Phân loại nghề

Theo Sách giáo viên “GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP” lớp 9, Phạm Tất Dong chủ biên, Nhà xuất bản Giáo Dục, năm 2005. Từ trang 24 đến trang 29 trình bày về phân loại nghề như sau

Phân loại nghề

a. Phân loại nghề theo hình thức lao động (Lĩnh vực lao động)

Theo cách phân loại này thì có 2 lĩnh vực khác nhau:
* Lĩnh vực quản lý, lãnh đạo
* Lĩnh vực sản xuất

► Lĩnh vực quản lý, lãnh đạo có 10 nhóm nghề:

– Lãnh đạo các cơ quan Đảng, Nhà Nước, đoàn thể và các bộ phận trong các cơ quan đó.
– Lãnh đạo doanh nghiệp
– Cán bộ kinh tế, kế hoạch tài chính, thống kê, kế toán…
– Cán bộ kỹ thuật công nghiệp
– Cán bộ kỹ thuật nông, lâm nghiệp
– Cán bộ khoa học giáo dục
– Cán bộ văn hóa nghệ thuật
– Cán bộ y tế
– Cán bộ luật pháp, kiểm sát
– Thư ký các cơ quan và một số nghề lao động trí óc khác

► Lĩnh vực sản xuất có 23 nhóm nghề:

– Làm việc trên các thiết bị động lực
– Khai thác mỏ, dầu, than, hơi đốt, chê biến than (không kể luyện cốc).
– Luyện kim, đúc, luyện cốc
– Chế tạo máy, gia công kim loại, kỹ thuật điện và điện tử, vô tuyến điện
– Công nghiệp hóa chất
– Sản xuất giấy và sản phẩm bằng giấy, bìa
– Sản xuất vật liệu xây dựng, bê tông, sành sứ, gốm, thủy tinh
– Khai thác và chế biến lâm sản
– In
– Dệt
– May mặc
– Công nghiệp da, da lông, da giả
– Công nghiệp lương thực và thực phẩm
– Xây dựng
– Nông nghiệp
– Lâm nghiệp
– Nuôi và đánh bắt thủy sản
– Vận tải
– Bưu chính viễn thông
– Điều khiển máy nâng, chuyển
– Thương nghiệp, cung ứng vật tư, phục vụ ăn uống.
– Phục vụ công cộng và sinh hoạt
– Các nghề sản xuất khác

b. Phân loại nghề theo đào tạo

Theo cách phân loại này, các nghề được chia thành 2 loại:
* Nghề được đào tạo
* Nghề không được đào tạo

Khi trình độ sản xuất và khoa học, công nghệ được nâng cao, dân cư được phân bố đồng đều trong cả nước thì số nghề cần có sự đào tạo qua các trường lớp sẽ tăng lên. Ngược lại quốc gia nào có trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất, khoa học và công nghệ chậm phát triển, dân cư phân tán thì tỉ lệ nghề không qua đào tạo rất cao.

Nước ta đã có danh mục các nghề được đào tạo, còn các nghề không được đào tạo rất khó thống kê. Bên cạnh đó còn có rất nhiều nghề được truyền trong các dòng họ hoặc gia đình,  những nghề này rất đa dạng và trong nhiều trường hợp được giữ bí mật được gọi là nghề gia truyền. Do vậy, những nghề này được đào tạo trong gia đình và cũng thường chỉ liên quan đến người được chọn để nối tiếp nghề của cha ông.

c. Phân loại nghề theo yêu cầu của nghề đối với người lao động

►1/ Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính

Công việc trong nghề hành chính mang tính chất sắp đặt, bố trí, trình bày, phân loại, lưu trữ… các loại hồ sơ, giấy tờ. Cán bộ nhân viên trong những nghề này thường phải hệ thống hóa, phân loại, xử lý các tài liệu, công văn, sổ sách. Những chuyên môn thường gặp là nhân viên văn phòng, thư ký, kế toán, thông kê, lưu trữ, kiểm tra, chấm công…

Nghề hành chính đòi hỏi con người đức tính bình tĩnh, thận trọng, chính chắn, chu đáo. Mọi thói quen, tác phong xấu như tính cẩu thả, bừa bãi, thiếu ngăn nắp, đại khái, qua loa, thờ ơ, lãnh đạm… đều không phù hợp với công việc hành chính.

Người làm nghề hành chính phải có tinh thần kỷ luật trong việc chấp hành những  công việc mang tính sự vụ, biết giữ trật tự, nghiêm túc khi làm việc. Ngoài ra họ lại phải am hiểu cách phân loại tài liệu, cách sắp sếp tài liệu ngăn nắp, có năng lực nhận xét, phê phán cách chấp hành thủ tục giấy tờ, cách soạn thảo văn bản… thiếu cơ sở khoa học. Bản thân họ cũng cần thành thạo công việc viết văn bản.

► 2/ Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người

Ở đây, ta có thể kể đến những nhân viên bán hàng, những thầy thuốc, thầy giáo, những người phục vụ khách sạn, những cán bộ tổ chức v.v… Những người này luôn phải có thái độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt, ân cần, cởi mở…
Thái độ và hành vi đối xử lạnh nhạt, thờ ơ, thiếu thông cảm, thiếu nâng đỡ, vụ lợi v.v… đều xa lại với các công việc nói trên.

►3/ Những nghề thợ (công nhân)

Tính chất nội dung lao động của nghề thợ rất đa dạng. Có những người thợ làm việc trong các ngành công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội, thợ chỉnh công cụ …), trong các ngành tiểu thủ công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây tre đan, sơn mài…), trong lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác như lái tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác tài nguyên…
Nghề thợ đại diện cho nền sản xuất công nghiệp. Tác phong công nghiệp, tư duy kỹ thuật, trí nhớ, tưởng tượng không gian, khéo tay… là những yếu tố tâm lý cơ bản không thể thiếu được ở người thợ.
Nghề thợ đang có sự chuyển biến về cấu trúc: những nghề lao động chân tay sẽ ngày càng giảm, lao động trí tuệ sẽ tăng lên. Ở những nước công nghiệp hiện nay như Mỹ, Pháp, Anh… số công nhân “cổ trắng” (công nhân trí thức) đã đông hơn công nhân “cổ xanh” (công nhân làm những công việc tay chân nặng nhọc).

►4/ Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật

Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất. nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có vị trí cơ bản.

►5/ Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật

Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc trưng nổi bật. Tính không lặp lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết trong mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Trong hoạt động văn học và nghệ thuật, ta thấy có rất nhiều gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà viết kịch, nhà ảo thuật, các diễn viên điện ảnh, xiếc, ca nhạc, nhà nhiếp ảnh, nhà đạo diễn phim, người trang trí sân khấu và cửa hàng v.v… Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với họ là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc sống, lối sống có cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người làm công tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư tưởng và tình cảm, năng lực tác động đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.

►6/ Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học

Đó là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế giới tự nhiên cũng như trong tư duy con người. Người làm công tác nghiên cứu  khoa học phải say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật khách quan trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học phải rèn luyện tư duy logic, tích lũy tri thức, độc lập sáng tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn, trung thực, bảo vệ chân lý đên cùng.

►7/ Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên

Đó là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc vật, nghề trồng trọt, khai thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh… Muốn làm những nghề này, con người phải yêu thích thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác, họ phải cần cù, chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.

►8/ Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt

Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái máy bay thí nghiệm, du hành vũ trụ, khai thác tài nghuyên dưới đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề này phải có lòng quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của công việc, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh, thích ứng với cuộc sống không ổn định.

d. Phân loại thông tin ngành nghề trên Hướng nghiệp Việt

Hệ thống phân loại các ngành nghề trên website Hướng nghiệp Việt dựa theo các thông tư Ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ đại học do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành (Thông tư số 24/2017/TT-BGDĐT ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Để thuận tiện cho việc theo dõi, Hướng nghiệp Việt lập danh mục theo lĩnh vực đào tạo, và xếp các ngành đào tạo vào cùng lĩnh vực tương ứng. Hướng nghiệp Việt bỏ qua cấu trúc trung gian là phân nhóm nhóm ngành đào tạo vì tạo ra cấu trúc tiếp cận phức tạp.

Ngành đào tạo là tập hợp những kiến thức, kỹ năng chuyên môn liên quan đến một lĩnh vực khoa học hay một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nhất định. Bên cạnh khối kiến thức cơ bản và kiến thức cơ sở (của khối ngành, nhóm ngành), khối kiến thức ngành (gồm kiến thức chung và kiến thức chuyên sâu của ngành) trong mỗi chương trình đào tạo trình độ đại học phải có khối lượng tối thiểu 30 tín chỉ không trùng với kiến thức ngành của các ngành gần trong khối ngành, nhóm ngành.

Ngoài ra, Bộ Lao động thương binh và xã hội cũng đã Ban hành Danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng (thông tư Số: 04/2017/TT-BLĐTBXH). Tuy nhiên do kết cấu khá phức tạp, cùng với khá nhiều nghề trong danh mục chưa được mở đào tạo, vì vậy Hướng nghiệp Việt đang tiếp tục nghiên cứu để bổ sung hợp lý vào cấu trúc phân loại các ngành nghề trên website.

Nguyễn Dũng / Hướng nghiệp Việt

Rate this post

Viết một bình luận