Mão: Mèo hay Thỏ

MÃO: MÈO HAY THỎ?

Trên trang web của wikipedia người ta viết: “Dựa vào nghiên
cứu ngữ âm học lịch sử… đã chứng minh rất thuyết phục rằng tên 12 con giáp
thuộc “tác quyền” của người Việt cổ”. “Khi được du nhập vào Trung Quốc, qua
nhiều lần biến cải, những con giáp này vừa biến dạng cả chữ viết và hình tượng,
cùng với ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa làm cho mất dần đi nguồn gốc ban đầu
của nó”.[1] Có phải như vậy không?

Trước khi giải thích rõ, chúng ta xem thử truyện thần
thoại:

Truyển kể: Năm nọ, Ngọc Vương mừng sinh nhật, ra lệnh tất
cả động vật phải đến chúc thọ, và quyết định 12 thứ động vật đến chúc thọ trước
sẽ là 12 vệ sĩ canh đường lên thiên đình, sẽ luân phiên trực theo năm.

Lúc đó chuột và mèo là láng giềng với nhau. Mèo ỷ mình to
lớn hơn nên thường ăn hiếp chuột, chuột oán giận mà không dám nói. Mèo lại ham
ngủ. Khi được lệnh của Ngọc Vương, mèo nói với chuột, nếu đi chúc thọ thì gọi
mèo dậy cùng đi, chuột giả vờ đồng ý. Để trả thù, sáng sớm ngày mùng chín tháng
Giêng, chuột âm thầm xuất phát. Chuột khởi hành rất sớm, chạy cũng rất nhanh,
nhưng khi đến bờ sông to lớn, nước chảy cuồn cuộn, không tài nào qua sông được.
Chuột buồn rầu ngồi bên bờ sông, một hồi, trâu cũng đi rất sớm, từ từ tiến về
bờ sông, chờ khi trâu xuống nước, chuột nhanh chóng chui vào tai trâu. Bình
thường trâu rất tốt bụng, thích giúp người khác, nên không quan tâm. Sau khi
qua sông, chuột thấy nằm trong tai trâu rất thoải mái, lại không tốn sức, nên
nằm lì đó luôn. Chiều, đến cổng Ngọc Vương, trâu định vào cổng, bất ngờ, chuột
chui ra khỏi tai trâu và nhảy đến trước mặt Ngọc Vương. Như thế, chuột là thứ
nhất, trâu chỉ được vị trí thứ nhì, rồi kế đó hổ, thỏ, rồng, rắn, ngựa, cừu,
khỉ, gà, chó cũng lần lượt đến. Heo đến cuối cùng, đứng thứ 12. Ngọc Vương theo
thứ tự phong cho mỗi con vật phiên trực một năm. Như thế 12 con giáp được quyết
định. Sáng sớm ngày mồng 10 tháng Giêng mèo mới thức dậy, lập tức lên đường.
Trên đường đi vắng tanh, không có ai, mèo rất mừng, tưởng những động vật khác
chưa xuất phát. Đến cổng Ngọc Vương, mèo vừa gõ cửa vừa kêu lớn tiếng: “Tâu
Ngọc Vương, mèo đến rồi”. Vệ sĩ mới cười mèo và nói: “Con mèo ngu và mê ngủ
kia, ngươi đến trễ một ngày rồi”. Mèo tức giận cùng cực và thề ăn thịt con
chuột [2].

Đó là thần thoại. Trong sách sử thì khác.

Thời xa xưa bên Trung Quốc, chưa có lịch pháp, sau dùng
thiên can địa chi để tính giờ, ngày, tháng, năm. Sáng chế thiên can địa chi
cũng như những con số của Ả Rập, hay là ngôi vị dùng để đếm và định hướng,
chúng hoàn toàn không có ý nghĩa, dù sau này có người cố gán thêm ý nghĩa cho
chúng.

10 thiên can là: Giáp (甲), ất (乙), bính (丙), đinh (丁), mậu (戊), kỷ (己), canh (庚), tân (辛), nhâm (壬), quý (癸).

12 địa chi là: Tý (子, còn đọc tử, là ngôi
đầu của 12 con giáp) , sửu (丑), dần (寅), mão (卯, còn đọc là mẹo), thìn
(辰), tỵ (巳), ngọ (午), mùi (未), thân (申), dậu (酉), tuất (戌), hợi (亥).

Thiên can địa chi liên quan đến thuyết âm dương
và ngũ hành.
Dương can là giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Âm can là ất, đinh, kỷ,
tân, quý. Còn dương chi là tý (tử), dần, thìn, ngọ, thân, tuất. Âm chi là sửu,
mão (mẹo), tỵ, mùi, dậu, hợi. (xem H.1)

H.1: Thiên can địa chi liên quan đến thuyết âm dương

Quan hệ giữa địa chi và phương vị ngũ hành:

Tý (tự, chuột) thuộc dương thuỷ, phương Bắc; Sửu (trâu)
thuộc âm thổ, phương Trung (giữa); Dần (hổ) thuộc dương mộc, phương Đông; Mão
(mẹo, thỏ) thuộc âm mộc, phương Đông; Thìn (rồng), thuộc dương thổ, phương
Trung (giữa); Tỵ (rắn) thuộc âm hoả, phương Nam; Ngọ (ngưa) thuộc dương hoả,
phương Nam; Mùi (cừu) thuộc âm thổ, phương Trung (giữa); Thân (khỉ) thuộc dương
kim, phương Tây; Dậu (gà) thuộc âm kim, phương Tây; Tuất (chó) thuộc dương thổ,
phương Trung (giữa); Hợi (heo) thuộc âm thuỷ, phương Bắc. (xem H.2)

H.2: Quan hệ giữa 12 địa chi và phương vị ngũ hành

Theo truyền thuyết, 2700 TCN, Hoàng đế Hiên Viên, tổ tiên
dân tộc Hoa ra lệnh cho Nạo Thị [3] xem xét khí thế của trời đất, nghiên cứu
ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ), rồi sáng chế ra thiên can địa chi, phối
hợp thành 60 giáp tử làm ký hiệu của niên lịch. Nạo Thị phân chia giáp, ất là
mộc; bính, đinh là hoả; mậu, kỷ là thổ; canh, tân là kim; nhâm, quý là thuỷ
(xem H.3). Rồi ông cũng chia loại cho địa chi. Dần, mão thuộc mộc; tỵ, ngọ
thuộc hoả; tân, dậu thuộc kim; hợi, tử thuộc thuỷ; thìn, tuất, sửu, mùi thuộc
thổ. (xem H.4)

 

H.3: 10 Thiên can và Ngũ hành. H.4: 12 Địa chi và Ngũ hành

Người xưa còn vận dụng thiên can địa chi cho bản đồ, phương
vị và thời gian. Họ sắp xếp 10 thiên can thành hình tròn, 12 địa chi thành hình
vuông, cho nên sau này có thuyết trời tròn đất vuông.
(xem H.5)

H.5: Chu kỳ đồ thị của
thập Thiên can và thập nhị Địa chi

12 địa chi là ký hiệu chỉ thứ tự. Tử không có nghĩa là
chuột, sửu không có nghĩa là trâu, dần không có nghĩa là hổ… Vì 12 địa chi
tương ứng có 12 con giáp, người Việt hầu như cứ tưởng là 12 địa chi là 12 con
giáp, chỉ vì 12 địa chi tương ứng 12 con giáp là:

Thời xưa, tại trung nguyên Trung Quốc chỉ dùng can chi để
tính năm, nhưng những dân tộc thiểu số tây bắc Trung Quốc thì dùng tên các con
vật để ghi năm. Đường Thư [4] có ghi: “Nước Hiệt Kiết Tư [5] dùng tên 12 con
vật để ghi năm, như năm dần thì gọi là năm hổ”. Và Tống Sử [6] (Thổ Phồn
truyện) cũng nói rõ thủ lãnh Thổ Phồn [7] khi ghi chép thì dùng động vật để ghi
năm. Sau này Trung Quốc giao lưu với các dân tộc thiểu số này nhiều, hai cách
ghi năm dung hoà với nhau, trở thành vừa có can chi, vừa có con giáp như hiện
nay [8].

 

Văn hoá Việt Nam và Trung Hoa rất gần nhau. Hai
nước đều có 12 địa chi và 12 con giáp. Nhưng 12 con giáp lại có khác biệt, Việt
Nam
không có con thỏ, mà có con mèo. Tại sao có những khác biệt đó, cần phải có
thời gian nghiên cứu. Có người cho rằng khi âm lịch du nhập Việt Nam, chữ mão
còn đọc là mẹo, âm đọc chữ mẹo gần giống chữ mèo, người Việt thường hiểu lầm
tên gọi địa chi là tên con giáp, nên hiểu là mèo. Còn có người nói là khi đó
Việt Nam
chưa có thỏ, nên dùng mèo thay thế.

Nhiều dân tộc Đông Á và Đông Âu sử dụng 12 con giáp để chỉ
năm [9]:

_______________________________________________

12                       
Trung Hoa                                
                
Cổ         

Địa       
Việt      
Bulgary    Nhật       
Ấn Độ     
Ai Cập    
Cổ

chi        
Nam     
Hungary  
                                
Hy Lạp      Babylon

             
                              
Turkestan                                                                 

         
Chuột     
Chuột        
Chuột       
Chuột        Trâu đực   
Mèo       

SỬU      
Trâu        Bò            
Trâu         
Trâu          Dê
/cừu     Chó

DẦN      
Hổ         
Hổ            
Hổ             Sư
tử         Sư
tử /vượn Rắn

MÃO      
Mèo       
Thỏ           
Thỏ          
Thỏ          
Lừa           Bọ hung

THÌN     
Rồng      
Rồng         
Rồng         Rồng
       
Cua           Lừa

TỴ         
Rắn        
Rắn          
Rắn           Rắn nāga  
Rắn           Sư tử

NGỌ      
Ngựa     
Ngựa        
Ngựa        
Ngựa         Chó          
Dê đực

MÙI       
Dê         
Cừu          
Cừu          
Cừu           Chuột/mèo Trâu
đực

THÂN    
Khỉ         
Khỉ            
Khỉ            Khỉ
macác  Cá sấu       Chim cắt

DẬU      
Gà         
Gà            
Gà            
Gà             Hồng
hạc   Khỉ

TUẤT     
Chó        
Chó          
Chó          
Chó           Vượn/sư
tử  Hồng hạc

HỢI       
Lợn         Lợn rừng   
Lợn rừng    Lợn / Voi    Chim ưng   Cá
sấu

_______________________________________________

Việt Nam
lấy con mèo chỉ chi Mão, theo âm dương thì không đúng lắm, nhưng cũng có ý
nghĩa. Vì mèo là động vật hữu nhủ, ăn thịt, sống từ 14-20 năm tuỳ theo sức khoẻ
và sự chăm sóc tốt của con người, có loại không đuôi và có đuôi; bộ lông một
màu (nếu đen thì còn gọi là mèo mun) hay nhiều màu; nếu có ba màu thì gọi là
mèo tam thể… Mèo cũng “sáng dạ” nhờ con người luyện tập mà mèo có thể làm các
động tác làm xiếc đơn giản và giật nước nhà vệ sinh, mở tay nắm cửa…

Mèo tượng trưng cho những người ăn nói nhẹ nhàng, nhiều tài
năng, nhiều tham vọng và sẽ thành công trên con đường học vấn. Người tuổi mão có
tinh thần mềm dẻo, tính kiên nhẫn và biết chờ thời cơ trước khi hành động. Giờ
mão bắt đầu từ 5 giờ đến 7 giờ sáng “khi mèo bắt đầu đi kiếm ăn”.[10]

Theo Wikipedia thì mèo hay đúng hơn là “mèo nhà” là con vật
sống chung đụng, gần gủi với loài người. Với tài bắt chuột, làm xiếc; với bộ
dạng nhanh nhẹn, yễu điệu, gương mặt đáng yêu; nhờ tiếng kêu nhỏ nhẹ, nũng nịu
“meo, meo”.

Có rất nhiều tục ngữ và ca dao nói về mèo, như:

– “Nam
thực như hổ, nữ thực như miêu”.

– “Chó giữ nhà, mèo bắt chuột”.

– “Không biết mèo nào cắn miêu nào”.

– “Chó treo, mèo đậy”.

– “Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”.

Tóm lại: Việc ghép 12 địa chi với 12 con giáp là sự pha
trộn giữa các nền văn hoá mà nguồn gốc cho tới nay chưa được sáng tỏ.

Một số tác giả cho đó là việc ghép của thú lịch (lịch động
vật) của các dân tộc thiểu số tại tây bắc Trung Quốc với 12 địa chi trong nông
lịch.

Một số tác giả Việt Nam như Lê Mạnh Thát, Nguyễn Thiếu Dũng
thì lại cố gắng chứng minh nguồn gốc của “can chi” có từ nền văn minh Bách
Việt. Gần đây, nhà ngôn ngữ Nguyễn Cung Thông đã cho rằng nguồn gốc tên 12 con
giáp xuất phát từ người Việt cổ.

Tuy nhiên, luận theo các tài liệu cổ của Trung Hoa như Luận
Hành (Q.14 và 66) của Vương Sung (王充, 27-97) thì 12 con
giáp hoàn chỉnh phải có ít nhất là từ thời Đông Hán và căn cứ theo Bắc Sử (Vũ
Văn Hộ pháp), Đường Thư (đoạn viết về nước Hiệt Kiết Tư), Tống sử (Thổ Phồn
truyện) thì việc dùng 12 con vật để tính toán năm, tháng, ngày, giờ đã được sử
dụng trong số các dân tộc thiểu số Trung Quốc.

Năm Mão sắp đến, khi xem sơ qua thiên can địa chi và con
giáp, chúng ta thấy con giáp không phải phát minh của Trung Hoa hay Việt Nam,
mà là các dân tộc thiểu số ở tây bắc Trung Quốc. Văn hoá thế giới qua giao lưu
mà ảnh hưởng với nhau, cho thấy loài người cả thế giới vẫn là anh em một nhà.

Chúc mọi người năm Mão phát huy được tài năng của mình, mà
thành công trong mọi lãnh vực, đặc biệt là trong lãnh vực truyền giảng Phúc Âm.

—————————–

[1]
http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C6%B0%E1%BB%9Di_hai_con_gi%C3%A1p

[2]
http://zh.wikipedia.org/zh/%E7%94%9F%E8%82%96

[3] Nạo Thị có lẽ không phải là một người, mà
là một nhóm người ở chức vụ soạn lịch, hiểu biết về âm dương và ngũ hành.

[4] Sách do Lưu Hu (劉昫) chủ biên, được viết từ năm 941-945, gồm 200 quyển, bao quát một
số sự kiện chính từ Đường Cao Tổ tới Đường Ai Đế (từ 618-907). Bên cạnh đó còn
cung cấp một số tài liệu về các dân tộc ngoài Trung Hoa khi đó như Khiết Đan,
Thổ Phồn, Đột Quyết, Hồi Hột và Tây Tạng. Đường thư được coi là một kiệt tác
lịch sử trong “Nhị thập tứ sử”.

[5] Hiện nay là Kyrgyzstan, quốc gia vùng Trung Á,
giáp với phía tây Tân Cương, Trung Quốc.

[6] Tống sử (宋史): Một bộ sử trong Nhị
thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống (Bắc Tống và Nam
Tống); sách do Thoát Thoát biên soạn hoàn thành năm 1345.

[7] Thổ Phồn (hay Thổ Phiên 吐蕃hoặc Thổ Phiền吐藩) là tên mà người Trung
Quốc từ thời nhà Đường dùng để gọi một vương quốc từng thống trị Tây Tạng.
Vương quốc này khống chế gần như toàn bộ con đường tơ lụa suốt từ thế kỷ 6 đến
thế kỷ 9. Nay là Tân Cương thuộc Trung Quốc.

[8]
http://zh.wikipedia.org/zh/%E7%94%9F%E8%82%96.

[9] Tổng hợp từ:
http://www.petruskylhp.org/concho.htm;
http://japanest.com/forum/showthread.php?t=5210&page=1;
http://why.vn2z.net/linh-vuc-khac/742-vi-sao-la-12-con-giap

[10] http://japanest.com/forum/showthread.php?t=11864&pagenumber=

(TTCG Cập nhật: 26/01/2011
09:29:08)  

Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

 

Rate this post

Viết một bình luận