TÌM HIỂU CHUNG
[edit]
I-li-a
Ê-ren-bua (1891-1967)
Tác giả
-
Là nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Liên Xô (Nay là Liên bang Nga).
-
Trong thời kì cách mạng, cậu học sinh Ê-ren-bua tham gia tổ chức bí mật của Đảng, bị chính quyền Nga hoàng kết án. Từ đó, Ê-ren-bua sống lưu vong ở nhiều đất nước: Pháp, Đức, Tây Ban Nha.
-
Sự
nghiệp sáng tác:
– Thể loại sáng tác: Ê-ren-bua sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau: thơ, tiểu thuyết, các bài báo,…
– Các
tác phẩm chính: Những cuộc hành trình kì lạ của Khu-li-ô Khu-ren-nhi-tô và những học trò của ông (1922); Pa-ri sụp đổ (1941); Thử lửa (1942); Bão táp (1946-1947); Làn sóng thứ chín (1950);…
Tác phẩm
Hoàn cảnh sáng tác
Bài “
Lòng yêu nước”
được trích từ bài báo “
Thử lửa”.
Thể
loại
Tùy
bút – chính luận
Phương
thức biểu đạt
Nghị
luận và biểu cảm
Đề tài
Tình yêu quê hương đất nước
Chủ đề
Xuất xứ
Văn bản được viết vào cuối tháng 6 năm 1942. Đây là thời kì khó khăn nhất trong cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược (1941-1945).
Khẳng định lòng yêu nước bắt nguồn từ lòng yêu những gì gần gũi, thân thuộc của quê hương.
Thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc của tác giả và người dân Xô viết.
Đại
ý
Tác giả lí giải lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu với tất cả những sự vật cụ thể và bình thường nhất, gần gũi và thân thuộc nhất; đồng thời khẳng định: lòng yêu nước được bộc lộ đầy đủ và sâu sắc nhất trong những hoàn cảnh thách thức gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.
Bố
cục
Bài
văn chia làm ba phần:
Phần 1 ( Từ đầu đến
có hơi rượu mạnh
): Nhận
định chung lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất.
Phần 2 ( Từ
Chiến tranh khiến cho mỗi công dân
Xô viết
đến
những ánh sao đỏ của ngày
mai
): Lòng yêu nước bình dị, thiết tha, sâu nặng của mỗi người dân Xô viết.
Phần
3 (Đoạn văn còn lại): Đúc kết, khái quát, mở rộng và nâng cao chân lí lòng yêu
nước.
1. Nhận định chung
lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất
-
Theo tác giả, lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: cái cây trước nhà, phố nhỏ, vị thơm chua mát của trái lê, mùa cỏ thảo nguyên,… Những “vật tầm thường” ấy chính là những vật quen thuộc nhất, bình dị nhất, những vật tồn tại ngay chính cuộc sống con người.
-
Mở đầu, tác giả nêu một nhận định giản dị, dễ hiểu
mang tính quy luật:“Lòng yêu nước ban đầu
là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái
phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo
nguyên có hơi rượu mạnh.” -
Tác giả khẳng định
lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường vì những vật tầm thường đó là
biểu hiện của sự sống do con người tạo ra và đem lại niềm vui, hạnh phúc cho
con người.
Như vậy, với tác
giả Ê-ren-bua, tình yêu nước khơi nguồn từ lòng yêu những gì gần gũi, thân thuộc
đời thường chốn quê hương.
2. Lòng yêu nước
bình dị, thiết tha, sâu nặng của mỗi người dân Xô viết
Tác giả đặt
“lòng yêu nước” trong thử thách của cuộc chiến tranh vệ quốc để “mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ thanh tú của
chốn quê hương”. Mỗi khi nhớ đến quê hương, mỗi người dân ở mỗi vùng đều nhớ
đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình:
-
Người vùng Bắc:
nghĩ đến cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay
miền Xu-cô-nô, thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng sáu sáng hồng
và tiếng “cô nàng” gọi đùa người yêu. -
Người xứ
U-crai-na:nhớ bóng thùy dương tư lự bên
đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh. -
Người Gru-di-a:
ca tụng khí trời của núi cao, nỗi vui bất chợt,
những lời thân ái giản dị, những tiếng cuối cùng của câu chào tạm biệt. -
Nỗi nhớ của người
Gru-di-a gắn liền với những vẻ đẹp truyền thống và niềm tin mãnh liệt ở tương
lai. -
Người ở thành
Lê-nin-grát:nhớ dòng sông Nê – va rộng
và đường bệ như nước Nga đường bệ, nhớ những tượng bằng đồng tạc những con chiến
mã lồng lên; nhớ lá hoa rực rỡ của công viên mùa hè; nhớ phố phường mà mỗi căn
nhà là một trang lịch sử. -
Người
Mát-xcơ-va:nhớ như thấy lại phố cũ, những
đại lộ của thành phố mới, điện Krem-li, những tháp cổ – dấu hiệu vinh quang và
những ánh sao đỏ. -
Nỗi nhớ quê
hương được thể hiện qua những câu văn trùng lặp “Người vùng Bắc nghĩ…”, “Người
xứ U-crai-na nhớ….”, “Người Mát-xcơ-va nhớ…”,… Sự trùng lặp này có tác dụng nhấn
mạnh, khắc họa nỗi nhớ – lòng yêu quê hương của con người Xô viết. Nỗi nhớ ấy,
lòng yêu ấy là đặc điểm chung nổi bật trong tâm hồn họ, dù họ có ở những miền xứ
sở khác nhau.
Viết về nỗi nhớ
quê hương, tác giả còn đã khéo léo đưa người đọc đến với những hình ảnh đẹp, phong phú và thanh bình của
mọi miền đất nước mình. Có lẽ, vẻ êm đẹp và thanh bình đó cũng là mong muốn của tác giả dành cho quê hương, đất nước của mình.
3. Đúc kết, khái
quát, mở rộng và nâng cao chân lí lòng yêu nước
-
Chân lí về lòng
yêu nước được Ê-ren-bua khái quát qua hai câu văn:“Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông
Vôn-ga đổ đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ
quốc.”
– Tác giả lập luận theo chiều tăng tiến: suối – sông – dải trường giang – bể; nhà – xóm – miền quê – Tổ quốc. Từ quy luật của tự nhiên, tác giả muốn khẳng định quy luật của lòng yêu nước.
– Hai câu văn sóng
đôi tạo sự so sánh vừa tự nhiên vừa sâu sắc.
– Ý được trình bày
từ gần đến xa, từ nhỏ đến lớn, từ cụ thể đến trừu tượng, từ gần gũi đến thiêng
liêng.
-
Chân lí sâu sắc
về lòng yêu nước được nâng lên thành động lực trong thách thức bảo vệ Tổ quốc:
– Có thể nào quan
niệm được sức mãnh liệt của tình yêu mà không đem nó vào lửa đạn gay go thử
thách.
– Câu văn là cách
nói khẳng định sức mãnh liệt của tình yêu phải đem nó vào lửa đạn gay go thử
thách – chiến tranh.
– Chiến tranh đến,
“người ta giờ đây đã hiểu lòng yêu của mình lớn đến nhường nào, yêu người thân,
yêu Tổ quốc, yêu nước Nga, yêu Liên bang Xô viết”. Cách nói mở rộng chân lí
lòng yêu nước mà tác giả đã khẳng định.
- Từ chân lí, nhà văn đã đi tới hệ quả: “
Ai là kẻ chẳng cảm
thấy, mùa thu qua, điều giản dị này: “Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa?”=>
Câu văn mang
tính suy luận khát quát: Sự sống của mỗi cá nhân gắn liền với vận mệnh Tổ quốc. Mất nước Nga là mất nhà, mất làng xóm, mất quê hương. Đó là những gì thiêng liêng nhất đối với con người. Mất nước Nga là mất tất cả những gì khiến con người gắn bó với Tổ quốc. Cuộc sống mất mát, nô lệ đâu còn ý nghĩa gì.
Như vậy, trong
đoạn văn cuối, tác giả đã đúc kết được chân lí về lòng yêu nước: Lòng yêu nước
quyện hòa trong lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương, tiềm ẩn trong máu thịt
con người Xô Viết.
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
[edit]
-
Cấu trúc lập luận
chặt chẽ, thuyết phục -
Kết hợp hài hòa
các yếu tố trữ tình, chính luận, triết lí và trữ tình