Tà Kiến
Phiền não thì có nhiều lắm: tham, sân, si, ái, mạn, kiến, nghi, … tầm bậy tầm bạ. Dục ái, sắc ái, vô sắc ái, sân, ngã mạn, phóng dật, trạo hối, hoài nghi, … tùm lum hết. Nhưng mà gom chung lại hết thì trong tất cả các phiền não thì phiền não nặng nhất hết thảy đó chính là tà kiến.
Người tu mà không có giới thì giống như người què. Người không biết giáo lý thì giống như người đui. Nhưng người mắc tà kiến là giống như người điên. Không biết quý vị có hiểu không. Tại vì giới là phương tiện đi lại, người tu không có giới giống như người què vậy đó, nhưng lết đi được. Người tu không có giới thì còn lết đi được. Còn người tu không biết giáo lý giống như người bị mù vậy đó, mệt mỏi hơn chút, nhưng ít ra còn có lối giải quyết. Nằm bên đường la làng thế nào cũng có người cứu. Mình nói rõ nhà mình ở đâu, hoặc mình khát nước, hoặc mình đang bị cái gì thì có người cứu.
Nhưng riêng cái thằng cha mà tà kiến thì giống như người mất trí, người điên chỉ – có trời mới cứu được thôi. Có nghĩa là người điên rồi thì vô phương. Nhớ nhé. Người không giới giống như người què hoặc cụt chân, người không biết giáo lý giống như người mù, người mà tà kiến rồi thì giống như người bị tâm thần vậy đó.
Cho nên cái phiền não chướng nó có nhiều lắm, nhưng đặc biệt cái nỗi bật trong đó là tà kiến. Tà kiến cố định (niyatadiṭthi) nó có nghĩa là cố định, đặc định. Chấp một cách cố định, chấp một cách gọi là ngoan cố lỳ lợm không có chịu sửa đổi, không cách nào giúp họ được.
Thì cái tà kiến đó được gọi là phiền não chướng.
Dầu tham sân gì gì đi nữa thì cũng không có cái gì bằng tà kiến. Tà kiến là thường kiến (sassatadiṭṭhi) và đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi). Là Hiểu sai. Tà kiến có nhiều lắm, nó có 62 lận. Mà ở đây mình gom lại thì cái nặng nhất là đoạn kiến.
Thường kiến sửa được. Thường kiến là tin có một cái tôi, tin có một cõi vĩnh hằng, tin có một đấng cao xanh nào đó. Cái đó sửa được.
Nhưng ớn nhất là cái anh đoạn kiến, nhất là tà kiến cố định. Là sao? Tà kiến cố định (niyatadiṭthi) gồm có 3:
- Vô hành kiến (akiriyadiṭthi) cho rằng không có thiện ác thích thì làm không thích thì thôi chứ không có cái chuyện mà báo ứng.
- Vô nhân kiến (ahetudiṭthi) có nghĩa là cho rằng mọi sự ở đời này là ngẫu nhiên mà có chứ không có cái nhân duyên, cái tác động của bất cứ một điều kiện nào hết. Tự nhiên nó có vậy thôi. Cái đó gọi là ahetudiṭthi.
- Vô hữu kiến (natthikadiṭthi) có nghĩa là phủ nhận triệt để rốt ráo hoàn toàn tuyệt đối. Phủ nhận tất cả những gì mà mình không hiểu được, không thấy được, không chứng minh được, thì tất cả những thứ đó theo mình là không có.
Cái Vô hữu kiến đó rất là nguy hiểm, rất nguy hiểm. Chẳng hạn như các vị tưởng tượng đi, tôi không biết chữ, tôi không biết gì hết làm sao tôi có thể hình dung ra được cái cấu trúc của một chiếc máy bay. Làm sao tôi hình dung ra được sự hiện hữu của chiếc máy bay trên cuộc đời này. Thế là tôi phán rằng không có một phương tiện nào có thể bay lên trời được hết. Mà nhất là nó nặng mấy trăm tấn lận. Nó nặng tới mấy trăm tấn. Trong khi một cục đất nó nặng chừng khoảng 100 gram thì nó không cách nào bay lên trời được. Mình cầm mình liệng thì được chứ nó bay suốt mấy tiếng đồng hồ thì không thể nào. Còn bây giờ một cái khối kim loại mấy trăm tấn mà nó bay lên trời suốt cả 10, 15, 20 tiếng đồng hồ thì tôi hỏi quý vị chứ nếu mà lấy cái não trạng của một người không biết chữ thì quý vị hiểu bằng cách nào đây? Mà nếu mình dựa vào cái biết của mình để phán đoán rằng: tôi tuyệt đối phủ nhận bất cứ cái gì tôi không hiểu được, không thấy được, không chứng minh được thì đó là cách nói quá nguy hiểm. Vậy mà có, có đó. Đừng có nói người ta ngu mà rồi không có, có cái đó thiệt. Chứng minh là người ta đã nhân danh khoa học, nhân danh tri thức, nhân danh thái độ của một người tiến bộ người ta đã phủ nhận sự có mặt của thứ mà bản thân họ không cách nào hiểu được, không thể nào chứng minh được. Thí dụ như kiếp trước kiếp sau, luân hồi báo ứng, sự chứng đắc của các bậc thánh nhân và cuối cùng là cứu cánh niết bàn. Đây là những cái mà không thể nào chứng minh một cách điển hình cụ thể rõ ràng để mà có thể sờ đụng được. Đây, khi mà họ không chứng minh được họ bèn phán một câu xanh lè đó là: “Không có. Cái gì tôi không thấy, không tin, không chứng minh được thì cái ấy không có thật.” Cái đó gọi là natthikadiṭthi nhé.
Thì 3 cái này được gọi là niyatadiṭthi, là tà kiến cố định. Mắc vào bà cái này chỉ có trời cứu.
Và bên Hán tạng có một câu quý vị cũng phải suy nghĩ đó là:
Ninh chấp hữu như Tu Di sơn
Mạc chấp vô như giới tử.
Thà là có thường kiến bự như cái núi Tu Di còn đỡ hơn có đoạn kiến nhỏ như hạt cải.
“Ninh chấp hữu” – Hữu ở đây là thường kiến, là tin vào 3 cái tôi nói: tin có một cái tôi, tin có một cõi vĩnh hằng, tin có một đấng cao xanh nào đó.
“Mạc chấp vô” – Vô ở đây là chỉ cho đoạn kiến, cho rằng tất cả đều là không.
“như Tu Di sơn” – Nếu bà con trong đây không biết núi Tu Di là gì thì tôi nói cho nó dễ hiểu đi. Mình cứ tưởng tượng như cái đỉnh Everest, cao lớn vậy đó.
“như giới tử” – Giới tử là hạt cải.
Bởi vì một người đã không tin vào gì nữa hết thì người đó rất rùng rợn rất dễ sợ. Nó đã không tin gì hết thì chuyện gì nó cũng dám làm hết, quý vị ạ. Còn cái đứa kia nó tin một cái tôi thường hằng bất biến, tin có một cõi vĩnh hằng bất biến, tin có một đấng tối cao chí tôn vô thượng nào đó thì ít ra nó cũng còn biết làm lành lánh dữ. Còn riêng những cái tên mà nó mắc vào cái đoạn kiến rồi thì nó sống tệ lắm, tệ hơn con thú nữa. Vì con thú ít ra, như con chó con ngựa, nó cũng có nghĩa, có tình thiệt luôn. Mặc dù nó không biết cái gì thiện ác kiếp trước kiếp sau nhưng ít ra nó còn có nghĩa có tình. Còn cái người đoạn kiến cực kỳ nguy hiểm. Là vì sao? Vì nó không chịu trách nhiệm những gì nó làm. Mà trong khi đó nó lại được giá cố bởi trí khôn của con người. Không biết tôi nói quý vị trong đây có hiểu không. Con thú như con cọp thấy nó ghê thiệt đó nhưng nó chỉ độc ở chỗ là nó đi kiếm mồi thôi, mình đã khuất cặp mắt nó rồi thì OK nhé. Còn con người đã đoạn kiến rồi thì không sợ tội. Đã vậy rồi nó còn cộng thêm trí thông minh của một con người nữa. Quý vị tưởng tượng đi. Một cái thằng sát nhân mà nó có dao bén trên tay thì cái mức sát thương, cái độ nguy hiểm nó đáng ngại cỡ nào? Con thú dữ mình thấy nó quá trời quá đất vậy đó, như con cọp, con voi rừng, con trâu rừng châu Phi, nhìn thấy nó ớn thiệt, nhưng nó không có trí thông minh, tầm hoạt động của nó tới đâu thì nó sát tới đó. Còn con người mình, cái tầm hoạt động của con người mình cộng thêm cái trí khôn nữa, thì tầm hoạt động nó tới đâu. Bởi vì nó nghĩ ra bao nhiêu chuyện động trời, nó có thể nghĩ ra một cách mà chết 2, 3 triệu người đó. Đó cái trí thông minh của con người đó. Đọc sử thế giới mình mới thấy có những cái đầu mà coi như nó ngồi nó nghĩ ra những cách mà kể như giết người phải hàng triệu, cỡ dưới một triệu là nó không sướng cái tay nhé. Thì cái loại đó gọi là niyatadiṭthi, có nghĩa là tà kiến cố định sửa không được. Sửa không được nhé.
Nó có cái chi tiết hơi phong thần, thần số với quý vị đó, nhưng tôi không kể đó là cảnh giới riêng của những người tà kiến cố định, nhưng nói ra đây rồi bà con thấy đạo Phật sao mà phong thần quá, rồi bà con bỏ đạo mà đi thì uổng nhé.
Tôi có quan điểm thế này, cái gì trong kinh điển mà tôi chưa hiểu hết thì tôi để qua một bên chứ tôi không có ngồi nghĩ tầm bậy tầm bạ, rồi ngồi đó mà hoang mang chỗ khác. Chỗ nào tôi thấy quá mức của mình thì tôi để qua một bên nhé. Mình đi nghiên cứu cái khác bữa nào quởn quởn quay trở lại. Chứ còn đằng này mình liếc vô mình thấy cái gì đó không vừa ý cái là mình phán luôn. Mình phán kinh Phật này nọ thì tội chết luôn, nhớ vậy.
Trích KTC.6.86 Chướng Ngại
Kalama xin tri ân bạn phố nghèo ghi chép
www.budsas.org
Trong Paṭisambhidā magga (Vô ngại giải đạo) có giải thích:
“Tà kiến là gì? Là thấy sai, hiểu sai”
Chữ diṭṭhi nghĩa là thấy, thường được hiểu là “quan điểm, ý kiến, chủ thuyết”.
Diṭthi khi đi kèm với tỉnh từ sammā (sammādiṭṭhi) là “hiểu biết đúng, quan điểm đúng”, khi đi kèm với tỉnh tử micchā (micchādiṭṭhi) hay đơn độc (diṭṭhi) là: “hiểu biết sai, quan điểm sai”.
Kiến thủ là bám chắc vào một lý thuyết sai, hoặc nắm giữ một quan điểm sai.
Kiến thủ nói gọn là: bám chắc vào quan điểm “thường hằng (sassata)” hay bám chắc vào quan điểm “đoạn diệt (uccheda)”.
“Dvīhi, bhikkhave, diṭṭhigatehi pariyuṭṭhitā devamanussā olīyanti eke, atidhāvanti eke…”
“Này các Tỳkhưu, chư thiên và loài người bị xâm chiếm (pariyuṭṭhitā) bởi hai tà kiến, một số chấp chặt (olīyanti), một số đi quá trớn (atidhāvanti)…”
Và Đức Thế Tôn có giải thích: “Người chấp chặt là chấp có (thường kiến), người đi quá trớn là chấp không (đoạn kiến)”.
Thường kiến (sassatadiṭṭhi) là cho rằng: “Có một tự ngã thường hằng bất biến, không bao giờ bị hoại diệt”.
Đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi) là cho rằng: “Có một tự ngã sau khi chết thì diệt mất”.
Cho là “thường hằng” hay “diệt mất” đều là tà kiến, vì sao?
Vì đó là quan niệm có một thực thể, thực thể này không hề bị tiêu hoại, nên gọi là thường kiến, hoặc thực thể đó bị tiêu hoại không còn dư sót, nên gọi là đoạn kiến.
Thực ra chẳng có một thực thể nào cả, những gì đang hiện bày chỉ là kết quả của nhân duyên, khi nhân duyên hội hợp pháp ấy hình thành, nên gọi là hữu vi (saṅkhāra), ví như dùi trống chạm vào mặt trống, tiếng trống phát sinh lên, tiếng trống không hề có sẵn trong dùi trống hay trong mặt trống.
Suy Tư Mùa Đại Dịch | | Vivatta
Sức Quyến Rũ | | Làm Chủ Cảm Thọ
English