn. Khoảng 1 tuần, nước sẽ lên màu xanh.
Nếu bón phân hóa học: Dùng phân lân NPK liều lượng 3 – 5kg/1000m2, có thể bón thêm bột cá 1 – 2 kg/1000m2. Khoảng 3 – 4 ngày sau, nước lên màu xanh và tiến hành thả cá.
2/ Mật độ thả ương: Từ 250 – 400 con/m2
3/ Thức ăn và cách cho ăn:
Sau khi thả cá được 3 – 4 ngày thì bắt đầu cho cá ăn thêm trứng nước hoặc trùn chỉ. Ngoài ra, có thể cho cá bột ăn cá hấp hoặc luộc bóp nhuyễn, cám nấu chín … thức ăn được rãi đều khắp ao, ngày cho cá ăn 4 – 5 lần. Theo dõi lượng thức ăn hằng ngày để điều chỉnh, tránh thức ăn dư thừa gây ô nhiễm nước.
4/ Chăm sóc cá ương:
– Thường xuyên theo dõi các hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá để phát hiện kịp thời cá bệnh.
– Trong thành phần thức ăn nên bổ sung thêm Vitamin C: 5 – 10 gam/10 kg thức ăn và Premix từ 1-2 % lượng thức ăn cho cá. Cá ương trong ao rất mau lớn, chỉ sau 13 – 14 ngày cá đạt tới cở 4-6 cm chiều dài.
II/ KỸ THUẬT NUÔI CÁ TRÊ THƯƠNG PHẨM :
1/ Chuẩn bị ao:
Ao nuôi cá trê nên có diện tích 1000-3000 m2 là tốt vì sẽ thuận lợi cho việc cho ăn và chăm sóc. Các bước chuẩn bị ao trong nuôi cá trê thương phẫm tương tự như trong ương cá trê bột lên cá giống.
2/ Chọn giống cá:
Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, không nhiễm bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh.
3/ Mật độ thả:
a/ Nuôi đơn : Chỉ nuôi một loại cá trê vàng lai.
Cỡ cá (cm)
Mật độ thả (con/m2)
Thời gian thu hoạch
3 – 4
60 – 70
> 3 tháng
4 – 6
40 – 50
> 3 tháng
5 – 7
30 – 40
> 3 tháng
10 -12
20 – 30
> 2.5 tháng
b/ Nuôi ghép: Có thể thả ghép cá trê vàng lai chung với các loài cá như rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật dộ thả cho từng loại cá như sau:
Loại cá
Cỡ cá(cm)
Mật độ thả (con/m2)
Trê lai
4 – 6
10
Trôi
6 – 8
5
Chép
6 – 8
3
Trắm
6 – 8
1 – 2
Rô phi
6 – 8
10
c/ Nuôi cá đánh tỉa thả bù: Thường phải chuẩn bị thêm một ao nhỏ để ương cá lứa thả bù, diện tích ao khoảng 100 – 300m2 . Mật độ thả các loại này như sau:
Cỡ cá(cm)
Số con(con/kg)
Mật độ thả(con/m2)
2 – 3
3000 – 4000
100 – 120
3 – 4
1800 – 2200
80 – 100
4/ Thức ăn nuôi cá và chăm sóc:
– Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn. Thức ăn dùng nuôi cá gồm các loại phụ phế phẩm đông lạnh như đầu vỏ tôm, da cá, đầu lòng cá, ốc, cua… , cám, thức ăn gia súc, cám gạo, bột bắp,…
– Lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 10-15% trọng lượng cá, cho cá ăn 2 lần/ngày.
– Trong quá trình nuôi nên định kỳ 1 tuần/ 1 lần bổ sung thêm Vitamin C với lượng 5 – 10 g/10 kg thức ăn cho cá trong ngày.
– Trong tuần đầu tiên thả cá thì thức ăn cho cá nên được nấu chín.
– Khoảng 5-7 ngày thay nước 1 lần, thay 30% nước trong ao.
– Bón vôi bột (CaCO3) 1 – 2 kg/100m2 định kỳ 15 ngày/lần.
5/ Thu hoạch:
Sau 2-3 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ 150-250g/con có thể tiến hành thu tỉa những cá lớn.
Khoảng 15 ngày sau, có thể tiến hành thu đợt 2. Cứ tiếp tục như vậy khi thu hết cá trong ao.
Trung tâm Khuyên nông An Giang
Kỹ thuật nuôi và phòng trị bệnh cho cá Trê lai
Cá trê lai có khả năng thích hợp được với nhiều loại hình nuôi như: ao tù, mương rãnh và có thể nuôi ở nơi hàm lượng oxy thấp… Nuôi cá trê lai thường không quá cầu kỳ về kỹ thuật nhưng hiệu quả vẫn rất cao.
Kỹ thuật nuôi
Ao nuôi: Có thể nuôi ở tất cả các loại ao thường nuôi cá để nuôi cá trê lai, thậm chí cả ở ao tù, bẩn, có điều kiện nuôi đơn để tiện chăm sóc. Diện tích ao từ vài chục đến vài trăm m2. Mực nước 0,8-1,2m. Đáy trơ ít bùn, bờ vững chắc, có điều kiện nên kè xung quanh, gần nguồn nước.
Mật độ thả giống: Cỡ cá giống 3-5cm, mật độ thả 15-25 con/m2 ao nhỏ. Cỡ cá giống 4-6cm, mật độ thả 15-20con/m2 ao vừa. Cỡ cá giống 5-7cm, mật độ thả 10-15con/m2 ao lớn, có điều kiện tẩy dọn sạch.
Thức ăn: Lượng đạm cần cho tháng thứ nhất từ 20-30%, tháng thứ 2 từ 10-20%, tháng thứ 3 từ 10-15% tổng số thức ăn.
Dùng các loại thực phẩm chất lượng kém như cám gạo, ngô, bã rượu, bột cá nhạt, cá tạp, tôm, cua, ốc nhái, giun đất, phân gia súc, gia cầm… Lượng thức ăn thường 4-6% khối lượng cá/ngày theo thức ăn khô, 8-10% theo thức ăn ướt.
Chăm sóc: Nước quá nhiễm bẩn (có mùi thối) nên thay nước. Cần duy trì nước sâu, thả bèo tây, che gió để phòng rét, chống nóng. Đặc biệt chú ý vào mùa mưa cá dễ đi và chống bắt trộm.
Thu hoạch: Thả ống, đánh lưới, thu tỉa bằng câu, tát cạn bắt sạch. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, nuôi 3-4 tháng nặng 200-300g/con, 5-6 tháng được 400-500g/con.
Phòng trị bệnh cho cá trê
Bệnh nhầy da: Khi nhiễm bệnh cá bột bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn. Da có đám chất nhầy. Bệnh này do ký sinh trùng. Điều trị bằng sunphat đồng 0,3g/m3 tắm trong 2-3 ngày. Dùng Fomalin 25g/m3 tắm trong 2 ngày.
Bệnh trắng da khoang thân: Khi mắc bệnh cá bột thường nổi trên mặt nước, da bị loét. Thân có những đám vệt trắng. Vây cụt. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra. Điều trị bằng Chloroxit, Tetracilin, Penixilin tắm cho cá trong 30 phút. Liều lượng một viên 250mg/10 lít nước.
Bệnh trùng quả dưa: Thân cá gốc vây ngực có chấm nhỏ như hạt tấm màu trắng. Các chất này vỡ ra vào trong nước, tạo nên các vết loét ở chỗ vỡ. Điều trị bằng cách tắm Vernalachite hay Greenmetil 0,1g/m3 trong 3-4 ngày. Formalin 25g/m3 trong 8 ngày.
Bệnh sán lá 16 móc: Cá có màu đen, đầu to đuôi nhỏ, mang bị rựng, cá bơi chậm chạp dựng đứng thành dụng cụ ương. Bệnh do vi khuẩn Dactylogyrus gây nên. Điều trị bằng cách tắm trong nước 4muối 3% trong 3-5 phút. Phun trực tiếp Dipterex 0,25-0,5g/m3 trong 1-2 ngày.
Nuôi cá trê lai
Chuẩn bị ao:
Vét bùn đáy ao, lấp các lỗ mọi, đắp bờ bao, phơi đáy ao 2 – 3 ngày, bón vôi từ 30 – 50kg/1000m2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với lượng 100 – 150kg phân/1.000m2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao. Sau 5 – 7 ngày có thể thả cá vào nuôi được. Mực nước lúc ban đầu lấy vào ao khoảng 0,8m – 1m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2 – 1,5m. Nếu là ao mới đào thì bón với liều lượng 70 -100kg/1.000kgm2 để giữ cho độ pH của nước từ 6 – 7,5 là tốt nhất.
2. Chọn giống cá:
Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn và đã qua kiểm dịch giống thuỷ sản.
3. Mật độ:
Mật độ: 20 – 40 con / m2, mật độ còn tuỳ thuộc vào khả năng đầu tư của hộ.
4. Thức ăn: Thức ăn viên công nghiệp hoặc thức ăn tự chế biến
– Thức ăn viên công nghiệp đủ thành phần dinh dưỡng và cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
– Thức ăn tự chế biến:
Cá trê lai là loài ăn tạp, rất háu ăn, thức ăn thường là các phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh và phụ phẩm nông nghiệp. Ngoài ra, để giúp cá tăng trưởng nhanh, ít bệnh trong quá trình nuôi cần bổ sung premix, vitamin C một tuần một lần với lượng 1-2% của tổng thức ăn cho ăn hằng ngày.
Trong 2 tuần đầu mới thả cá còn nhỏ nên bằm thức ăn: Đầu lòng cá, ruột gà vịt, và tất cả các phụ phẩm nhà máy đông lạnh,….
Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15-20 phút trước khi nấu. Sau khi nấu chín trộn với cám khô theo tỷ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.
Nếu cho ăn thức ăn tươi (đầu tôm, lòng ruột cá…) lượng thức ăn cho cá ăn trong một ngày bằng 10-15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp,… lượng thức ăn cho cá ăn trong một ngày bằng 5-7% trọng lượng cá dự đoán.
* Cho ăn: Nên cho cá ăn những vị trí cố định trong ao, thường xuyên theo dõi điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.
5. Chăm sóc – Quản lý:
– Thường xuyên kiểm tra bờ bao, cống bọng và tốc độ lớn của cá.
– Theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau một tháng đầu cá tương đối lớn có thể định kỳ thay nước cho ao, cứ 5-7 ngày một lần thay khoảng 30% lượng nước có trong ao. Sử dụng thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước nhiều hơn tốt nhất thay nước theo thuỷ triều.
6. Thu hoạch:
Sau 4 tháng thả nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm (150 – 250g/con), tiến hành thu hoạch đợt I xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10-15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt II. Thường ở đợt này lượng cá thu hoạch được sẽ nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ so với đợt I. Nếu trong ao vẫn còn một số cá chưa đạt qui cỡ thì sẽ nuôi tiếp tục hai tuần nữa thu hoạch toàn bộ.
Văn Thị Nhi – Chi cục BVNLTS Vĩnh Long
1/ Chuẩn bị ao: Các ao ương có diện tích từ 500 – 1000m2 rất tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch. Mực nước thích hợp trong ao 1 – 1,2m. Đáy ao phải dốc về phía bọng thóat nước. Sau một vụ nuôi cần phải cải tạo ao để diệt mầm bệnh, rút hết nước và diệt tạp bằng dây thuốc cá 3 – 5 kg /1000m2 . Sau đó tiến hành rải vôi bột để diệt khuẩn liều lượng: 10 – 15 kg/100m2 phơi đáy ao 3 – 5 ngày, cho nước vào ao 0,8 – 1 m; nếu ao mới đào liều lượng vôi tăng từ 15 – 20 kg/100m2. Bón phân tạo thức ăn tự nhiên: Sử dụng phân chuồng (hữu cơ) hay phân hóa học (phân vô cơ) để gây màu nước. Nếu bón phân chuồng: Phân gà liều lượng từ 4 – 5 kg/100m2, phân heo: 8 – 10 kg/100m2, phân bò 10 – 15 kg/100m2 >. Các loại phân này, trước khi bón xuống ao phải được ủ cho hoai mục hay phơi thật khô nhằm tránh ao bị dơ và bị nhiễm khuẫn. Khoảng 1 tuần, nước sẽ lên màu xanh. Nếu bón phân hóa học: Dùng phân lân NPK liều lượng 3 – 5kg/1000m2, có thể bón thêm bột cá 1 – 2 kg/1000m2. Khoảng 3 – 4 ngày sau, nước lên màu xanh và tiến hành thả cá. 2/ Mật độ thả ương: Từ 250 – 400 con/m2 3/ Thức ăn và cách cho ăn: Sau khi thả cá được 3 – 4 ngày thì bắt đầu cho cá ăn thêm trứng nước hoặc trùn chỉ. Ngoài ra, có thể cho cá bột ăn cá hấp hoặc luộc bóp nhuyễn, cám nấu chín … thức ăn được rãi đều khắp ao, ngày cho cá ăn 4 – 5 lần. Theo dõi lượng thức ăn hằng ngày để điều chỉnh, tránh thức ăn dư thừa gây ô nhiễm nước. 4/ Chăm sóc cá ương: – Thường xuyên theo dõi các hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá để phát hiện kịp thời cá bệnh. – Trong thành phần thức ăn nên bổ sung thêm Vitamin C: 5 – 10 gam/10 kg thức ăn và Premix từ 1-2 % lượng thức ăn cho cá. Cá ương trong ao rất mau lớn, chỉ sau 13 – 14 ngày cá đạt tới cở 4-6 cm chiều dài.1/ Chuẩn bị ao: Ao nuôi cá trê nên có diện tích 1000-3000 m2 là tốt vì sẽ thuận lợi cho việc cho ăn và chăm sóc. Các bước chuẩn bị ao trong nuôi cá trê thương phẫm tương tự như trong ương cá trê bột lên cá giống. 2/ Chọn giống cá: Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, không nhiễm bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh. 3/ Mật độ thả: a/ Nuôi đơn : Chỉ nuôi một loại cá trê vàng lai.b/ Nuôi ghép: Có thể thả ghép cá trê vàng lai chung với các loài cá như rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật dộ thả cho từng loại cá như sau:c/ Nuôi cá đánh tỉa thả bù: Thường phải chuẩn bị thêm một ao nhỏ để ương cá lứa thả bù, diện tích ao khoảng 100 – 300m2 . Mật độ thả các loại này như sau:4/ Thức ăn nuôi cá và chăm sóc: – Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn. Thức ăn dùng nuôi cá gồm các loại phụ phế phẩm đông lạnh như đầu vỏ tôm, da cá, đầu lòng cá, ốc, cua… , cám, thức ăn gia súc, cám gạo, bột bắp,… – Lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 10-15% trọng lượng cá, cho cá ăn 2 lần/ngày. – Trong quá trình nuôi nên định kỳ 1 tuần/ 1 lần bổ sung thêm Vitamin C với lượng 5 – 10 g/10 kg thức ăn cho cá trong ngày. – Trong tuần đầu tiên thả cá thì thức ăn cho cá nên được nấu chín. – Khoảng 5-7 ngày thay nước 1 lần, thay 30% nước trong ao. – Bón vôi bột (CaCO3) 1 – 2 kg/100m2 định kỳ 15 ngày/lần. 5/ Thu hoạch: Sau 2-3 tháng nuôi, cá đạt kích cỡ 150-250g/con có thể tiến hành thu tỉa những cá lớn. Khoảng 15 ngày sau, có thể tiến hành thu đợt 2. Cứ tiếp tục như vậy khi thu hết cá trong ao. Trung tâm Khuyên nông An GiangCá trê lai có khả năng thích hợp được với nhiều loại hình nuôi như: ao tù, mương rãnh và có thể nuôi ở nơi hàm lượng oxy thấp… Nuôi cá trê lai thường không quá cầu kỳ về kỹ thuật nhưng hiệu quả vẫn rất cao.Ao nuôi: Có thể nuôi ở tất cả các loại ao thường nuôi cá để nuôi cá trê lai, thậm chí cả ở ao tù, bẩn, có điều kiện nuôi đơn để tiện chăm sóc. Diện tích ao từ vài chục đến vài trăm m2. Mực nước 0,8-1,2m. Đáy trơ ít bùn, bờ vững chắc, có điều kiện nên kè xung quanh, gần nguồn nước. Mật độ thả giống: Cỡ cá giống 3-5cm, mật độ thả 15-25 con/m2 ao nhỏ. Cỡ cá giống 4-6cm, mật độ thả 15-20con/m2 ao vừa. Cỡ cá giống 5-7cm, mật độ thả 10-15con/m2 ao lớn, có điều kiện tẩy dọn sạch. Thức ăn: Lượng đạm cần cho tháng thứ nhất từ 20-30%, tháng thứ 2 từ 10-20%, tháng thứ 3 từ 10-15% tổng số thức ăn. Dùng các loại thực phẩm chất lượng kém như cám gạo, ngô, bã rượu, bột cá nhạt, cá tạp, tôm, cua, ốc nhái, giun đất, phân gia súc, gia cầm… Lượng thức ăn thường 4-6% khối lượng cá/ngày theo thức ăn khô, 8-10% theo thức ăn ướt. Chăm sóc: Nước quá nhiễm bẩn (có mùi thối) nên thay nước. Cần duy trì nước sâu, thả bèo tây, che gió để phòng rét, chống nóng. Đặc biệt chú ý vào mùa mưa cá dễ đi và chống bắt trộm. Thu hoạch: Thả ống, đánh lưới, thu tỉa bằng câu, tát cạn bắt sạch. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, nuôi 3-4 tháng nặng 200-300g/con, 5-6 tháng được 400-500g/con.Bệnh nhầy da: Khi nhiễm bệnh cá bột bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn. Da có đám chất nhầy. Bệnh này do ký sinh trùng. Điều trị bằng sunphat đồng 0,3g/m3 tắm trong 2-3 ngày. Dùng Fomalin 25g/m3 tắm trong 2 ngày. Bệnh trắng da khoang thân: Khi mắc bệnh cá bột thường nổi trên mặt nước, da bị loét. Thân có những đám vệt trắng. Vây cụt. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra. Điều trị bằng Chloroxit, Tetracilin, Penixilin tắm cho cá trong 30 phút. Liều lượng một viên 250mg/10 lít nước. Bệnh trùng quả dưa: Thân cá gốc vây ngực có chấm nhỏ như hạt tấm màu trắng. Các chất này vỡ ra vào trong nước, tạo nên các vết loét ở chỗ vỡ. Điều trị bằng cách tắm Vernalachite hay Greenmetil 0,1g/m3 trong 3-4 ngày. Formalin 25g/m3 trong 8 ngày. Bệnh sán lá 16 móc: Cá có màu đen, đầu to đuôi nhỏ, mang bị rựng, cá bơi chậm chạp dựng đứng thành dụng cụ ương. Bệnh do vi khuẩn Dactylogyrus gây nên. Điều trị bằng cách tắm trong nước 4muối 3% trong 3-5 phút. Phun trực tiếp Dipterex 0,25-0,5g/m3 trong 1-2 ngày.Vét bùn đáy ao, lấp các lỗ mọi, đắp bờ bao, phơi đáy ao 2 – 3 ngày, bón vôi từ 30 – 50kg/1000mđể diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với lượng 100 – 150kg phân/1.000m. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao. Sau 5 – 7 ngày có thể thả cá vào nuôi được. Mực nước lúc ban đầu lấy vào ao khoảng 0,8m – 1m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2 – 1,5m. Nếu là ao mới đào thì bón với liều lượng 70 -100kg/1.000kgmđể giữ cho độ pH của nước từ 6 – 7,5 là tốt nhất.Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn và đã qua kiểm dịch giống thuỷ sản.Mật độ: 20 – 40 con / m, mật độ còn tuỳ thuộc vào khả năng đầu tư của hộ.Thức ăn viên công nghiệp hoặc thức ăn tự chế biến – Thức ăn viên công nghiệp đủ thành phần dinh dưỡng và cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất. – Thức ăn tự chế biến: Cá trê lai là loài ăn tạp, rất háu ăn, thức ăn thường là các phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh và phụ phẩm nông nghiệp. Ngoài ra, để giúp cá tăng trưởng nhanh, ít bệnh trong quá trình nuôi cần bổ sung premix, vitamin C một tuần một lần với lượng 1-2% của tổng thức ăn cho ăn hằng ngày. Trong 2 tuần đầu mới thả cá còn nhỏ nên bằm thức ăn: Đầu lòng cá, ruột gà vịt, và tất cả các phụ phẩm nhà máy đông lạnh,…. Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15-20 phút trước khi nấu. Sau khi nấu chín trộn với cám khô theo tỷ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân. Nếu cho ăn thức ăn tươi (đầu tôm, lòng ruột cá…) lượng thức ăn cho cá ăn trong một ngày bằng 10-15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp,… lượng thức ăn cho cá ăn trong một ngày bằng 5-7% trọng lượng cá dự đoán. * Cho ăn: Nên cho cá ăn những vị trí cố định trong ao, thường xuyên theo dõi điều chỉnh thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.- Thường xuyên kiểm tra bờ bao, cống bọng và tốc độ lớn của cá. – Theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau một tháng đầu cá tương đối lớn có thể định kỳ thay nước cho ao, cứ 5-7 ngày một lần thay khoảng 30% lượng nước có trong ao. Sử dụng thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước nhiều hơn tốt nhất thay nước theo thuỷ triều.Sau 4 tháng thả nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm (150 – 250g/con), tiến hành thu hoạch đợt I xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10-15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt II. Thường ở đợt này lượng cá thu hoạch được sẽ nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ so với đợt I. Nếu trong ao vẫn còn một số cá chưa đạt qui cỡ thì sẽ nuôi tiếp tục hai tuần nữa thu hoạch toàn bộ.