Nhạc cụ cổ truyền VN – Lục Huyền Cầm

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Tiếp theo Đàn Hồ/Gáo, hôm nay mình giới thiệu đến các bạn cây Lục Huyền Cầm của Việt Nam.

Lục Huyền Cầm là loại nhạc cụ độc đáo của Việt Nam được biến cải dựa trên cây đàn Guitar (Guitare Espagnole Moderne) của phương Tây trong quá trình phát triển của loại hình Âm Nhạc Tài Tử và Cải lương ở Miền Nam – Việt Nam. Nó còn có tên là Ghita Phím Lõm, Ghita Việt Nam, Ghita Vọng Cổ.

Lục Huyền Cầm là cả một quá trình thử nghiệm, chọn lọc với nhiều nhạc cụ phương Tây khác nhau, điều chỉnh, cải biến để phù hợp với loại hình âm nhạc đòi hỏi những khả năng biểu hiện tình cảm, kỹ thuật đa dạng và phong phú.

Lục Huyền Cầm ra đời với cái tên đặc biệt này tuy nó chỉ có 4 dây. Cho đến ngày nay, nó được sử dụng phổ biến với hệ thống gồm 5 dây, đó là cả một quá trình với sự đóng góp của nhiều nghệ nhân danh tiếng trong làng nhạc Cải lương, Tài tử.

gphimlom_ĐB

Từ cây đàn Ghita 6 dây ban đầu, người ta khoét các phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ.

* Thùng đàn: hình tròn dẹt, đường kính 36 cm.

* Mặt đàn: mặt đàn phẳng, làm bằng gỗ thông nhẹ, xốp, thành đàn thấp khoảng 8,5 cm làm bằng gỗ cứng có lỗ thoát âm, trên mặt đàn có một bộ phận để mắc dây đàn và một ngựa đàn.

* Dọc đàn (cần đàn): dài 62 cm làm bằng gỗ cứng, thường dùng gỗ trắc, có tất cả 19 phím bằng kim loại (đồng thau) gắn đàn trên cần đàn: 12 phím đàn gắn đàn trên dọc (cần đàn) và 7 phím gắn trên cần và mặt đàn. Trên dọc (cần đàn), khoảng cách giữa hai ô phím, người ta khoét lỗ sâu xuống cần đàn, để tạo ra hiệu quả âm thanh đặc biệt, như nhấn, rung… thể hiện chữ nhạc dân tộc Việt Nam rõ nét và sâu sắc hơn.

* Dây đàn: là loại dây kim khí thường là bằng inox, chạy qua ngựa đàn, kéo lên cần đàn, trước khi xỏ vào trục dây được luồn qua một miếng xương đặt trên mặt cần đàn. Qua quá trình hình thành và phát triển, có nhiều hệ thống lên dây như:

1. Dây Xề Bóp: Sòl, Ðô, Sol, Rế;
2. Dây Sài Gòn: (Rề), Sol, Rê, Sol, Rế
3. Dây Rạch Giá: (Rề), Sol, Rê, Sol, La, Mí
4. Dây Tứ Nguyệt: (Rề), La, Rê, La, Rế
5. Dây Lai: (Sol), Rê, Sol, Rê, La, Rế
6. Dây Ngân Giang: Sòl, Rê, Sol, Si, Rế, hoặc Rề, La, Rê, Fa#, La.
7. Dây bán Ngân Giang: Rê, Sol, Rê, Si, Rế

gphimlom3

Hiện nay hệ thống dây Lai: Rê, Sol, Rê, La, Rế (có khi 6 dây: Sol, Rê, Sol, Rê, La, Rế) được coi là phổ biến nhất được sử dụng để biểu diễn, giảng dạy và học tập, đặc biệt hai dây đàn số 1 và số 2 có tiết diện nhỏ hơn dây Ghita bình thường để tạo cho âm sắc mềm mại và thanh thoát hơn.

* Bộ phận lên dây: có 6 trục để lên dây, mỗi trục xuyên ngang thành đàn (ở đầu đàn) để mắc dây và lên dây.

* Miếng gảy đàn: nghệ nhân gảy đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, vê, khảy, móc…

Khi dùng chơi nhạc cổ, Lục Huyền Cầm không dùng dây 6. Dây đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic).

gphimlom37

Tư thế đàn:

1. Ngồi thấp: xếp chân trên chiếu
2. Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt ngang tầm tay:

Kỹ thuật tay trái: có ngón láy, ngón luyến, ngón bật, ngón mổ, ngón bịt và đặc biệt là ngón vuốt vì dọc (cần đàn). Ghita Việt Nam có bàn phím lõm, ngón này thường kết hợp với ngón vê của tay phải.

Ngón rung ngang: còn gọi là rung gân trong, là cách rung theo chiều ngang của dây, đối với những âm rung có tính chất bắt buộc và thường xuyên như Xự và Cống trong Hơi Bắc, Xang và Oan trong Hơi Nam thì có thể đặt dấu rung ở hoá biểu nơi thích hợp trên dòng hoặc khe nhạc. Tùy theo trình độ và thói quen, người ta có thể xử lý chữ nhạc theo mức độ khác nhau: rung nhanh và đều đặn gọi là rung mượt, rung nhanh và gợn sóng gọi là rung hột.

Ngón nhấn: là dùng ngón bấm tay trái nhấn dây xuống để tạo hiệu quả tiếng đàn cao hơn cung bậc bình thường, ký hiệu dấu nhấn ghi trên nốt.

Ngón nhấn luyến: là ngón nhấn một âm này đến một hoặc nhiều âm khác có cao độ cao hoặc thấp hơn âm khởi đầu, tất cả đều thực hiện trên cùng một ô phím. Hiệu quả nhấn luyến tạo cho âm thanh nghe liền lạc, mềm mại và mang đậm tính dân tộc.

Ngón nhấn rung: là kết hợp giữa ngón nhấn và rung, ví dụ như Xang và Oan trong Hơi Nam.

Ngón nhấn mượn cung: là tạo một âm nào đó bằng cách nhấn trước trên cung phím của một bậc âm trước nó, hiệu quả âm thanh nghe tình cảm hơn so với bấm ngay trên cung phím chính của âm này.

Ngón nhấn láy: là kết hợp giữa nhấn và láy, tùy theo hình thức láy nó có thể là nhấn láy dài, nhấn láy ngắn, nhấn láy vỗ, nhấn láy chùm…

gphimlom38

Ngón vuốt: là dùng ngón tay trái vuốt đi lên hay đi xuống theo chiều dọc của dây trong khi tay phải chỉ gảy một lần hay kết hợp với ngón vê hay ngón phi.

Bồi âm: là cách sử dụng ngón tay trái chạm nhẹ vào giữa các phím ở các ngăn V, VII, IX, XII, XVII trong khi tay phải gảy dây đó ở sát ngựa đàn. Cũng có thể dùng đầu ngón trỏ của tay mặt chạm vào dây cũng trên các ngăn trên trong khi ngón áp út của tay mặt gảy ngay dây đó. Âm bồi có hiệu quả nghe như tiếng chuông.

Lục Huyền Cầm được chủ yếu chơi trong dàn nhạc của Cải Lương, Đờn Ca Tài Tử Miền Nam.

Dưới đây mình có các bài:

– Đàn Guitar có nguồn gốc từ Tây Ban Nha?
– Lịch sử phát triển Ghita ở Việt Nam
– Nét độc đáo của đàn Guitar phím lõm trong dàn nhạc Tài Tử Cải Lương
– Đàn Ghita Việt Nam
– Đệ nhất danh cầm Ghita Phím Lõm

Cùng với 13 clips tổng hợp độc tấu, hòa tấu Lục Huyền Cầm trong các sinh hoạt Đờn Ca Tài Tử và trích đoạn tuồng Cải Lương, và 1 clip song tấu Guitar & T’rưng bài Malaguena, do các nghệ nhân ưu tú trình diễn để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Đặc biệt hôm nay mình giới thiệu đến các bạn “Đệ Nhất Danh Cầm (Lục Huyền Cầm) Cổ Nhạc VN”, cố nhạc sĩ Văn Vĩ, người thầy kính yêu của mình trong bộ môn Dân Ca Cổ Nhạc Miền Nam, và Danh cầm Văn Hải, người đệ tử tài năng nhất của thầy với ngón đàn cực tốc tuyệt kỷ.

Mời các bạn.

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

gphimlom_Nghệ sĩ đang đệm guitar

Đàn Guitar có nguồn gốc từ Tây Ban Nha?

Đàn Guitar không phải xuất hiện đầu tiên ở Tây Ban Nha

Đúng vậy, Đàn Guitar hay Tây Ban Cầm là nhạc cụ có gốc gác từ phương đông và rất thông dụng ở Persia và nhiều xứ khác của Trung Đông. Sau này người Á Rập mới đưa nhạc cụ này vào Tây Ban Nha. Vì lẽ đó mà không ít người lầm tưởng nhạc cụ này có nguồn gốc từ Tây Ban Nha.

Cách gọi là Tây Ban Cầm là để phân biệt với “Hạ Uy Cầm” (Guitar Hawaienne) hoặc là Lục Huyền Cầm (Guitar lõm phím trong đờn ca tài tử Nam Bộ)

Lịch sử phát triển của đàn Guitar

Đàn ghita có một lịch sử phát triển lâu dài, có lẽ khởi đầu từ chiếc dây cung của những người thợ săn cổ. Tiếng bật của dây cung khi mũi tên được phóng đi đã gợi ý cho người xưa sáng tạo ra đàn lia, đàn hạc và đàn luyt. Những chiếc đàn này được làm từ gỗ, mai rùa và gân động vật. Ở Hy Lạp, thế kỷ 7, người ta thấy xuất hiện phổ biến đàn lia và đàn cithara (một loại đàn lớn cồng kềnh, bắt chước cơ cấu của đàn lia với mặt gỗ to bản).

Từ “ghita” (guitar) bắt nguồn từ chữ cithara. Cây đàn ghita đầu tiên có lẽ xuất hiện ở Ai Cập và Babylon từ 1000 năm trước Công nguyên. Trải qua nhiều biến đổi, nó được những đạo quân xâm lược mang đến châu Âu khoảng thế kỷ thứ 8 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 14, đặc biệt tại Tây Ban Nha.

gphimlom_Cây guitar điện màu xanh đẹp tuyệt

Các loại đàn guitar ngày nay hay sử dụng

Theo thời gian cũng như tập quán sinh hoạt ở mỗi vùng miền, khu vực và tầng lớp khác nhau mà ngày nay có rất nhiều biến thể từ chiếc guitar cổ:

Guitar thùng (acoustic guitar)
Guitar Baroque và Guitar Phục Hưng (Renaissance)
Guitar cổ điển (Classical guitar)
Guitar 12 dây
Guitar Torres
Guitar Hawaii
Guitar thép Pedal (Pedal steel guitar)
Guitar điện đầu lõm
Guitar phím lõm
Guitar điện
Guitar điện Les Paul
Guitar cộng hưởng (resonator, resophobic hay dobro)
Guitar đệm
Guitar bass không phím

gphimlom39

Lịch sử phát triển Ghita ở Việt Nam

Đàn ghita xuất hiện ở Việt Nam từ bao giờ là một câu trả lời khó. Giả thuyết hiện nay được nhiều người đồng ý là đàn ghita đã theo chân các cố đạo Tây Ban Nha du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 19. Nhưng phải đến năm 1920 mới bắt đầu xuất hiện những người Việt Nam chơi ghita.

Quá trình hình thành

Những người chơi ghita đầu tiên ở Việt Nam chính là các nghệ sỹ cải lương. Ghita phím lõm là guitar du nhập từ nước ngoài được các Nghệ nhân đờn ca tài tử khoét lõm phím đàn và lên dây theo âm giai ngũ cung (pentatonic) “Líu, Xề, Líu Hò, Lìu” để đàn các bài bản cải lương.

Vào thập niên 1930, tân nhạc Việt Nam phát triển cùng với số lượng người chơi ghita theo lối mới tăng lên. Bên cạnh những người diễn tấu người nước ngoài đã xuất hiện những tên tuổi Việt Nam như Phan Văn Trường, Canh Thân, Đỗ Chí Khang, Thiện Tơ, Dương Thiệu Tước. Tuy nhiên, họ đều tự học là chính chứ không được đào tạo một cách bài bản.

Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của ghita, các hình thức biểu diễn và diễn tấu đều mang tính tự phát. Phổ biến nhất là dạng ban nhạc gồm 4 nhạc cụ: ghita Hawaii, guitar 6 dây, Đại hồ cầm và ghita 4 dây Hawaii (ukulele), chơi hòa tấu trong các phòng trà hoặc quán bar. Các hình thức khác như song tấu hay độc tấu mãi tới thập niên 1940 về sau này mới phát triển.

Năm 1932, xuất hiện cây đàn ghita đầu tiên do người Việt Nam làm là cây đàn do cụ Xuân Lan, người làng Đào Xá (Hà Nội) chế tác. Thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều cửa hiệu làm đàn nổi tiếng như Nhạc Sơn, Kim Thanh, Tạ Tấn.

Quá trình phát triển

Giữa thập niên 1940, cây ghita đã giành được vị thế quan trọng trong giới mộ điệu của Việt Nam. Với tính chất dễ chơi, dễ học, gọn nhẹ, ghita đã trở thành bạn đường thân thiết của các nhạc sỹ kháng chiến, giới học sinh sinh viên và nhiều người yêu nhạc.

Thời kỳ trước 1975 vì yếu tố chiến tranh mà nghệ thuật ghita cũng vì thế trở nên thăng trầm. Dần dần có sự phân hoá rõ rệt tại hai vùng Nam – Bắc của đất nước. Tại mỗi nơi, ghita có những đặc thù nhất định.

Tại miền Bắc, cùng với sự ra đời của bộ môn ghita trong khoá giảng dạy đầu tiên của trường Âm nhạc Việt Nam (1956) do Phạm Ngữ làm chủ nhiệm đã đánh dấu bước đi quan trọng cho thấy ghita được chính thức chấp nhận.

Nhạc phẩm và sách giáo khoa được biên soạn cho ghita được xuất bản một cách rộng rãi . Các nhạc phẩm của thời kỳ này hầu hết là được chuyển soạn (arrangement) từ các ca khúc Việt Nam nổi tiếng hay biến tấu (variation) trên các làn điệu dân ca. Hầu hết các trung tâm nghệ thuật đều có các lớp dạy đàn ghita.

Song, do hoàn cảnh chiến tranh, thiếu bài bản và điều kiện tổ chức, thiếu cả sự liên hệ với nền nghệ thuật ghita thế giới, và thiếu cả nghệ sĩ ghita bậc thầy được đào tạo chính quy nên nghệ thuật ghita ở miền Bắc lúc đó phát triển chậm và không đều.

Ở miền Nam, sự phát triển của guitar có phần thuận lợi hơn. Đàn ghita được đưa vào chương trình giảng dạy của trường Quốc gia Âm nhạc Huế và trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn từ 1956. Thêm vào đó, giới mộ điệu ở Sài Gòn được tiếp xúc nhiều hơn với ghita cổ điển thế giới thông qua những buổi trình diễn của các bậc thầy như Siegfried Behrend, Julian Bream, Alice Artzt,… Ghita từ chỗ phổ biến ở phòng trà, dần dần đã đi vào đời sống thường nhật. Có rất nhiều dòng ghita cùng song song tồn tại và hỗ trợ cho nhau rất tốt như ghita cổ điển, ghita flamenco, ghita jazz……

Thời kỳ sau 1975 nghệ sỹ ghita ở hai miền có dịp gặp nhau, trao đổi kinh nghiệm, bài bản và kỹ thuật. Từ đó tạo cơ sở cho nền nghệ thuật ghita non trẻ của Việt Nam có dịp phát triển lên một trình độ mới.

Kể từ sau năm 1990, ghita cổ điển cũng như nghệ thuật ghita nói chung dường như bước vào thoái trào. Giới ghita cổ điển chỉ còn gói gọn trong các nhạc viện. Những nghệ sỹ lớn hầu hết đều chuyển sang chơi nhạc nhẹ hoặc rời ra nước ngoài. Nghề làm đàn ghi-ta, vĩ cầm, mandoline…..cũng theo đó mà bị mai một.

Nhưng hiện nay thì Guitar tại Việt Nam đã được công chúng hóa và lan tràn khắp nơi trong lòng người yêu nhạc, từ quán bar đến phòng trà, công viên, vỉa hè…

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, mạng Internet, sự giao lưu của những người yêu ghi-ta đã không bị giới hạn trong một vùng cụ thể mà có thể thường xuyên tìm hiểu trao đổi học hỏi với bên ngoài….

Các quán coffe Acoustic mọc lên như nấm sau mưa, các trung tâm dạy đàn thì nườm nượp già trẻ lớn bé kéo nhau đi học…

Tại BMT có thể kể đến Nhà Văn Hóa Thanh Thiếu Nhi Daklak, số 03 Lê Duẩn, một điểm dạy Guitar tương đối lớn và uy tín nhất, mỗi năm thu hút hàng ngàn người đến đăng ký học.

Nét độc đáo của đàn Guitar phím lõm trong dàn nhạc Tài Tử Cải Lương

(Băng Huyền)

Nhạc Tài Tử Cải Lương ra đời khi các nhạc cụ dân tộc đã định hình, trước nhu cầu muốn tìm một nhạc cụ phù hợp với nghệ thuật Tài Tử Cải Lương, các nghệ nhân nhạc Tài Tử Cải Lương giàu sáng tạo đã thử nghiệm trên nhiều nhạc cụ, cả nhạc cụ dân tộc và nhạc cụ Tây phương du nhập vào Việt Nam, và đã cho ra đời cây guitare phím lõm thật độc đáo.

Cận cảnh cây đàn guitar phím lõm điện tử, bên dưới là Song Loan và dụng cụ Effect guitare kèm theo đàn guitar phím lõm điện tử để tăng hiệu quả âm thanh cho nhạc cụ. (Băng Huyền-Viễn Đông)

Kể từ những năm đầu thập niên 1930 đến nay, từ một cây đàn guitare của Tây phương, các nghệ nhân của Tài Tử Cải Lương đã “Việt Nam hóa” bằng cách khoét lõm phím thành guitar phím lõm để có thể nhấn nhá ra những chữ nhạc cổ truyền dân tộc, lên dây theo nhiều cung bậc khác nhau của đàn Tài Tử. (Chẳng hạn như các loại dây Xề Bóp; Dây Sài Gòn; Dây Rạch Giá; Dây Tứ Nguyệt; Dây Lai; Dây Ngân Giang; Dây bán Ngân Giang; Dây Mỹ Châu, v.v..) Họ vận dụng kiến thức về hệ thống bài bản âm nhạc tài tử để diễn tấu nhạc cụ mới này, tùy bài người ta lên các dây khác nhau để có thể nhấn được các điệu buồn đặc trưng, điệu Nam, Nam Ai, Nam Xuân, Ngũ cung đảo hay Tứ đại oán… trong bài vọng cổ.

Dù là một nhạc cụ Tây Phương nhưng guitare phím lõm hội đủ những yếu tố sáng tạo độc đáo để trở thành nhạc cụ mang âm sắc Việt Nam, là một điều rất đáng để tự hào. Để rồi theo thời gian, cây guitare phím lõm đã khẳng định vai trò của mình trong dàn nhạc cải lương, bất kỳ cuộc hòa đàm nào cũng không thể vắng mặt cây đàn này. Dù là một nhạc cụ “trẻ nhất” trong dàn nhạc truyền thống Việt Nam, nhưng nó đã chiếm vị trí cây đàn chủ lực trong dàn nhạc cải lương, mà khi xưa vị trí đó thuộc về đàn Kìm.

Theo lời của nhạc sĩ cổ nhạc Văn Hoàng thì trước khi đàn guitare phím lõm giữ vai trò chủ lực, giữ nhịp Song Loan trong dàn nhạc cải lương, thì đa số người ca bài bản nhạc tài tử giỏi có xuất thân từ những lớp nhạc tài tử, các thầy đờn thường dùng đờn Kìm để dẫn dắt người học. Âm sắc và lòng bản của đờn Kìm đã trở thành nền tảng. Chính vì vậy vai trò chủ lực, giữ nhịp Song Loan trong dàn nhạc, giữ một vai trò giềng mối cho cả đêm diễn luôn là tiếng đờn Kìm.

“Nhưng từ những năm 1930, khi đàn guitare được đưa vào dàn nhạc tài tử, mang lại một âm sắc mới, hấp dẫn trong ca nhạc tài tử, nên sân khấu cải lương cũng bắt đầu sử dụng guitare vào dàn nhạc của sân khấu cải lương. Nhiều nhạc sĩ đờn Kìm đã chuyển sang luyện tập đàn guitare phím lõm.”

Vì sao đàn guitare phím lõm trở thành một nhạc cụ không thể thiếu đối với ban nhạc Tài Tử, Cải Lương, và đôi khi trong một buổi diễn trích đoạn cải lương hoặc ca vọng cổ, tân cổ giao duyên hiện nay tại hải ngoại, bầu show muốn tiết kiệm tiền, nhưng tránh việc để nghệ sĩ hát trên nền nhạc thu sẵn CD phát ra, chỉ cần mời một nhạc sĩ guitare phím lõm để đệm đàn mà vẫn bảo đảm được buổi diễn sống động.

Giải thích điều này, nhạc sĩ Văn Hoàng cho rằng, “Bởi do cấu tạo khá hoàn hảo và khả năng biểu hiện đa dạng của guitare phím lõm. Đặc biệt là ngày nay với hệ thống dây Lai [Rê, Sol, Rê, La, Rế (có khi 6 dây: Sol, Rê, Sol, Rê, La, Rế) được coi là phổ biến nhất được sử dụng để biểu diễn, giảng dạy và học tập, đặc biệt hai dây đàn số 1 và số 2 có tiết diện nhỏ hơn dây Guitare bình thường để tạo cho âm sắc mềm mại và thanh thoát hơn.], dây này đang thống trị do tính đa năng, đàn thoải mái ba hơi cũng như các giọng nam nữ khác nhau, khỏi phải chỉnh lại dây đàn nếu chuyển sang các điệu khác, nên guitare phím lõm đàn được tất cả các loại bài bản tài tử, cải lương và cả nhạc mới, việc khoét lõm các phím đàn giúp cho guitare phím lõm có những nét nhấn, rung… thể hiện được những sắc thái tinh tế của âm nhạc tài tử. Với hệ thống phím bán cung và số lượng dây tương đối nhiều, guitare phím lõm có những nét lướt nhanh, trong một thời gian ngắn có thể đàn một số lượng nốt khá nhiều và có thể biến âm nhiều kiểu mà không bị hạn chế. Guitar phím lõm là một nhạc cụ có khả năng tạo nên những cái mới vì vậy riêng đối với cải lương, nó là nhạc cụ không thể thiếu.

 

Cấu tạo của Guitare phím lõm gỗ và điện

Guitare phím lõm có 2 loại là đàn gỗ và đàn điện:

Đàn gỗ được cấu tạo có thùng đàn, mặt đàn phẳng, làm bằng gỗ thông nhẹ, thành đàn thấp làm bằng gỗ cứng có lỗ thoát âm, trên mặt đàn có một bộ phận để mắc dây đàn và một ngựa đàn.
Cần đàn làm bằng gỗ cứng, có tất cả 19 phím bằng kim loại (đồng thau) gắn đàn trên cần đàn: 12 phím đàn gắn đàn trên dọc (cần đàn) và 7 phím gắn trên cần và mặt đàn. Trên dọc (cần đàn), khoảng cách giữa hai ô phím, người ta khoét lỗ sâu xuống cần đàn, để tạo ra hiệu quả âm thanh đặc biệt, như nhấn, rung… thể hiện chữ nhạc dân tộc Việt Nam rõ nét và sâu sắc hơn.

Còn guiatare điện thì thùng đàn có hình vẹt vai, là một khối đặc hoặc có hộp cộng hưởng, dọc theo mặt đàn, ngay dưới các dây đàn, có gắn 1 đến 4 cuộn dây điện tử. Mặt đàn gắn một miếng nhựa để bảo vệ không bị trầy sướt do miếng gảy đàn chạm vào. Có 3 hoặc 4 nút điều chỉnh âm sắc và âm lượng của âm thanh phát ra. Cần đàn Guitare phím lõm điện dài và dẹp hơn cần đàn Guitare phím lõm bằng gỗ, giữa khoảng cách của hai phím đàn, cần đàn cũng được khoét sâu tương tự Guitare phím lõm bằng gỗ.

 

Tính năng đa dạng của Guitare phím lõm điện tử

Khi người viết hỏi vì sao hiện nay hầu hết các nhạc sĩ Guitare phím lõm đều sử dụng đàn điện mà không còn dùng đàn gỗ. Nhạc sĩ Văn Hoàng giải thích: “Ban đầu guitare phím lõm thường thấy là thuộc loại guitare gỗ có hộp cộng hưởng là thùng đàn. Tiếng của guitar gỗ rất hay và ấm nhưng độ vang kém. Ngày nay trong những buổi sinh hoạt đàn ca tài tử nhỏ, người ta vẫn dùng guitare gỗ. Thời trước, muốn chơi trong dàn nhạc trên sân khấu, người ta phải dùng tới guitare điện không còn thùng đàn nhưng tiếng được khuếch đại lên nhiều lần nhờ hệ thống tăng âm điện tử. Lúc đó, chưa có việc để điện vào.

Khoảng những năm cuối thập niên 1940, đầu thập niên 1950, mới gắn điện vào. Guitare điện tiếng đàn chạy lả lướt, đánh rất mau. Ngoài ra ngày nay khi sử dụng guitare điện phím lõm, người ta còn kèm thêm một dụng cụ gọi là Effect Guitare là một trong những thiết bị để biến đổi âm thanh dành cho Guitar điện, tạo ra những sound khác nhau, những effect khác nhau cho Guitare. Giúp âm sắc biến hóa khôn lường, cũng từ một cây đàn nhưng lại có thể cho ra nhiều âm khác nhau. Chính vì thế có thể dễ dàng hiểu được vì sao Guiatare phím lõm đã chiếm vị trí giữ nhịp Song Loan thay cho đờn Kìm trong dàn nhạc Cải Lương.”

 

Song Loan là gì?

Song Loan, là một trong những nhạc cụ nằm trong bộ gõ. Song Loan chỉ là một nhạc cụ thứ yếu trong hệ thống nhạc lễ, vì ngoài Song Loan còn có các nhạc cụ như: Trống, thanh tre, đấu chập cha… Trống lễ mới giữ vai trò chủ yếu và giữ giềng mối trong tổng thể của dàn nhạc lễ. Từ khi nhạc Tài Tử Cải Lương xuất hiện, thì Song Loan được đưa vào dàn nhạc và trở thành một nhạc cụ giữ vai trò rất quan trọng để giữ nhịp.

Có một điều độc đáo là mỗi nhạc cụ trong dàn nhạc là do một nhạc công đảm nhận, nhưng Song Loan thì không cố định, bất cứ nhạc công nào cũng có thể sử dụng nó, nhưng phải là người có năng lực chỉ huy trong dàn nhạc như nhạc trưởng. Mà trước đây là người đờn Kìm, nay thay thế là người đàn Guitare.

“Là một loại mõ nhỏ bằng gỗ cứng hình tròn dẹt, Song Loan có hình dáng bé nhỏ nhất so với các nhạc cụ khác, một mảnh gỗ tròn chưa bằng miệng chén, đường kính 7 cm, cao 4 cm, được xẻ miệng sâu vào thân khoảng 1/3 để thoát âm. Có một cần gõ bằng sừng trâu uốn mỏng hoặc lá thép có độ đàn hồi cao, trên đầu cần có gắn miếng gỗ nhỏ để gõ xuống thân của nó, tạo ra âm thanh đều đặn “Cốp. Cốp.”

Âm thanh của Song Loan có cao độ lớn nhất và âm vực rộng vang rất xa, không cần qua hệ thống khuếch đại âm thanh mà từ xa khan giả vẫn có thể nghe rõ hơn các nhạc cụ khác trong dàn nhạc Tài Tử Cải lương.” (Trích nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

 

Nhạc sĩ cổ nhạc Văn Hoàng cho biết, “Song Loan có vai trò rất quan trọng trong việc giữ trường canh cho các nhạc cụ khác theo đó mà giữ tiết tấu nhịp điệu của mình trong hòa tấu. Người giữ Song Loan ngày xưa là thầy đờn Kìm), sau này thì người giữ Song Loan là Guitare phím lõm, tuy nhiên trong đờn ca tài tử thì đờn Kìm luôn giữ Song Loan.

“Tất cả các nhạc công phải hướng theo tín hiệu Song Loan mà giữ trường canh tiết tấu theo người giữ Song loan và báo hiệu để kết thúc một giai điệu. Trong sân khấu cải lương, không sử dụng hết bài bản mà chỉ một số câu một số lớp nhất định, nên khi gần chấm dứt, người đàn chánh giữ Song Loan sẽ báo hiệu bằng cách đạp lên Song Loan gõ đúp hai cái “Cốp, cốp” liên tục và hai nhịp sau đó ca đờn ngưng một lượt.

“Nhờ vào đó, người đờn diễn tấu tự tin một cách độc lập, phóng túng ngón đờn chữ nhạc một cách bay bướm, người ca thể hiện cảm xúc qua lời ca hoặc sử dụng kỹ thuật luyến láy, lạng lánh mà không lo ngại chênh nhịp… Vì vậy Song Loan là nền tảng của nhịp điệu cho cả nhạc và ca, trong các bản ngắn của Cải Lương, người nghệ sĩ đạt yêu cầu là nhờ có tính hiệu của Song Loan.” (bh)

 

Đàn Ghi-Ta Việt Nam

(Võ Thanh Tùng)

I. Giới thiệu sơ lược:

Đàn Ghi-Ta Việt- Nam còn được gọi là Ghi-Ta phím lõm hay Ghi-Ta Vọng Cổ, Ðàn Lục Huyền Cầm hoặc Ghi-Ta Cải lương rất thịnh hành tại Việt Nam. Ghi-Ta Việt- Nam là cây đàn được cải biến từ Ðàn Guitare cổ điển, phát sinh từ vùng đất Nam Bộ Việt Nam.

II. Xếp loại:

Đàn Ghi-Ta là nhạc khí dây gảy loại có dọc (cần đàn), có nguồn gốc từ Tây Ban Nha nhập vào Việt Nam, được người Việt cải tạo và trở thành nhạc khí Việt Nam.

gphimlom_Ghita Việt Nam1

III. Hình thức cấu tạo:

Ghi-ta Việt Nam là nhạc khí dây gảy, giống như loại Guitare phối hợp tức là Guitare cổ điển nhưng thùng đàn dẹp và cần đàn hẹp hơn, Ghi-ta Việt Nam có bàn phím lõm khoét sâu vào dọc (cần đàn).

1. Thùng đàn: hình tròn dẹt, đường kính 36cm.

2. Mặt đàn: mặt đàn phẳng, làm bằng gỗ thông nhẹ, xốp, thành đàn thấp khoảng 8,5cm làm bằng gỗ cứng có lỗ thoát âm, trên mặt đàn có một bộ phận để mắc dây đàn và một ngựa đàn.

3. Dọc đàn (cần đàn): dài 62cm làm bằng gỗ cứng, thường dùng gỗ trắc, có tất cả 19 phím bằng kim loại (đồng thau) gắn đàn trên cần đàn: 12 phím đàn gắn đàn trên dọc (cần đàn) và 7 phím gắn trên cần và mặt đàn. Trên dọc (cần đàn), khoảng cách giữa hai ô phím, người ta khoét lỗ sâu xuống cần đàn, để tạo ra hiệu quả âm thanh đặc biệt, như nhấn, rung…thể hiện chữ nhạc dân tộc Việt Nam rõ nét và sâu sắc hơn.

4. Dây đàn: là loại dây kim khí thường là Inox, chạy qua ngựa đàn, kéo lên cần đàn, trước khi xỏ vào trục dây được luồn qua một miếng xương đặt trên mặt cần đàn. Qua quá trình hình thành và phát triển, có nhiều hệ thống lên dây như:

* Dây Xề Bóp: Sòl, Ðô, Sol, Rế;
* Dây Sài Gòn: (Rề), Sol, Rê, Sol, Rế
* Dây Rạch Giá: (Rề), Sol, Rê, Sol, La, Mí
* Dây Tứ Nguyệt: (Rề), La, Rê, La, Rế
* Dây Lai: (Sol), Rê, Sol, Rê, La, Rế
* Dây Ngân Giang: Sòl, Rê, Sol, Si, Rế, hoặc Rề, La, Rê, Fa#, La.
* Dây bán Ngân Giang: Rê, Sol, Rê, Si, Rế

Hiện nay hệ thống dây Lai: Rê, Sol, Rê, La, Rế (có khi 6 dây: Sol, Rê, Sol, Rê, La, Rế) được coi là phổ biến nhất được sử dụng để biểu diễn, giảng dạy và học tập, đặc biệt hai dây đàn số 1 và số 2 có tiết diện nhỏ hơn dây Ghi-Ta bình thường để tạo cho âm sắc mềm mại và thanh thoát hơn.

5. Bộ phận lên dây: có 6 trục để lên dây, mỗi trục xuyên ngang thành đàn (ở đầu đàn) để mắc dây và lên dây.

6. Miếng gảy đàn: nghệ nhân gảy đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, vê, khảy, móc…

gphimlom4

Ví dụ: (190-20)

7-Ghi-Ta Việt Nam (điện): thùng có hình vẹt vai, là một khối đặc hoặc có hộp cộng hưởng, dọc theo mặt đàn, ngay dưới các dây đàn, có gắn 1 đến 4 cuộn dây điện tử (bobine). Mặt đàn gắn một miếng nhựa để bảo vệ không bị trầy sướt do miếng gảy đàn chạm vào. Có 3 hoặc 4 nút điều chỉnh âm sắc và âm lượng của âm thanh phát ra. Cần đàn Ghi-Ta Việt Nam điện dài và dẹp hơn cần đàn Ghi-Ta thùng, giữa khoảng cách của hai phím đàn, cần đàn cũng được khoét sâu tương tự Ghi-Ta thùng.

gphimlom5

IV. Màu âm, Tầm âm:

Màu âm Ðàn Ghi-ta Việt Nam trong sáng mà lại ấm, vang.

Tầm âm: Ðàn Ghi-Ta Việt Nam rộng 3 quãng 8 từ: Rê lên Rê3 (d lên d3)

gphimlom6

Ví dụ: (191-8) Dạo Bắc

gphimlom7

Ví dụ: (192-1) Tầm âm (hò tư)

gphimlom8

Ví dụ: (194-3) Thang âm Bắc và hơi Bắc

gphimlom9

Ví dụ: (196-4) Hơi Xuân

gphimlom10

Ví dụ: (197-5) Hơi Ai

gphimlom11

Ví dụ: (198-6) Hơi Oán

gphimlom12

gphimlom13

V. Kỹ thuật Diễn tấu:

Tư thế đàn: (1)-Ngồi thấp: xếp chân trên chiếu; (2)-Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt ngang tầm tay:

Kỹ thuật tay trái: có ngón láy, ngón luyến, ngón bật, ngón mổ, ngón bịt và đặc biệt là ngón vuốt vì dọc (cần đàn). Ghi-ta Việt Nam có bàn phím lõm, ngón nầy thường kết hợp với ngón vê của tay phải.

Ngón rung ngang: còn gọi là rung gân trong, là cách rung theo chiều ngang của dây, đối với những âm rung có tính chất bắt buộc và thường xuyên như Xự và Cống trong Hơi Bắc, Xang và Oan trong Hơi Nam thì có thể đặt dấu rung ở hoá biểu nơi thích hợp trên dòng hoặc khe nhạc. Tùy theo trình độ và thói quen, người ta có thể xử lý chữ nhạc theo mức độ khác nhau: rung nhanh và đều đặn gọi là rung mượt, rung nhanh và gợn sóng gọi là rung hột.

Ví dụ: (199-21)

gphimlom14

Ngón nhấn: là dùng ngón bấm tay trái nhấn dây xuống để tạo hiệu quả tiếng đàn cao hơn cung bậc bình thường, ký hiệu dấu nhấn ghi trên nốt.

Ví dụ: (200-22)

gphimlom15

Ngón nhấn luyến: là ngón nhấn một âm này đến một hoặc nhiều âm khác có cao độ cao hoặc thấp hơn âm khởi đầu, tất cả đều thực hiện trên cùng một ô phím. Hiệu quả nhấn luyến tạo cho âm thanh nghe liền lạc, mềm mại và mang đậm tính dân tộc.

Ví dụ: (201-26)

gphimlom16

Ngón nhấn rung: là kết hợp giữa ngón nhấn và rung, ví dụ như Xang và Oan trong Hơi Nam.

Ví dụ: (202-25)

gphimlom17

Ngón nhấn mượn cung: là tạo một âm nào đó bằng cách nhấn trước trên cung phím của một bậc âm trước nó, hiệu quả âm thanh nghe tình cảm hơn so với bấm ngay trên cung phím chính của âm nầy.

Ví dụ: (203-24)

gphimlom18

Ngón nhấn láy: là kết hợp giữa nhấn và láy, tùy theo hình thức láy nó có thể là nhấn láy dài, nhấn láy ngắn, nhấn láy vỗ, nhấn láy chùm…

Ví dụ: (204-23)

gphimlom19

Ngón vuốt: là dùng ngón tay trái vuốt đi lên hay đi xuống theo chiều dọc của dây trong khi tay phải chỉ gảy một lần hay kết hợp với ngón vê hay ngón phi.

Ví dụ: (205-28)

gphimlom20

Ngón vê: Ví dụ: (206-19)

gphimlom21

Ngón ngắt: Ví dụ: (207-29)

gphimlom22

Ngón chặn dây: Ví dụ: (208-30)

gphimlom23

Ví dụ: (209-31)

gphimlom24)

Bồi âm: là cách sử dụng ngón tay trái chạm nhẹ vào giữa các phím ở các ngăn V, VII, IX, XII, XVII trong khi tay phải gảy dây đó ở sát ngựa đàn. Cũng có thể dùng đầu ngón trỏ của tay mặt chạm vào dây cũng trên các ngăn trên trong khi ngón áp út của tay mặt gảy ngay dây đó. Âm bồi có hiệu quả nghe như tiếng chuông.

Ví dụ: (210-32)

gphimlom25

Ví dụ: (211-8goc7)

gphimlom26

Ví dụ: (212-9)

gphimlom27

Ví dụ: (213-17)

gphimlom28

Ví dụ: (214-18)

gphimlom29

Ví dụ: (215-10)

gphimlom30

Ví dụ: (216-11)

gphimlom31

Ví dụ: (217-12)

gphimlom32

Ví dụ: (218-13)

gphimlom33

Ví dụ: (219-14)

gphimlom34

Ví dụ: (220-15)

gphimlom35

Ví dụ: (221-33)

gphimlom36

VI. Vị trí Ðàn Ghi-Ta Việt Nam trong các Dàn nhạc:

Đàn Ghi-ta Việt Nam chủ yếu được sử dụng trong các buổi đàn ca Tài tử hoặc trong các Dàn nhạc Cải lương (Ghi-Ta phím lõm điện).

Đệ nhất danh cầm Ghita phím lõm

(Nguyên Pháp)

Nhắc đến Văn Vĩ (1929 -1985) là nhắc đến một huyền thoại của đờn ca tài tử – cải lương Nam Bộ. Không chỉ người mộ điệu thưởng thức và tôn sùng tiếng đờn của ông mà những bậc nhạc sư, nhà nghiên cứu âm nhạc tài tử – cải lương cũng phải công nhận ông là “Đệ nhất danh cầm”, là “Nhạc sĩ Tài tử Nam Bộ”…

Ngón đờn lừng lẫy bước ra từ thế giới vô sắc

Mới 3 tuổi đời, căn bệnh đậu mùa đã cướp đi đôi mắt của cậu bé Văn Vĩ. Vì vậy, Văn Vĩ chỉ có thể cảm nhận thế giới bằng thanh âm, mùi, vị và đôi bàn tay. Người ta cho rằng, chính nhờ sống trong “thế giới bóng tối” mà Văn Vĩ đã tạo nên một thứ âm thanh tuyệt diệu, xuất chúng không ai sánh kịp. Tuy khiếm thị nhưng Văn Vĩ rất “thông thính” và “sành” nhiều loại nhạc cụ: cò, líu, gáo, kìm, tỳ bà, tam, sáo, violon, v.v. loại nào “chơi” cũng hay “ghê ghớm”. Nhưng đưa ông lên hàng “đỉnh cao” nghệ thuật thì người ta phải kể đến những ngón đờn trong ghi-ta phím lõm.

Năm 14 tuổi khi xuất hiện lần đầu tiên trước công chúng, ông đờn cho gánh hát Minh Tinh, rồi quán Lạc Cảnh ở Sài Gòn, đã có nhiều đoàn hát, hãng đĩa, đài phát thanh tranh nhau “câu kéo” ông như: Asia, Continental, Đài Pháp Á, Họa Mi, Việt Nam cổ nhạc kịch đoàn, Thăng Long, Lam Sơn, Hồng Hoa, .v.v. Những “tuyệt kỹ” độc tấu sáu câu vọng cổ bằng ghi ta phím lõm hay song tấu, tam tấu cùng hai bậc danh cầm Năm Cơ (đờn kìm) – Bảy Bá (tức soạn giả Viễn Châu – ông vua viết vọng cổ đờn tranh) đã “làm mưa làm gió” một thời.

Những “tuyệt phẩm” như: “Cung thương hòa điệu” từ ngón đờn bay bướm, tinh anh của bộ ba này thường “cháy” đĩa. Rồi phải kể đến việc Văn Vĩ kết hợp cùng danh ca, “sầu nữ” Út Bạch Lan làm “bứt ruột bứt gan” và lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt của khán thính giả mộ điệu.

Nhạc sĩ kiêm nhà nghiên cứu nghệ thuật đờn ca tài tử Nhị Tấn cho biết: “Nói về kỹ thuật đờn ghi-ta phím lõm hay dở, cao thấp, hơn thua nhau ở sự ngẫu hứng, sáng tạo nhiều “chữ đờn” riêng, lối chạy chữ luyến láy, chẻ nhịp và quan trọng nhất ở cách nhấn nhá chữ “xang”. Cùng một chữ “xang” nhưng Văn Vĩ lại nhấn nhá ra nhiều âm vị cao thâm, mùi mẫn không thể tả. Tiếng đờn Văn Vĩ là tiếng đờn “độc chiêu” của người chỉ cảm nhận cuộc đời qua âm thanh nên rất tinh tế, sâu sắc, nghe “đã tai” hơn hẳn người sáng mắt đờn”.
Còn Nhạc sĩ Văn Hải, vốn là học trò “cưng” của Văn Vĩ thì “bái phục” nhất ông thầy mình ở chỗ có sức đờn và ngón tay khỏe “kinh hồn”: “Thầy Văn Vĩ có ngón đờn khỏe lắm, hồi đó và bây giờ người ta đờn dây cỡ 16 đến 18 thì thầy đờn toàn dây cỡ 20, loại dây mà không tay đờn nào đờn nổi vì dây đó lớn và cứng nên rất khó nhấn nhá. Vậy mà thầy nhấn nhá nghe ngon ơ”.

Với tinh thần “phong lưu tài tử” của mình, Văn Vĩ ngoài việc đờn cho những nơi có thể “hái” ra tiền thì ông còn tham gia “miễn phí” ở các câu lạc bộ đờn ca tài tử, cốt để tìm bạn tri âm. Văn Vĩ từng tâm sự với bạn bè rằng: “Đi giao lưu ở câu lạc bộ đờn ca tài tử vậy mà vui, không phải bận tâm như khi đờn trên sân khấu”. “Chính những chuyến đi giao lưu với anh em, những lần “rày đây mai đó” khắp miệt đồng bằng để vui, để buồn cùng những người nông dân chân lắm tay bùn, chơn chất, chính cái tự do, cái vui đó mà Văn Vĩ đã nhiều lần ngẫu hứng, sáng tạo nên những “chữ đờn độc” xuất thần để đời”, nhạc sĩ Nhị Tấn bình luận.

 

Duyên nghiệp với ghi-ta phím lõm

Đệ nhất danh cầm Văn Vĩ tên thật là Đinh Văn Dậm, sinh tại làng Bình Đăng, nay là xã Bình Hưng, Cần Giuộc, Long An. Thân sinh là ông Đinh Văn Muôn làm nghề đánh xe ngựa và bà Chung Thị Sái tảo tần làm ruộng. Khi “chạy” thầy trị bệnh đậu mùa năm 3 tuổi, thầy thấy thương tình và đặt lại tên theo vì sao: sao Vĩ.

Năm lên 7, gia đình Văn Vĩ xuôi về Bạc Liêu sinh sống. Khi ở Bạc Liêu, cạnh nhà Văn Vĩ có ông thầy đờn. Khi nghe cậu bé mù đờn cò líu (cò có cần ngắn) với “giọng” kéo rất năng khiếu, ông thương tình chỉ bảo không cần trả công. Vài năm sau, gia đình Văn Vĩ chuyển về Thuận Đông, Sài Gòn. Nơi đây Văn Vĩ được học bài bản đờn và luyện hai nhạc khí kìm, cò của hai “cao thủ” là thầy Bảy Thừa và Tư Lai.

Biết đờn, Văn Vĩ cùng Bé Hai (tức “sầu nữ” út Bạch Lan) hợp nhau đi đàn hát dạo kiếm tiền phụ giúp gia đình: “Chọn góc phố đông người, anh đờn em hát, đâu cỡ chục bài thì tiền đầy nón, toàn xu lẻ có khoét lỗ ở giữa. Hai anh em lấy dây xâu lại mang về cho mẹ mà lòng vui như Tết”, danh ca Út Bạch Lan từng kể lại. “Rồi có lúc đang đờn hát dạo, hai người bị lính Mã Tà bắt về bót đánh cho mấy cây ma trắc. May nhờ nhạc sĩ Jean Trịnh và danh ca Thành Công đến bảo lãnh mới được về…

Lần khác, tôi và Văn Vĩ được mời đờn cho một quán ca cổ ở Tân Bình, chưa đờn xong lớp một bản Xuân Tình thì súng nổ rầm rầm trong quán. Tôi dẫn Văn Vĩ chạy vào nhà vệ sinh núp. Văn Vĩ than: “Thúi quá”(!), tôi bảo: “Thà thúi mà không bị ăn đạn, chứ ăn đạn rồi cây ghita để cho ai”, nói xong cả hai cười xòa”, nhạc sĩ Nhị Tấn kể thêm.

Đầu những năm 50, thấy cây ghi-ta phím lõm chơi nghe hay lại đa năng nên Văn Vĩ theo học thầy Tư Thìn rồi thầy Tư A, sau đó “giao du” học hỏi đàn anh như: nghệ sĩ Ba Xây, Mười Út (làm cho Đài Phát Thanh Sài Gòn), thầy Chín Thành…Trải qua nhiều năm khổ luyện với nhiều loại nhạc cụ, qua tay “mài giũa” của rất nhiều bậc thầy âm nhạc nên ngón đờn của Văn Vĩ ngày một cao thâm nên được liệt vào hàng “kinh điển”.

Trời không phụ lòng người, năm 14 tuổi Văn Vĩ đã có tiếng tăm, có chỗ đứng trên sân khấu như gánh hát Minh Tinh, quán Lạc Cảnh. 16 tuổi đã đứng vào hàng ngũ của câu lạc bộ đờn ca tài tử, nơi toàn tập hợp những bậc danh cầm. Năm 21 tuổi Văn Vĩ đã đờn cho Đài Pháp Á (Văn Vĩ tham gia Ban Việt Nam cổ nhạc kịch đoàn do tài tử Tám Thưa làm trưởng ban) rồi được một loạt quán ca nhạc giải trí và gánh hát có tiếng thời đó mời biểu diễn.

Mãi tới năm 1964, sau ngần ấy năm “bôn ba” trong nghệ thuật, Văn Vĩ mới có được căn nhà trên đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Ở đây ông mở lớp dạy đờn ca cổ nhạc. Từ lò luyện này, bao lớp ca – nhạc sĩ lần lượt thành danh. Về ca có Thanh Hương, Vương Linh, Hoài Thanh…Về đờn có 3 người con trai: Văn An, Văn Hậu, Văn Tài; đệ tử ruột có Văn Bền, Văn Hải, Văn Mách… Đồng thời Văn Vĩ còn cộng tác cho: các hãng băng nhạc (băng từ), đĩa nhựa, Sở Văn hóa, Hội Sân khấu Thành phố, Đài truyền hình, Viện nghiên cứu âm nhạc… (Năm 1981, ông được Viện nghiên cứu âm nhạc công nhận là “Nhạc sĩ Tài tử Nam Bộ” do Viện trưởng Lưu Hữu Phước ký).

Cả cuộc đời “Đệ nhất danh cầm” Văn Vĩ đã cống hiến hết mình cho nền âm nhạc tinh túy của Miền Nam. Ông ra đi để lại một khoảng trống không nhỏ trong Đờn ca Tài tử – Cải lương mà cho tới bây giờ chưa có ai thay thế khỏa lấp được.

oOo

Hòa tấu CỔ NHẠC MIỀN NAM chọn lọc:

 

Sáu câu vọng cổ dây đào – Văn Vĩ độc tấu:

 

Vọng cổ 1,2,3 dây ngân giang – Văn Vĩ độc tấu:

 

Văn Thiên Tường qua Xế Xảng – Văn Vĩ hòa tấu:

 

Phụng Hoàng – Văn Vĩ hòa tấu:

 

Trăng Thu Dạ Khúc – Văn Vĩ hòa tấu:

 

Độc tấu Phụng Hoàng (dây xề) – Văn Hải:

 

Đoản Khúc Lam Giang – Văn Hải hòa tấu:

 

Độc tấu Nam Ai Nam Xuân (tổng hợp các dây) – Văn Hải:

 

Tình mẹ con – Út Bạch Lan:

 

Lệ Thủy – Út Bạch Lan – Bạch Tuyết:

 

Đờn ca tài tử cải lương:

 

Trích đoạn tuồng Duyên kiếp – Vũ Linh, Phương Hồng Thủy, Thoại Mỹ:

 

Malaguena – Song tấu Guitar & Đàn T’rưng (Vân Anh [Vanessa Vo]):

Share this:

  • Thêm

Thích bài này:

Thích

Đang tải…

Rate this post

Viết một bình luận