Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích đoạn thơ trong tác phẩm Việt Bắc của Tố Hữu. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé!
Trả lời câu hỏi: Phân tích đoạn thơ sau:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy…
…Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Án sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”.
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên, từ đó nhận xét đặc điểm phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Mẫu 1:
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng lớn, “con chim đầu đàn” của thơ ca Các mạng thế kỉ 20. Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu gắn liền với những năm kháng chiến trường kì của đất nước. Các bài thơ của ông nội dung chủ yếu phản ánh chặng đường trưởng thành của Các mạng, giải phóng dân tộc. Một trong những tập thơ nổi tiếng nhất của Tố Hữu là Việt Bắc. Trong đó, tiêu biểu là bài thơ “Việt Bắc” – một khúc tình ca về các mạng, cuộc sống kháng chiến, con người kháng chiến. Đặc biệt, Phân tích đoạn thơ nhớ gì như nhớ người yêu thể hiện tình cảm sâu nặng với nhân dân, đất nước và niềm tự hào dân tộc.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.
Việt Bắc, vùng đất cách mạng, nơi đã cưu mạng những người chiến sĩ cộng sản, đảng và nhà nước 15 năm trời. Cuộc kháng chiến kết thúc, đảng và các chiến sĩ phải rời về Hà Nội. Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh chia li nên những câu thơ giản dị, chân thành và tình cảm sâu nặng.
Hầu hết toàn bộ nội dung bài thơ đều ghi lại những tình cảm lưu luyến của người cán bộ và nhân dân. Đây cũng là lời khẳng định tình cảm thủy chung, son sắc của người cán bộ với Việt Bắc. Trong đó, một trích đoạn “Nhớ gì như nhớ người yêu” là những tâm tình khắc cốt ghi tâm, thể hiện rõ nhất tình yêu của người cán bộ dành cho đồng bào Việt Bắc và quê hương thứ 2 này.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Phân tích đoạn thơ nhớ gì như nhớ người yêu – Nếu ai đã từng yêu thì chắc hẳn biết, nỗi nhớ người yêu da diết triền miên thế nào. Chẳng phải vì thế mà rất nhiều bài thơ, bài hát nói về nỗi nhớ người yêu đầy da diết, sâu nặng. Đã từng có lời bài hát thế này: “Ôi những đêm ngắm trăng. Nhớ em buồn muốn khóc – trích trong bài hát Ngẫu hứng lý qua cầu”. Qua đây càng khẳng định nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ nồng nàn, da diết đến độ người thương cũng phải bật khóc vì quá nhớ. Vậy mà Tố Hữu đã ví nỗi nhớ những con người Việt Bắc không khác gì nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ da diết trìu mến mãi không thôi. Đó là nỗi nhớ nhân dân, những con người lao động và cưu mang cho anh bộ đội Cụ Hồ 15 năm qua. Đó cũng là nỗi nhớ về vùng quê bình yên, được gọi là quê hương thứ 2 của những người chiến sĩ cộng sản.
Qua hai câu thơ chúng ta vừa cảm nhận được nỗi nhớ của Tố Hữu dành cho người dân nơi đây nồng nàn tha thiết thế nào. Cách sử dụng hình ảnh người yêu để ví nỗi nhớ thể hiện sắc thái cao nhất của nỗi nhớ. Câu thơ thứ hai Tố Hữu sử dụng phép tiểu đối: “Trăng lên đầu núi/ nắng chiều lưng nương” thể hiện nỗi nhớ đêm ngày, bao trùm cả không gian lẫn thời gian. Cho thấy nỗi nhớ lớn lao và rất rộng.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Nỗi nhớ Việt Bắc không chỉ là như người yêu, không chỉ là ánh trăng, nắng lưng chiều mà đó còn là hình ảnh quen thuộc cảu bản làng. Nhớ những chiều khói bếp nghi ngút trắng trời xen lẫn sương khuya, hình ảnh đẹp, ma mị như một bức tranh đồng quê chân thực, mộc mạc. Nỗi nhớ Việt Bắc trong lòng người đi còn là hình ảnh bếp lửa. Đây là một hình ảnh rất dễ gây xúc động. Bếp lửa là nơi ấm cúng, là tình yêu gia đình, là tình yêu người thương, nơi đây có người thương đi về trong bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa gợi ra một mái ấm hiện hữu trong bóng dáng người thương nồng đượm ân tình.
Vậy là nỗi nhớ của Tố Hữu rất hiện thực, chân thành. Không phải là những gì quá to tát, cao sang, núi rừng quá hùng vĩ mà chỉ là những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc mà thấm đượm tình cảm, hình ảnh bếp lửa, người thương đi về.
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy”.
Nỗi nhớ của tác giả với đồng bào Miền Bắc tiếp tục hình ảnh các địa danh quen thuộc như Ngòi Thia, Sông đấy, suối lê, đây là những sự kiện và dấu ấn cách mạng không thể nào quên. Nếu ở câu trên là rừng nứa bờ tre đơn sơ giản dị quen thuộc, thì câu sau lại là những hình ảnh nghĩa nặng tình sâu, những dấu ấn quan trọng của cách mạng. Cả hai câu thơ tưởng đối lập mà lại hỗ trợ hợp nhau đến lạ, cho thấy tình cảm của tác giả dành cho Việt Bắc rất nhiều và không quên bất kỳ chi tiết nào
Đặc biệt chữ “vơi đầy” đây chính là cái vơ đầy của sông suối nhưng cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của nỗi nhớ trong tâm trí người ra đi.
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
Ta ở đây chính là nhà thơ. Sử dụng đại từ Ta để chỉ sự chung chung, không rõ là ai nhưng cũng là tất cả. Đó chính là những người chiến sĩ cộng sản sắp rời xa mảnh đất quê hương thứ 2 nhiều bâng khuâng, nhớ nhung da diết. Khi sắp rời xa Việt Bắc , nỗi nhớ lại dâng trào nhớ về những kỷ niệm có cả đắng cay và ngọt bùi. 15 năm ở núi rừng Việt Bắc, ăn rừng ở núi thì chắc chắn phải có nhiều kỷ niệm vui buồn khác nhau. Đó là những kỉ niệm với đồng bào Việt Bắc, nỗi nhớ lại tràn về hình ảnh củ sắn khoai mì, hình ảnh bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Những hình ảnh thân thương trong gian khó mà sao ấm lòng. Nỗi nhớ dường như đang thường trực trong trái tim những người chiến sĩ cộng sản, những anh bộ đội cụ hồ, để rồi giây phút chia li đến, những hình ảnh ấy càng rõ nét hơn.
Càng trong gian khó người ta lại càng thương nhau, khi chia xa lại càng nhớ nhau. Nỗi nhớ ấy có thể ví như nỗi nhớ người thân, máu ruột. Sắp chia li không biết bao giờ gặp lại nên Tố Hữu cố gắng ghi nhớ những khoảnh khắc tuyệt vời ấy.
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.
Để rồi hình ảnh người mẹ hiện ra. Đó là hình ảnh đẹp nhất, dịu dàng mà mạnh mẽ nhất. Ở núi rừng Tây Bắc đời sống khắc nghiệt, bà con phải đi làm rẫy từ sáng đến tối. Thường trẻ nhỏ sẽ được mẹ địu vào người và đưa lên rẫy. Đây là hình ảnh vô cùng thân thuộc đã từng đi vào thơ ca, bài hát:
“Mẹ thương akay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều, à ơi, à ơi…
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ
Đừng làm mẹ ngã, mẹ trỉa bắp trên nương”
Hình ảnh em bé Akay ngủ trên lưng mẹ đã đi vào thơ ca bài hát. Một hình ảnh quen thuộc của núi rừng Việt Bắc và là hình ảnh Tố Hữu không thể quên. Trong kháng chiến chống Pháp người dân Việt Bắc đã cùng đảng nhà nước chống giặc ngoại xâm trong hoàn cảnh vô cùng vất vả, khó khăn về vật chất. Hình ảnh mẹ địu con lên rẫy trong cái nắng chói chang cho thấy cuộc sống vô cùng vất vả vậy mà họ vẫn không ngại khổ, ngại khó để nuôi cán bộ và chống giặc.
Ở đây, không chỉ là tình cảm nhớ thương mà Tố Hữu dành cho người dân miền núi Việt Bắc mà còn là sự biết ơn, trân trọng những hi sinh mà đồng bào Việt Bắc đã dành cho đảng, nhà nước, các chiến sĩ cách mạng. Kháng chiến thành công một phần nhờ vào sức mạnh của nhân dân Việt Bắc. Nếu không có họ thì sao có thể có một chiến thắng vinh quang cho dân tộc.
Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ Tố Hữu. Đặc biệt tác giả sử dụng liên kết khúc nhạc thấy nỗi nhớ dạt dào vô tận. Đọc đoạn thơ lên ta thấy vô cùng ngọt ngào tình cảm thấm thía tình yêu, các hình ảnh Việt Bắc liên tục hiện ra như một đoạn phim quay chậm càng nhân lên niềm thương nhớ vô tận. Việt Bắc không đơn giản chỉ là mảnh đất tạm của những người chiến sĩ cộng sản mà nó còn là quê hương thứ 2: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn ”. Đúng vậy, trong từng lời thơ Tố Hữu Viết, Việt bắc như một nửa tâm hồn của tác giả, đó đã trở thành nơi gắn bó yêu thương Khó có thể tách rời. Nay sắp xa rồi nên bị rung, bâng khuâng, nhớ nhung và không nghi ngờ. Vì vậy, từng hình ảnh cứ hiện ra, khó có thể quên được.
Đoạn thơ ngắn nhưng đã thể hiện thành công tình cảm dành cho nhân dân Việt Bắc, là bản tình ca về lòng sắt song chung thủy. Đây không chỉ là tấm lòng của tác giả mà còn là tấm lòng của những người chiến sĩ đã từng ở đây và được mảnh đất này yêu thương, đùm bọc. Thật không hề nói quá khi nói Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Những lời thơ đơn giản mà chân thành, mộc mạc mà đậm sâu.
Mẫu 2:
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, là “con chim đầu đàn” của thơ ca Cách mạng Việt Nam thế kỉ XX. Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp cách mạng, thơ ông luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng. Nhắc đến ông, ta chẳng thể nào quên được những tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Máu và hoa,… Tiêu biểu trong số đó là bài thơ “Việt Bắc”, là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc. Đặc biệt là đoạn trích
” Nhớ gì như nhớ người yêu
….
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”.
Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 10/1954, Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những người kháng chiến (trong đó có Tố Hữu) từ căn cứ miền núi về miền chia tay Việt Bắc, chia tay khu căn cứ Cách mạng trong chiến tranh . Nhân sự kiện có lịch sử này Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Chia xa mảnh đất gắn bó, ai mà chẳng từng túi tiền. Thế nhưng hiếm có người thi sĩ nào mang trong lòng nỗi nhớ thiết tha, khắc khoải, cháy bỏng khi dã từ chiến trường Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Một dòng thơ mà hai lần chữ “nhớ” được gắn lại. Loay hoay mãi vẫn không thể nén được. Thơ buông với điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, hình ảnh người đọc. “Như người thương nhớ” là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc thấm thía nỗi nhớ thương người. Có khi nào ngơ ngẩn ngơ ngẩn; có khi bồn chồn, bối rối, bổi lội, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi đau lòng khám phá. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải có hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc. Một nỗi nhớ nồng nàn, thắm thiết, tha thiết. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu thực sự là một tình nhân chìm đắm trước Việt Bắc, trước những người dân đất nước mình. Cùng với những câu thơ “Mình về mình có nhớ ta – Mười năm thiết tha mặn nồng, Áo khoác trao buổi học – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”, tứ thơ “Nhớ gì như người yêu”. đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên nền thơ rất trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bình thường tìm hiểu kỹ thuật toán câu trả lời cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn giản là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. ngữ. Tình cảm giữa Bộ cách mạng và đồng bào chiến trường thiết tha, nồng nàn như tình yêu đôi lứa thơ ấu tìm đến cách cấu hình xưng hô như vậy. trước nhân dân đất nước mình. Cùng với những câu thơ “Mình về mình có nhớ ta – Mười năm thiết tha mặn nồng, Áo khoác trao buổi học – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”, tứ thơ “Nhớ gì như người yêu”. đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên nền thơ rất trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bình thường tìm hiểu kỹ thuật toán câu trả lời cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn giản là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. ngữ. Tình cảm giữa Bộ cách mạng và đồng bào chiến trường thiết tha, nồng nàn như tình yêu đôi lứa thơ ấu tìm đến cách cấu hình xưng hô như vậy. trước nhân dân đất nước mình. Cùng với những câu thơ “Mình về mình có nhớ ta – Mười năm thiết tha mặn nồng, Áo khoác trao buổi học – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”, tứ thơ “Nhớ gì như người yêu”. đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên nền thơ rất trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bình thường tìm hiểu kỹ thuật toán câu trả lời cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn giản là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. ngữ. Tình cảm giữa Bộ cách mạng và đồng bào chiến trường thiết tha, nồng nàn như tình yêu đôi lứa thơ ấu tìm đến cách cấu hình xưng hô như vậy. Áo lớp đưa ra buổi phân phối – Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay ”, tứ thơ“ Nhớ gì như người yêu ”đã đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong bài thơ Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên nền thơ rất trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bình thường tìm hiểu kỹ thuật toán câu trả lời cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn giản là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. ngữ. Tình cảm giữa Bộ cách mạng và đồng bào chiến trường thiết tha, nồng nàn như tình yêu đôi lứa thơ ấu tìm đến cách cấu hình xưng hô như vậy. Áo lớp đưa ra buổi phân phối – Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay ”, tứ thơ“ Nhớ gì như người yêu ”đã đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong bài thơ Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên nền thơ rất trữ tình. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bình thường tìm hiểu kỹ thuật toán câu trả lời cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn giản là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. ngữ. Tình cảm giữa Bộ cách mạng và đồng bào chiến trường thiết tha, nồng nàn như tình yêu đôi lứa thơ ấu tìm đến cách cấu hình xưng hô như vậy. Tố Hữu đã đưa lên chính giá trị thơ mộng rất cao cấp. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bình thường tìm hiểu kỹ thuật toán câu trả lời cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn giản là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. ngữ. Tình cảm giữa Bộ cách mạng và đồng bào chiến trường thiết tha, nồng nàn như tình yêu đôi lứa thơ ấu tìm đến cách cấu hình xưng hô như vậy. Tố Hữu đã đưa lên chính giá trị thơ mộng rất cao cấp. Khám phá câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bình thường tìm hiểu kỹ thuật toán câu trả lời cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn giản là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. ngữ. Tình cảm giữa Bộ cách mạng và đồng bào chiến trường thiết tha, nồng nàn như tình yêu đôi lứa thơ ấu tìm đến cách cấu hình xưng hô như vậy.
Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
“Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khó cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.
Những câu thơ như một bức tranh vẽ cảnh về rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có trăng huyền ảo, mảnh trăng soi ló ra đầu núi, có những ánh sáng chiếu trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, gợi mở. Tuy nhiên, với những người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất thân thương: Sớm khói lửa người thương đi về. Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế tần tảo, bảo đảm, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân chiến khu Việt Bắc. Không quản khó khăn gian nan, những người phụ nữ Việt Bắc vẫn sớm thiếu sót cần cân nhắc. Hình ảnh bếp lửa gợi ý các buổi tụ họp và nghĩa vụ quân đội bình thường. Tình dân quân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Cách nói “người thương” lỏng lẻo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm nồng nàn, yêu thương. Chắc trong trái tim nhà thơ để thương một người con gái Việt Bắc biết hi sinh vì Cách mạng.
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi” cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.
Đặc biệt, trong bài thơ, Tố Hữu đã viết nên một khúc ca hùng tráng về con người kháng chiến và cuộc kháng chiến. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn thơ sau:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như lá đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.
Thứ nhất, đoạn thơ đã tái hiện nên những hình ảnh hào hùng của quân và dân ta trong kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là một cuộc kháng chiến toàn dân. Các tầng lớp nhân dân bất phân già trẻ, gái trai, lớn bé đều tham gia kháng chiến. Trong đó, nổi bật nhất là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ. Người lính thời chống Pháp đã trải qua biết bao nhiêu hi sinh gian khổ nhưng rất hùng tráng và đầy lạc quan.
Hình ảnh hào hùng của đoàn quân ấy được thể hiện trong hai câu đầu của đoạn thơ:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Hai from láy “message” và “trùng lặp” đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả, nó vừa gợi lên hình ảnh của một đoàn quân đông đúc, vừa nâng lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn. quân. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, sức mạnh của lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.
Câu thơ thứ hai đưực ngắt theo nhịp 4/4: “Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan” càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính – một vẻ đẹp vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu sắc. Hình ảnh “Ánh sao đầu súng” có thể là hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân như “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; “ánh sao đầu súng” ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài Núi đôi đã viết:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”
Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta có cả một tập thể quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến. Họ là những “dân công đỏ đuốc từng đoàn” tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá, muôn tàn lửa bay”
Bằng cách nói mạnh mẽ “chân đồng đá”, nhà thơ làm nổi bật sức mạnh yêu nước, yêu cầu cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù của người dân lao động. Người dân lao động (lực lượng cốt lõi của mạng) là lực lượng đóng góp phần rất lớn để đưa ra các cuộc chiến chống lại Pháp để giành được lợi nhuận hoàn toàn sau này – Họ là những người nông dân đôn hậu, chất lượng, lớn lên từ bờ tre, gốc lúa nhưng họ đi vào cuộc chiến với tất cả những người tình cảm và hành động cao đẹp, họ bất chấp những điều hi sinh, gian khổ, mưa bom bão đạn của quân thù, đạp bằng mọi trở lực để đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng
Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng, thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể hiện nổi bật tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc cũng như khí thế hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc.
Trên đây là một số bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ trong tác phẩm Việt Bắc của Tố Hữu mà THPT Trịnh Hoài Đức đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!
Đăng bởi: THPT Trịnh Hoài Đức
Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12