Nội dung của câu đố là gì

Nội dung chính

  • Định nghĩa – Khái niệm
  • câu đố tiếng Tiếng Việt?
  • Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu đố trong Tiếng Việt
  • Kết luận
  • Video liên quan

Bạn đang chọn từ điển Tiếng Việt, hãy nhập từ khóa để tra.

Có nghiên cứu sâu vào tiếng Việt mới thấy Tiếng Việt phản ánh rõ hơn hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Ngôn từ Việt Nam rất giàu chất biểu cảm – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình.

Theo loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng lớn những từ song tiết, cho nên trong thực tế ngôn từ Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều có cấu trúc 2 vế đối ứng (trèo cao/ngã đau; ăn vóc/ học hay; một quả dâu da/bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe…).

Định nghĩa – Khái niệm

câu đố tiếng Tiếng Việt?

Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của từ câu đố trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ câu đố trong Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ câu đố nghĩa là gì.

– dt. Câu văn vần, mô tả đối tượng nào một cách khéo léo, úp mở, dùng để đố nhau: đặt câu đố một câu đố hóc búa.

  • Tân Phượng Tiếng Việt là gì?
  • trường thành Tiếng Việt là gì?
  • nối nghiệp Tiếng Việt là gì?
  • Phục Hy Tiếng Việt là gì?
  • Nong Long Tiếng Việt là gì?
  • quày quã Tiếng Việt là gì?
  • nhẵn thín Tiếng Việt là gì?
  • nấu nướng Tiếng Việt là gì?
  • gốc tích Tiếng Việt là gì?

Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu đố trong Tiếng Việt

câu đố có nghĩa là: – dt. Câu văn vần, mô tả đối tượng nào một cách khéo léo, úp mở, dùng để đố nhau: đặt câu đố một câu đố hóc búa.

Đây là cách dùng câu đố Tiếng Việt. Đây là một thuật ngữ Tiếng Việt chuyên ngành được cập nhập mới nhất năm 2022.

Kết luận

Hôm nay bạn đã học được thuật ngữ câu đố là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập tudienso.com để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn…liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.

Khái niệm: Câu đó là một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh đặc điểm của sự vật hiện tượng bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật chuyển hoá gây nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia), được nhân dân dùng trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và vui chơi giải trí.

Con ai hai đứa hai nơi

Cùng ăn một chỗ cung chơi một phòng

Đến khi nhà sập đá chồng

Thịt xựơng tan nát phận hồng,chứa chan

Đáp án

Mồm bò, mồm bò mà không phải là mồm bò lại chính là mồm bò

Đáp án

   Đi nằm, đứng nằm, ngồi nằm, nằm thì ngồi

Đáp án

Cù rù củ rủ cù rù

    Ai đem lót ổ cho cu hắn nằm

      Hắn nằm hắn chẳng nằm không

      Hắn nằm hắn để bối lông ra ngoài

Đáp án

Chân cao lỏng ngỏng

Da đét tận xương

Hồn đi bốn phương

Chân còn để lại.

Đáp án

Không miệng mà lại biết kêu

Không tội mà lại bị treo xà nhà

Đáp án

Hai mẹ đứng ở hai đầu

Đàn con trên dưới theo nhau xếp hàng.

Mẹ đứng thì con nằm ngang

Mẹ nằm con lại dàn hàng đứng lên.

Đáp án

Trên lợp ngói, dưới có hoa

Một thằng ló cổ ra

Bốn thằng rung rinh chạy.

Đáp án

Giúp người chẳng quản nắng mưa

Mà sao lại bảo ta ngu vô cùng?

Sách thì luôn để trong lòng

Bao người bảo dốt lạ lùng lắm thay.

Đáp án

Bia không được uống

Cũng uổng công nhìn.

Đáp án

Sáu chặt đầu

Chín chặt đuôi

Tám chặt đôi

Mười chặt một

Đáp án

Trắng như tuyết

Mượt như nhung

Sờ mó lung tung

Tìm nơi xám xịt.

Đáp án

Giữa lưng trời có vũng nước trong
Cá lòng tong lội không tới.

Đáp án

Ở nhằ bằng tựa bắp tay
Ra ngoài bành trướng to tày cái nia.

Đáp án

Bốn cột tứ trụ
Người ngự lên trên
Gươm bac hai bên

Chầu vua thượng đế.

Đáp án

Thân em xưa ở bụi tre.
Mùa đông xếp lại mùa hè mở ra.

Đáp án

Ở nơi cao nhất trên đầu
Chẳng đen như tóc, lại màu đỏ tươi
Lúc khỏe đẹp như mặt trời

Đến khi đau yếu màu tươi xám dần.

Đáp án

Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng.

Hạt gieo tới tấp
Rãi đều khắp ruộng đồng
Nhưng hạt gieo chẳng nảy mầm

Ðể bao hạt khác mừng tầm mọc xanh

Tôi ăn trước, tôi lại ăn thừa
Ngày ngày giúp chúa hầu vui nhọc nhằn.

Cây khô một lá bốn năm cành
Đường đi khúc khuỷu nhọc tay anh
Gặp kẻ tiểu nhân buồn chẳng nói

Chờ người quân tử mới dương danh.

Thân em nửa chuột nửa chim
Ngày treo chân ngủ, tối tìm mồi bay
Trời cho tai mắt giỏi thay

Tối đen tối mịt cứ bay vù vù?.

Hai cô nằm nghỉ hai phòng
Ngày thì mở cửa ra trông

Ðêm thì đóng cửa lấp trong ra ngoài.

Năm ông cùng ở một nhà
Tình huynh nghĩa đệ vào ra thuận hòa
Bốn ông tuổi đã lên ba

Một ông đã già mới lại lên hai.

Vuông vuông cửa đóng 2 đầu
100 thằng chệt lần hồi chui ra
Thằng nào không mũ thì tha

Thằng nào có mũ đem ra đốt đầu.

Thân dài thượt
Ruột thẳng băng
Khi thịt bị cắt khỏi chân

Thì ruột lòi dần vẫn thẳng như rươi?.

Đầu đuôi vuông vắn như nhau
Thân chia nhiều đốt rất mau rất đều
Tính tình chân thức đáng yêu

Muốn biết dài ngắn mọi điều có em?.

Hè về áo đỏ như son
Hè đi thay lá xanh non mượt mà
Bao nhiêu tay tỏa rộng ra

Như vẫy như đón bạn ta đến trường?

Nắng lửa mưa dầu ta không bỏ bạn.
Tối lửa tắt đèn bạn lại bỏ ta.

Da cóc mà bọc bột lọc
Bột lọc mà bọc trứng gà

Bổ ra thơm phức cả nhà muốn ăn.

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mắc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Nguồn:

http://vanhocdangian.com/cau-do/

http://doanhlinh.xtgem.com/Cau-do-dan-gian

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Đặc điểm nghệ thuật và nội dung của câu đố1.Đặc điểm nghệ thuật: Mọi sự vật hiện tượng trong câu đố đềuđược phản ánh bằng hình thức ẩn dụ. Câu đố thường ngắn gọn,chỉ là một câu nhưng cũng có thể khá dài thành một bài. Có điềucần lưu ý là ẩn dụ trong câu đố là một ẩn dụ hết sức độc đáo. Đólà ẩn dụ vơ hạn, càng xa, càng khó càng hay. Vào cuộc vúi, ngườichơi càng thua có nghĩa dà càng được. Bởi vì khi tun bố thua, sẽđược giảng giải, cắt nghĩa nên sẽ có được những kiến thức mới.Còn nếu câu đố quá dễ hoặc q quen thuộc hay q khó đềukhơng thể gây hứng thú.Trong câu đô’, ẩn dụ rất lạ lùng, thần tình gây bất ngờ nên hứngthú. Đó là các thủ pháp xã hội hoá, nhân hoá cạc hiện tượng tựnhiên;-Con đánh mẹ, mẹ van làngĐến khi ra làng, con chui bụng mẹ(Cái mõ)– Bôn bên bốn bức tường caoTrai không lọt vào gái lại chửa hoang(Ruộng lứa làm đòng)– Ruộng vng bốn gócTrúc mọc thẳng hàngVe kêu thánh thótGà q nhảy nhót một chân(Quyến vở, đọc và viết)— Con ai hai đứa hai nơi Cùng ăn một chỗ cung chơi một phòngĐến khi nhà sập đá chồngThịt xựơng tan nát phận hồng,chứa chan(Ăn trầu)Và ngược lại là thủ pháp tự nhiên, động vật hoá, thực vật hố conngười hay các bộ phận trong có thể chọn người để “lừa” ngưòinghe, làm họ mất định hựớng;mà thật thú vị:-Lưng trước bụng sauCon mặt ở dưới còn đầu ở trênCũng lận khi tác giả đã sử dụng cách nói lạ, nói ngược, nói lóng,điệp từ, điệp ngữ theo kiểu chơi chữ kín mà hở, hở mà kín hết sứclinh hoạt. Ví dụ:-Mồm bị, mồm bị mà khơng phải là mồm bị lại chính là mồm bị(Con ốc)–Trùng trục như con chó thui Chín mắt chín mũi chín tai chín đầu(Con chó thui)-Vừa bằng bó củi Thui lủi bờ ao Chó cắn xơn xao Là thằng ăn trộm(Thằng ăn trộm)-Đi nằm, đứng nằm, ngồi nằm, nằm thì ngồi(Bàn chân) Ở câu đố có một thủ pháp được sử dụng rất đắc địa là cách đố tụcgiảng thanh và đố thanh giảng tục.– Cù rù củ rủ cù rùAi đem lót ổ cho cu hắn nằmHắn nằm hắn chẳng nằm khơngHắn nằm hắn để bối lơng ra ngồi(Bắp ngơ)– Đố tục giảng thanh:Miệng chào mời anh Hai tay bưng đít(Mời trầu)Những câu đố về hoa chuối, cho con bú, tát nước, xâu kim… lànhững câu rất tiêu biểu cho cách đố tục giảng thanh này.Trong Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long (Khoa Ngữvăn Trường Đại học Cần Thơ – NXB Giáo Dục, 1999) có hơn haitrăm câu đố đề cập đến nhiều mảng hiện thực khách quan như vềcác hiện tượng trong vũ trụ; về thực vật, động vật; về người vàhoạt động của con người; về đồ vật.Một số câu đố chúng tôi từng gặp trong kho tàng câu đố ởmiền Bắc, miền Trung (theo thống kê của chúng tơi thì ít nhất cókhoảng 15 câu), có lẽ đây là hiện tượng giao thoa ngơn ngữ, giaothoa văn hóa giữa các vùng hoặc cũng có thể là lý do ở nguồn gốcdân cư. Tuy nhiên, cũng có nhiều câu đố mang những nét đặctrưng của Đồng bằng sông Cửu Long, là đặc sản của vùng đất này.Ngồi đặc điểm về tính vần vè, dễ nhớ; sử dụng biện pháp tutừ nhân hóa, ẩn dụ và tính chất giàu hình ảnh của câu đố dângian nói chung, câu đố dân gian Đồng bằng sông Cửu Long cũngrất đa dạng về số lượng câu chữ: có câu chỉ một dịng, câu dàinhất có tới 10 dịng. Tìm hiểu câu đố dân gian Đồng bằng sơng Cửu Long khơng chỉlà tìm hiểu về ngơn ngữ, văn hóa, văn học… của vùng đất nhiềulúa gạo, cây trái, cá tơm này mà cịn tìm hiểu về đặc điểm trinhận của con người nơi đây.a.Đặc điểm sự vật, hiện tượng được chọn để ra đốĐặc điểm tri nhận của người Nam bộ được thể hiện rất rõtrong cách chọn những đặc điểm của sự vật, hiện tượng được đố.Cách liên tưởng giữa sự vật, hiện tượng được đố và sự vật, hiệntượng làm “bức rèm” che giấu cũng có những nét riêng.Chẳng hạn, khi đố về trái dừa, Bắc Bộ đố:Chân không đến đất,Cật không đến trờiLơ lửng giữa trờiMà trong có nước (1)Người Tây Nam bộ đố:Một vũng nước trongBa con cá lịng tong lội khơng tới (2)Hay:Sơng khơng đến, bến khơng vàoLơ lửng giữa trời làm sao có nước (3)Hoặc:Trên trời có giếng nước trongCon kiến khơng lọt, con ong không vào (4)Rõ ràng, người Bắc Bộ chú ý tới đặc điểm vị trí (“lơ lửng giữatrời”) của đối tượng được đố và liên tưởng tới một sự vật có đặc điểm tương cận là động vật (chân, cật). Người Tây Nam Bộ cũngchú ý tới đặc điểm vị trí (như ở câu đố 3), nhưng còn để tâm tới cảđặc điểm đóng kín của sự vật được đố (ở đây là trái dừa): Ba concá lịng tong lội khơng tới (ở câu đố 2), Con kiến không lọt, conong không vào (ở câu đố 3). Sự liên tưởng đến sự vật khác làm“bức rèm” che giấu cũng khác với câu đố (1): “Một vũng nướctrong” và “giếng nước trong”.Ở câu đố về cây chuối chẳng hạn, nếu ở phía Bắc người đốtập trung chú ý vào đặc điểm cấu tạo nhiều bẹ, nhiều lá của cây:Áo đơn áo képĐứng nép bờ ao.thì người Đồng bằng sơng Cửu Long lại tập trung chú ý đếnđặc điểm sinh trưởng của cây để ra đố:Nhà giàu có mấy chiếc tàuCon ở dưới đất, mẹ sanh trên đầu.Ở một câu khác, người Tây Nam Bộ chú ý tới hình thức bềngồi của cây để đố:Cây không bào mà trơnBông không sơn mà đỏ.Câu đố về trăng của hai vùng đất cũng khác nhau:- Một mẹ sinh được vạn conSáng ra chết hết chỉ còn mình chaMặt mẹ như gương như hoaMặt cha nhăn nhó chẳng ma nào nhìn. (1)- Thoạt đẻ thì mọc hai sừngĐến khi lưng chừng thì ễnh bụng ra. (2) – Có ai mặt đẹp như hoaTừ bên nước Sở sang qua nước TầnMười lăm, mười sáu thì vềTừ ba mươi tuổi chớ hề vãng lai. (3)Ta thấy, giống người Bắc Bộ (câu đố 1), người Tây Nam Bộ(câu đố 2 và 3) cũng ví mặt trăng như gương mặt người con gáiđẹp. Có lẽ màu của mặt trăng được con người thuộc mọi dân tộctrên thế giới đều tri giác đầu tiên; chẳng hạn, người Nga đã đố vềmặt trăng: “Miếng pho mát ở trên cao mà mèo không ăn được”. Ởhai câu sau, ta thấy người Tây Nam Bộ lại chú ý thêm về thời điểmxuất hiện và khơng xuất hiện của trăng. Có một câu đố khác vềmặt trăng, người Bắc Bộ cũng chú ý tới thời điểm nhưng lại chú ýở rất nhiều thời điểm khác nhau của trăng:Lên một lên haiCòn đang bé nhỏLên ba lên bốnMới tỏ ra ngườiLên chín lên mườiCịn đang tươi tốtHai mươi, hăm mốtMắc bệnh ốm haoHai ông thiên tàoĐịnh ba mươi chết.Câu đố này đã so sánh trăng với sự sinh trưởng của thực vật,còn ở câu (2) và (3) của Tây Nam Bộ thì trăng lại được ví như là sựtrưởng thành của con người. Khi đố về con ruồi, một bên ví nó như người quân tử, một bênví với hạt đỗ:- Quân tử nhỏ, quân tử khônRạng ngày đến cửa ngọ môn,Trai lành, gái đẹp cũng đặng hơn,Món ngon vật lạ cũng đến sớm.(Tây Nam Bộ)-Bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng(Bắc Bộ)Chúng ta còn thấy sự tri nhận của con người về sự vật được đốgiữa các vùng đất không giống nhau ở nhiều ví dụ khác nữa. Sựkhác biệt đó khơng chỉ do nét tâm lý, lối tư duy riêng tạo nên màcịn do cả mơi trường sống quyết định. Mơi trường sông nước,phương tiện đi lại, sinh hoạt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Longhiện rõ trong câu đố về ăn cơm dưới đây:Chèo bằng tre, ghe bằng sànhChèo quanh, chèo co, chèo vơ lỗ hẻm.Trong khi đó, cũng đố về ăn cơm, người Bắc Bộ là:Năm thằng cầm hai cái sàoĐuổi đàn trâu trắng chui vào trong hang.Mặc dù cách tri nhận của con người ở mỗi vùng đất thể hiệnqua câu đố có những nét khác nhau, nhưng nhìn chung người Việtđều lấy những đặc điểm nổi bật, dễ nhận thấy của sự vật, hiệntượng để làm đối tượng miêu tả trong câu đố của mình. Nhữngđặc điểm tiêu biểu ấy chính là chìa khóa để giải mã câu đố đầy trítuệ của người Việt. b.Ra đố từ tên đối tượng được đốChúng ta biết rằng, nghệ thuật đố chính là ngun tắc mãhóa, là cách nói chệch, cách giấu tên đối tượng được đố. Câu đốđánh lạc hướng người ta bằng cách chuyển từ sự vật này sang sựvật kia, làm thế nào đó để sự vật so sánh phải vừa “giống” với đốitượng được đố nhưng không được quá “lộ”. Cái hay của câu đốchính là ranh giới giữa hai điều này. Đó là cách nói úp úp mở mở.Ở câu đố dân gian Tây Nam Bộ, chúng tơi thấy có nhiều câu, tácgiả dân gian đã đố bằng cách sử dụng ngay tên đối tượng được đốđể ra đố. Có thể nói rằng, đây là một điểm đặc biệt trong các câuđố dân gian Đồng bằng sông Cửu Long.Những câu đố loại này không miêu tả đối tượng được đố nhưchúng ta thường thấy, mà dùng ý nghĩa của từ ngữ gọi tên đốitượng được đố, ví dụ:Thân tơi ở giá ngàn nămChồng con khơng có, bạn bè cũng khơng.(Cây lẻ bạn)Lẻ bạn ở đây nghĩa là khơng có bạn đời, khơng có bạn bè.Câu đố sau đây được ra bằng cách giải thích đức hạnh củangười làm dâu, chức năng làm dâu để gợi ý cho người giải đố liêntưởng đến tên cây đồng âm cần giải mã:Nữ thời công hạnh dung ngôn,Xuất giá theo chồng phụng sự mẹ cha.(Cây dâu)Tất nhiên, những câu đố loại này phải có gợi ý xuất gì? thìngười được đố mới có thể đốn được. Đấy cũng chính là cách thuhẹp phạm vi, thu hẹp chủ đề để người giải đố định hướng.Với câu đố “Vừa bằng trái cau, một mình mang hai bịnh “(Tráimù u) thì ngồi sự miêu tả hình dáng bề ngồi của vật được đố (qua so sánh: vừa bằng trái cau), câu đố còn được gợi ý từ sựchiết tự tên gọi “mù u”, mu và u được người ra đố quan niệm làhai chứng bệnh của con người.Chùm gửi (hay tầm gửi) là một loại cây sống nhờ trên một câykhác. Câu đố được xây dựng trên quan niệm “sống gửi ơ nhờ”.Ngoài ra, câu đố về loại cây này còn dựa trên cả đặc điểm sinhtrưởng của nó:Thân ta khơng mẹ, khơng cha,Vốn không họ hàng, ở nhà người dưng.Đố về con ba ba cũng khá đặc biệt. Đây là cách đố dùng từđồng âm khác nghĩa, là cách đố căn cứ vào tên sự vật được đố.Con gì hai số giống nhauCộng lại thành sáu, trừ cịn số khơng.Thậm chí chỉ dùng một phần tên sự vật để đố. Vì thế, đây làmột loại câu đố khó:Con gì mở miệng khóc tu,Ăn chay mãn kiếp cũng tu không thành.(Con tu hú)c.Miêu tả đối tượng một cách nghịch lý:Ngồi mục đích giải trí, câu đố cịn có mục đích thử tài suyđốn, luyện sự nhanh trí. Do vậy, nó có chức năng bồi dưỡng tưduy cho con người, đặc biệt là trẻ con. Chính cách miêu tả nghịchlý này nên câu đố trở thành món ăn tinh thần rất ưa thích của trẻ.Nếu trong một bài đồng dao nào đó có kiểu nói ngược so với hiệnthực “chim lặn dưới nước, cá đậu cành tre” thì sự vật được miêutả ở câu đố là phù hợp thực tế vốn có. Nghịch lý chỉ là ở cách miêutả mà thôi. Cây chuối nhỏ được mọc lên từ gốc cây chuối mẹ,buồng chuối được trổ ra từ phía trên cây chuối lớn tưởng chừng chẳng có gì nghịch lý cả. Thế mà qua cách miêu tả, chúng ta thấyrõ ràng là có vấn đề gì đó thật ngược đời:Nhà giàu có mấy chiếc tàuCon ở dưới đất, mẹ sanh trên đầu.Tương tự, dây bí bò lan ra mặt đất, quấn lấy những nhánh tretrên giàn để phát triển, nhưng khi kết hợp miêu tả như sau thì quảlà nghịch lý thật:Mẹ vừa bằng ngón tay thì lại biết bịCon bằng bắp giị mà chẳng biết đi.(Dây và trái bí)Chúng ta có thể tham khảo nhiều câu như thế:- Ông già ổng chết đã lâuCon mắt thao láo, hàm râu vẫn còn.(Gốc tre, trúc)- Cây gì chỉ có một lá.(Cây cờ)- Nắng dãi mưa dầu tui không bỏ bậuTối lửa tắt đèn bậu lại bỏ tui.(Cái nón)2.Nội dung và ý nghĩa -Chứa đựng tri thức thực tiễn: Đối tượng phản ánh của câu đố làcác sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, phần lớn có liênquan đến những hoạt động sinh hoạt của người dân.-Chứa đựng nội dung và ý nghĩa xã hội: Khi miêu tả thế giới hiệnthực xung quanh con người, nhiều câu đố mang thêm ý nghĩa xãhội, mặc dù đó khơng phải là mục đích của câu đố.Nội dung cờ bản của câu đố là những hội dung khoa hóc, nghiêngvề kiến thức tự nhiên và thựờng là những nội dung đơn giản. Songcũng không thiếu những câu hàm chứa những vấn đề có tính chấtxã hội khá sâu sắc:– Hai thằng cố bệnh thì khơngHai thằng vơ bệnh lại gơng hai thằngLí đâu có lí lằng nhằngBỗng dưng lại trói hai thằng can(Đeo kính khi mắt đau)– Dựng nhự đầu núị đầu nonHái hoa, dự định ni con tháng ngàyGặp mấy lừa đất khói baỵ.Me tan phàn mẹ con rày thác oan(Tổ ong bị đốt lửạ)Hàng loạt những, câu đố về con ốc nướng?, cái ấm đất, cáichiếu… từ nội dung đều toát lên ý nghĩa xã hội kha sâu sắc về sựbất hạnh của những con người bé nhỏ dưới đáy xã hội nhưng lạimang khí phách hiên ngang, bất khuất (con ốc nướng), hay thânphận nổi nênh và những nỗi đọạn trường mà những người đàn bà tội nghiệp trong xã hội phong kiến đất công phải chịù đựng (cáiấm đất, cái chiếu).

Rate this post

Viết một bình luận