Tại sao gọi là hàn xẻng

Nội dung chính

  • Tiền gửi không kỳ hạn là gì?
  • Trên toàn cầu
  • Tại Việt Nam
  • Thời kỳ cận đại
  • Thời kỳ hiện đại
  • Khôi phục và phát triển kinh tế
  • Địa hình
  • Môi trường
  • Lịch sử
  • Lục quân
  • Hải quân
  • Không quân
  • Liên minh với Hoa Kỳ
  • Triển khai ở nước ngoài
  • CHDCND Triều Tiên
  • Nhật Bản
  • Trung Quốc
  • Liên minh châu Âu, G7 và NATO
  • Tình trạng già hóa dân số
  • Vấn nạn “hôn nhân mua bán”
  • Quá trình di dân
  • Áp lực cuộc sống và nạn tự sát
  • Thành tựu
  • Thời kỳ hiện đại
  • Ngôn ngữ
  • Nghệ thuật
  • Kiến trúc
  • Ẩm thực
  • Âm nhạc và giải trí
  • Điện ảnh
  • Video liên quan

Xin ᴠui lòng giúp đỡ ᴠà thêm một từ.

Bạn đang хem: Hàn хẻng là gì, nghĩa của từ хẻng, hàn хẻng là gì

Tất cả các loại từ được hoan nghênh! Thêm ý nghĩa

Tiền gửi không kỳ hạn là gì?

Biểu tượng nàу là gì? Biểu tượng cấp độ ngôn ngữ cho thấу mức độ thông thạo của người dùng đối ᴠới các ngôn ngữ họ quan tâm. Thiết lập cấp độ ngôn ngữ của bạn ѕẽ giúp người dùng khác cung cấp cho bạn câu trả lời không quá phức tạp hoặc quá đơn giản.

Xem thêm: Phim Giọt Nước Mắt Muộn Màng Phần 2 8 Vtᴠ3 Hd Chủ Nhật Ngàу 24/7/2016

Gặp khó khăn để hiểu ngaу cả câu trả lời ngắn bằng ngôn ngữ nàу. Có thể đặt các câu hỏi đơn giản ᴠà có thể hiểu các câu trả lời đơn giản. Có thể hỏi các loại câu hỏi chung chung ᴠà có thể hiểu các câu trả lời dài hơn. Có thể hiểu các câu trả lời dài, câu trả lời phức tạp.

Ad chỉ để đâу thôi chứ k làm gì đâu..

Hàn Quốc,[b] tên gọi chính thức là Đại Hàn Dân Quốc,[c] là một quốc gia ở khu vực Đông Á, nằm trên nửa phía Nam của bán đảo Triều Tiên. Biên giới trên bộ cũng như trên biển ở phía Bắc giáp với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thông qua Khu phi quân sự liên Triều và vùng biển Bắc Triều Tiên qua Đường giới hạn phía Bắc, phía Đông tiếp giáp biển Nhật Bản, phía Nam giáp với đảo Kyushu (Nhật Bản) qua eo biển Triều Tiên và phía Tây là biển Hoàng Hải.[15]

Đại Hàn Dân Quốc

Quốc kỳ

Quốc huy

Tiêu ngữ: 홍익인간 (Hangul)
弘益人間 (Hanja)
Hongik Ingan (Romaja)
Hoằng Ích Nhân Gian
Cống hiến hạnh phúc cho nhân loại[1]

Quốc ca: 애국가
Aegukga
“Ái quốc ca”

Quốc ấn

대한민국의 국새

(Hangul)

大韓民國의 國璽

(Hanja)

Daehan Minguk-ui Guksae

(Romaja)

Vị trí của Hàn Quốc trên thế giới (xanh)

  Tuyên bố chủ quyền và kiểm soát trên thực tế

  Tuyên bố chủ quyền nhưng không kiểm soát trên thực tế

Lãnh thổ thực tế (xanh đậm)

Tổng quanThủ đô

và thành phố lớn nhất

Seoul
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Hàn Quốc (Pyojuneo)
Ngôn ngữ ký hiệu Hàn Quốc[2]Chữ viết chính thứcHangulSắc tộc

(2019)[3][3]

  • 95,1% Người Hàn Quốc
  • 4,9% Khác

Tôn giáo chính

(2015)[4][5][6][7]

  • 56,1% Không tôn giáo
  • 27,6% Cơ Đốc giáo[a]
  • 15,5% Phật giáo Triều Tiên
  • 0,8% Khác

Tên dân cưNgười Hàn QuốcChính trịChính phủNhà nước đơn nhất
Cộng hòa lập hiến
Tổng thống chế

• Tổng thống

Moon Jae-in

• Thủ tướng

Kim Boo-kyum

• Chủ tịch Quốc hội

Park Byeong-seug

• Chánh án Tòa án Tối cao

Kim Myeong-soo

• Chánh án Tòa án Hiến pháp

Yoo Nam-seok
Lập phápQuốc hội Hàn QuốcLịch sửĐộc lập 

từ Đế quốc Nhật Bản

• Đế quốc Đại Hàn

13 tháng 10 năm 1897

• Nhật Bản bảo hộ

17 tháng 11 năm 1905

• Nhật Bản sáp nhập

22 tháng 8 năm 1910

• Tuyên ngôn độc lập

1 tháng 3 năm 1919

• Chính phủ lâm thời

11 tháng 4 năm 1919

• Độc lập từ Nhật Bản

15 tháng 8 năm 1945

• Chính quyền quân sự Hoa Kỳ

8 tháng 9 năm 1945

• Thành lập Dân Quốc

15 tháng 8 năm 1948

• Chiến tranh Triều Tiên

25 tháng 6 năm 1950

• Hiệp định đình chiến

27 tháng 7 năm 1953

• Hiến pháp hiện hành

25 tháng 2 năm 1988

• Tuyên bố Bàn Môn Điếm

27 tháng 4 năm 2018
Địa lýDiện tích  

• Tổng cộng

100,363 km2 (hạng 107)
38,750 mi2

• Mặt nước (%)

0.3 (301 km2 / 116 mi2)Dân số 

• Ước lượng 2019

• Điều tra 2021

• Mật độ

507/km2 (hạng 13)
1,313/mi2Kinh tếGDP  

(PPP)

Ước lượng 2021

• Tổng số

• Bình quân đầu người

(danh nghĩa)

Ước lượng 2021

• Tổng số

• Bình quân đầu người

대한민국 원

(KRW)Thông tin khácGini

?

 

(2018)

trung bình

FSI

?

 

(2021)

bền vững

 · hạng 159HDI

?

 

(2020)

rất cao

 · hạng 23Múi giờ

UTC+09:00

(Giờ chuẩn Hàn Quốc)

• Mùa hè (DST)

UTC+09:00

Cách ghi ngày tháng

  • yyyy년 m월 d일
  • yyyy-mm-dd
    (năm-tháng-ngày)

Điện thương dụng220 V – 60 HzGiao thông bênPhảiMã điện thoại+82Mã ISO 3166KRTên miền Internet

  • .kr
  • .한국

Trang web
www.korea.net

Tiền thân

Đệ Ngũ Đại Hàn Dân Quốc

Hàn Quốc có khí hậu ôn đới, địa hình chủ yếu là đồi núi, lãnh thổ rộng 100.363 km², quy mô dân số ước tính vào khoảng hơn 51 triệu người. Với 99% cư dân là người Triều Tiên[16], Hàn Quốc được coi là một quốc gia dân tộc.

Sau khi thành lập, Hàn Quốc trải qua chiến tranh Triều Tiên, trong các thập niên từ 1960 tới đầu thế kỷ 21, với sự kiện Kỳ tích sông Hán, kinh tế Hàn Quốc đã được khôi phục, phát triển nhanh chóng và trở thành một nền kinh tế lớn với thu nhập cao.[17] Năm 1996, Hàn Quốc gia nhập OECD.[18]

Hàn Quốc là quốc gia công nghiệp phát triển[19], là một trong bốn con rồng kinh tế châu Á cùng với Đài Loan, Hồng Kông và Singapore, thành viên của hầu hết các tổ chức toàn cầu lớn trong đó nổi bật như: Liên Hợp Quốc, G20, Câu lạc bộ Paris, IAEA, OECD, WTO, APEC,… Có chỉ số phát triển con người rất cao[20][21], là nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới[22][23], 11 về tài sản quốc gia[24] cũng như hạng 8 toàn cầu theo dự trữ ngoại tệ (2021).[25] Có chỉ số dân chủ cao nhất châu Á[26][27], đứng thứ 2 châu Á (sau Nhật Bản), hạng 17 thế giới về chỉ số tiến bộ xã hội.[28][29][30] Hàn Quốc duy trì một lực lượng quân đội hiện đại – đứng hạng 8 về ngân sách quốc phòng (2021)[31] đồng thời là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ 6 thế giới (2020).[32][33] Hàn Quốc là một cường quốc khu vực tại Đông Á[34], cường quốc bậc trung trên thế giới[35] và đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ.[36]

Trong những năm gần đây, “Làn sóng Hàn Quốc” được đón nhận và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn cầu.[37]

Mặc dù là một nước phát triển, tuy nhiên hiện nay; Hàn Quốc cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức như tình trạng lão hóa dân số do tỷ lệ sinh cũng như kết hôn giảm[38][39][40], các định kiến xã hội vẫn tồn tại[41][42], thất nghiệp[43], áp lực cuộc sống cao cùng nạn tự sát[44][45], bất bình đẳng xã hội với khoảng cách của sự phân hóa giàu nghèo đang ngày một gia tăng.[46]

 

Tranh khắc gỗ năm 1908 trong thời kỳ cải cách ở Đại Hàn Đế Quốc thể hiện sự bình đẳng trong giao tiếp giữa quý tộc (Yangban) với dân thường (Cheonmin)

Tranh khắc gỗ năm 1908 trong thời kỳ cải cách ở Đại Hàn Đế Quốc thể hiện sự bình đẳng trong giao tiếp giữa quý tộc (Yangban) với dân thường (Cheonmin)

Những tên gọi “Đại Hàn” (Daehan, Taehan), “Triều Tiên” (Joseon, Chosŏn), “Hàn Quốc” (Han’guk), “Nam Hàn” (Namhan), “Nam Triều Tiên” (Namjoseon) hay “Bắc Hàn” (Buk’han), “Bắc Triều Tiên” (Bukjoseon) tuy khác nhau, phức tạp và đa dạng trong tiếng Việt nhưng khi sử dụng quốc tế hoặc dịch sang các ngôn ngữ phương Tây thì đều được dịch giống nhau, ví dụ; tiếng Anh dịch thành “Korea”, tiếng Pháp dịch là “Corée”, tiếng Nga dịch là “Корея” (chuyển tự Latinh: Koreya), tiếng Tây Ban Nha dịch là “Corea”,… Cách dùng này bắt nguồn từ quốc hiệu “Cao Ly” (고려/高麗/Goryeo/Koryŏ) của nhà nước từng tồn tại trên bán đảo từ năm 918 đến 1392. Trong thời kỳ này, tên gọi “Cao Ly – Korea” đã thông qua những thương nhân người Ả Rập và Ba Tư mà lan rộng, truyền bá đến châu Âu.[47]

Từ năm 1392, bán đảo nằm dưới sự cai trị của nhà Triều Tiên (Joseon/Chosŏn/조선/朝鮮/대조선국/大朝鮮國). Kể từ đó, cái tên “Triều Tiên” được dùng làm quốc hiệu để chỉ chung cho toàn bộ dân tộc sinh sống trên bán đảo. Giai đoạn 1897-1910, phong trào Đông Học nổ ra kết hợp với Cải cách Quang Vũ (Quang Vũ Duy Tân) của vua Cao Tông, bán đảo chuyển sang dùng danh xưng “Đế quốc Đại Hàn” (Daehan Jeguk/대한제국/大韓帝國) nhằm thể hiện rõ tham vọng cải cách cùng ý chí độc lập, tự chủ. Giai đoạn 1910-1945, sau khi ký kết các hiệp ước bất bình đẳng, bán đảo chịu sự chi phối và là một phần trong lãnh thổ Đế quốc Nhật Bản.

Sau khi hai miền đất nước bị chia cắt vào năm 1945, vùng lãnh thổ phía Bắc chọn lại quốc hiệu cũ, gọi chính thể của mình là “Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên” (Chosŏn Minjujuŭi Inmin Konghwaguk/조선민주주의인민공화국/朝鮮民主主義人民共和國), vùng lãnh thổ phía Nam chọn quốc hiệu “Đại Hàn Dân Quốc” (Daehan Min’guk/대한민국/大韓民國), gọi tắt là “Hàn Quốc” (Han’guk/한국/韓國) – tiếp tục kế thừa “Đại Hàn Đế Quốc”.[48] Trong đó, chữ “Dân Quốc” (Min’guk/민국/民國) trong “Đại Hàn Dân Quốc” được lấy theo quốc hiệu của Trung Hoa Dân Quốc (Zhōnghuá Mínguó/中華民國), khi dịch sang các ngôn ngữ phương Tây thì cũng được dịch tương đương như “Cộng hoà Quốc” (Konghwaguk/공화국/共和國, nước Cộng hoà). Trong tiếng Anh, “Dân Quốc” và “Cộng hoà Quốc” đều được dịch là “Republic”, tiếng Pháp dịch là “République”, tiếng Tây Ban Nha là “República” còn tiếng Nga là “Республика” (chuyển tự Latinh: Respublika).

Trên toàn cầu

Chính phủ Hàn Quốc luôn yêu cầu các đơn vị truyền thông cùng cơ quan quốc tế khi đề cập tới “Hàn Quốc” hay “Đại Hàn Dân Quốc” thì hạn chế dùng “South Korea” (Nam Cao Ly) mà phải sử dụng quốc hiệu “Republic of Korea” hoặc “Korea Republic” (Cộng hòa Cao Ly), nếu gọi ngắn thì chỉ dùng “Korea” (Cao Ly). Tuy nhiên, “South Korea” lại khá phổ biến trong tiếng Anh thường nhật vì được sử dụng để phân biệt với “North Korea” (Bắc Cao Ly/Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên).

Tại Việt Nam

Trong quá khứ, quốc hiệu của Hàn Quốc ở Việt Nam thường được gọi bằng các tên gọi như: Đại Hàn, Nam Hàn (theo cách gọi tắt từ phía chính quốc và Trung Hoa Dân Quốc), Nam Triều Tiên (theo cách gọi của phía Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên) hay Cộng hòa Triều Tiên (theo cách gọi của phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trước năm 1992). Trong thời kỳ chia cắt (1954-1976), báo chí và truyền thông của Việt Nam Cộng hòa (trước đó là Quốc gia Việt Nam) gọi chính thể này là “Đại Hàn”. Sau năm 1975, nhà nước Việt Nam thống nhất sử dụng tên gọi “Nam Triều Tiên” giống như cách gọi “Bắc Triều Tiên”.

Ngày 23 tháng 3 năm 1994, bằng công hàm số KEV-398 gửi Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại sứ quán nước này đề nghị phía Việt Nam gọi chính thể của mình là “Đại Hàn Dân Quốc”, gọi tắt là “Hàn Quốc” (từ “Hàn” ở đây không phải “Lạnh” mà là ký âm tự của từ “Han” trong tiếng Hàn Quốc cổ, có nghĩa là “Lớn”), không sử dụng các tên gọi cũ như “Cộng hoà Triều Tiên” hoặc “Nam Triều Tiên” nữa vì “Triều Tiên” gợi nhắc đến danh xưng của miền Bắc (Bắc Triều Tiên). Đáp lại, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra công văn số 733/ĐBA-NG ngày 21 tháng 4 năm 1994 gửi tất cả các cơ quan bộ, ngành, tổng cục thông tin, truyền thông cùng ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam yêu cầu: “Từ nay gọi chính thể Nam Triều Tiên là “Đại Hàn Dân Quốc”, gọi tắt là “Hàn Quốc”, không dùng các tên gọi cũ như Cộng hoà Triều Tiên, Nam Triều Tiên hay Nam Hàn nữa”.[49] Danh xưng “Nam Triều Tiên” hiện nay chỉ còn được truyền thông của phía Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên sử dụng do nước này không công nhận tuyên bố chủ quyền của Hàn Quốc.

Trong đời sống thường nhật, tên gọi Hàn Quốc trong khẩu ngữ của người Việt – đặc biệt là thế hệ trẻ; thường được gọi tắt là “Hàn”, tương tự như cách gọi Trung (Trung Quốc), Nhật (Nhật Bản), Sing (Singapore), Đài (Đài Loan) hay Thái (Thái Lan),…

 

Di tích đồ gốm bằng đồng của thời kỳ Mumun

Di tích đồ gốm bằng đồng của thời kỳ Mumun

 

Một bữa tiệc âm nhạc – tranh vẽ bởi Kim Hong-do, miêu tả cảnh sinh hoạt trong xã hội Hàn Quốc thời Joseon

Một bữa tiệc âm nhạc – tranh vẽ bởi Kim Hong-do, miêu tả cảnh sinh hoạt trong xã hội Hàn Quốc thời Joseon

Những nghiên cứu, bằng chứng khoa học và chứng cứ khai quật khảo cổ học cho thấy rằng bán đảo Triều Tiên đã có xuất hiện con người sinh sống ngay từ thời đại đồ đá cũ.[50][51][52][53] Di chỉ khảo cổ học đầu tiên cùng các địa điểm định cư sớm nhất của con người tại đây trong thời kỳ Jeulmun và thời kỳ Mumun được phát hiện ở phía nam bán đảo.[54][55][56][57]

Lịch sử Triều Tiên cổ đại bắt đầu với sự thành lập của nhà nước Cổ Triều Tiên bởi Đàn Quân vào khoảng năm 2333 TCN; sau đó là giai đoạn tiền Tam Quốc với hàng loạt bộ lạc, tiểu quốc nhỏ phân tranh. Chế độ quân chủ của các quốc gia trên bán đảo có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc khi quyền cai trị thuộc về các triều đại phong kiến chuyên chế kế tập, Phật giáo Trung Hoa cùng Đạo giáo của Lão Tử có tầm ảnh hưởng lớn và Nho giáo của Khổng Tử được lấy làm nền tảng tư tưởng gốc rễ cho toàn xã hội. Trong thời kỳ Tam Quốc, dưới triều đại Quảng Khai Thổ Thái Vương của Cao Câu Ly, lãnh thổ của ông được mở rộng sau một loạt chiến dịch quân sự nhằm chinh phục các tiểu quốc thành công, hình thành nên một trong những Đế quốc rộng lớn nhất Đông Bắc Á đương thời.[58][59] Sau Tam Quốc, Nam-Bắc Quốc và hậu Tam Quốc, bán đảo Triều Tiên tiếp tục trải qua triều đại Cao Ly và nhà Triều Tiên với vị thế là một đất nước độc lập cho đến cuối thời kỳ của Đế quốc Đại Hàn.

Thời kỳ cận đại

 

Ất Mùi sự biến trên trang nhất tuần báo Pháp Le Journal illustré

Ất Mùi sự biến trên trang nhất tuần báo Pháp Le Journal illustré

 

Hiệp ước sáp nhập Nhật Bản – Hàn Quốc đã chính thức chấm dứt nền độc lập tự chủ, mở ra thời kỳ Nhật thuộc kéo dài 35 năm

Hiệp ước sáp nhập Nhật Bản – Hàn Quốc đã chính thức chấm dứt nền độc lập tự chủ, mở ra thời kỳ Nhật thuộc kéo dài 35 năm

 

Phong trào 1 tháng 3 ở Seoul – cuộc cách mạng tư sản đầu tiên

Phong trào 1 tháng 3 ở Seoul – cuộc cách mạng tư sản đầu tiên

 

Nhật Bản tấn công đảo Ganghwa

Nhật Bản tấn công đảo Ganghwa

Bước sang thời kỳ cận đại, Hoàng tộc Triều Tiên dưới quyền chi phối và lãnh đạo chuyên chính của Hưng Tuyên Đại Viện Quân đã thực thi chính sách “Bế quan tỏa cảng”, tự cô lập đất nước cũng như thẳng tay đàn áp Thiên Chúa giáo.[60] Trong khi đó tại quốc gia láng giềng Nhật Bản, sau thất bại của Mạc phủ Tokugawa trong chiến tranh Mậu Thìn dẫn đến sự kết thúc của chế độ Shōgun, thành công của công cuộc Minh Trị Duy tân, chấm dứt Tỏa Quốc cùng chiến thắng trong các cuộc chiến tranh Thanh–Nhật, chiến tranh Nga–Nhật và chiến tranh thế giới thứ nhất đã trở thành một thế lực mới, dần thay thế phương Bắc mở rộng ảnh hưởng lên Triều Tiên.

Về chính trị, vào ngày 8 tháng 10 năm 1895, giới cầm quyền Nhật giật dây vụ ám sát Hoàng hậu Minh Thành – nhân vật có tư tưởng cải cách duy tân cùng nhiều chính sách ngoại giao tiến bộ hiếm hoi trong Hoàng thất Triều Tiên, người được xem là rào cản duy nhất đối với tham vọng sáp nhập của Nhật.[61] Về quân sự, Hải quân Nhật Bản sử dụng “Ngoại giao pháo hạm” – mở đầu bằng sự kiện chiến hạm Unyō tấn công đảo Ganghwa (20/9/1875), gây áp lực buộc nhà Triều Tiên phải mở cửa các hải cảng đồng thời nhanh tay kiểm soát vùng lãnh thổ này trước các đế quốc phương Tây – khởi đầu bằng Điều ước bất bình đẳng Nhật–Triều (26/2/1876).[62] Cuối cùng, sau sự kiện Thủ tướng Itō Hirobumi bị nhà cách mạng An Jung-geun ám sát tại nhà ga Cáp Nhĩ Tân (26/10/1909)[63], Nhật Bản sử dụng vũ lực để sáp nhập bán đảo, quân phiệt Nhật cùng với các lực lượng tay sai, nội gián bản địa do chính phủ Yi Wan-yong đứng đầu ép vua Thuần Tông ký kết Nhật–Triều Tịnh Hợp điều ước (22/8/1910) (Điều ước Sáp nhập hay “Hiệp ước quốc sỉ” – theo cách gọi của các thế hệ người Hàn Quốc sau này), trực tiếp kiểm soát bán đảo trong vòng 35 năm từ 1910-1945, giai đoạn này được gọi là Triều Tiên thuộc Nhật.

Thời kỳ hiện đại

Thành lập Dân Quốc

 

Nhật Bản bàn giao chính quyền cho quân đội Hoa Kỳ tại Seoul (9/9/1945)

 

Áp phích bầu cử cho cuộc tổng tuyển cử ở Hàn Quốc được tổ chức vào ngày 10 tháng 5 năm 1948 dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc

 

Lễ thành lập nhà nước Đại Hàn Dân Quốc (15/8/1948)

 

Người tị nạn trong chiến tranh Triều Tiên

 

Những người ủng hộ Bắc Triều Tiên bị hành quyết hàng loạt

 

Bảo tàng Tưởng niệm Chiến tranh Triều Tiên

Thời kỳ Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên chấm dứt sau khi nước này bại trận và đầu hàng trong chiến tranh Thái Bình Dương vào giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ hai. Triều Tiên được quân đội Đồng Minh giải phóng. Bất chấp kế hoạch ban đầu về một Triều Tiên thống nhất trong Tuyên bố Cairo năm 1943, bán đảo bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự bởi Liên Xô cùng Hoa Kỳ. Liên bang Xô viết chiếm đóng miền Bắc cho đến vĩ tuyến 38 trong khi Hoa Kỳ chiếm đóng từ vĩ tuyến 38 về phía Nam, hai siêu cường sau đó đã không thể đạt được đồng thuận về việc áp dụng Đồng uỷ trị.

Tháng 11 năm 1947, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đề ra giải pháp nhằm tiến hành tổng tuyển cử tại Triều Tiên dưới sự hỗ trợ của Ủy ban Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, các chính phủ lâm thời tại hai miền đã khước từ việc này, Liên Hợp Quốc sau đó tiếp tục đưa ra một giải pháp khác kêu gọi bầu cử ngay tại địa phương nhưng những hoạt động bầu cử độc lập riêng rẽ đầu tiên đã được tiến hành ngay từ ngày 10 tháng 5 năm 1948 tại các tỉnh phía nam vĩ tuyến 38, điều này dẫn tới việc thành lập nhà nước Đại Hàn Dân Quốc do Lý Thừa Vãn đứng đầu, sau đó đáp lại, miền Bắc cũng tiến hành tổ chức bầu cử, chính phủ và nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ra đời; do Kim Nhật Thành lãnh đạo, mỗi bên đều tuyên bố mình là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn bộ bán đảo. Trong khi Bắc Triều Tiên chịu sự ảnh hưởng của ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa và được sự hậu thuẫn từ phía Liên Xô, Trung Quốc và Khối các quốc gia xã hội chủ nghĩa thì ngược lại, Nam Triều Tiên được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, điều này khiến cho những mâu thuẫn chính trị – xã hội giữa hai miền vốn đã trong tình trạng căng thẳng, nay càng trở nên nghiêm trọng và gay gắt. Các xung đột dẫn đến kết cục là Chiến tranh Triều Tiên khi quân đội Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38, cáo buộc miền Nam vi phạm trước và tổng tấn công, Hoa Kỳ cùng Liên Hợp Quốc tham chiến hỗ trợ Đại Hàn Dân Quốc còn hậu thuẫn Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là Liên Xô, Trung Quốc và Khối Xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến kéo dài tới ngày 27 tháng 7 năm 1953 và chỉ tạm dừng khi các bên ký kết Thoả thuận đình chiến tại làng đình chiến Bàn Môn Điếm thuộc Khu phi quân sự Triều Tiên, vĩ tuyến 38 chia cắt bán đảo Triều Tiên vĩnh viễn từ đó. Chiến tranh Triều Tiên khiến cho hơn 3 triệu người thiệt mạng và hàng chục triệu người khác bị ảnh hưởng, rất nhiều người dân, binh lính, quân nhân bị thương tật, một số khác thì bị mất nhà cửa hoặc chia lìa vĩnh viễn những người thân trong gia đình, cuộc chiến này còn tiêu tốn của các bên số tiền lên tới hơn 30 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm những năm 1950-53, tương đương khoảng 325 tỷ theo thời giá ước đoán hiện nay.[64]

Sau chiến tranh, Bắc Triều Tiên tuyên bố tiếp tục theo đuổi “sự nghiệp thống nhất đất nước” trên cơ sở lập luận “một Triều Tiên”, không công nhận chính phủ Hàn Quốc và chọn con đường thống nhất bằng “Cách mạng Xã hội chủ nghĩa”. Ngược lại, phía Hàn Quốc cũng coi chính phủ của mình là chính thể có chủ quyền hợp pháp duy nhất trên toàn bộ bán đảo Triều Tiên đồng thời không công nhận Bắc Triều Tiên. Những quan điểm cứng nhắc, không nhân nhượng lẫn nhau khiến cho quá trình hòa giải giữa hai bên không thể thực hiện được cho đến thập niên 1960. Đầu thập niên 1970, quan hệ hai miền dần cải thiện, hai bên chính thức công nhận chính phủ của nhau. Năm 1991, hai nhà nước được mời gia nhập Liên Hợp Quốc cùng một lúc. Hàn Quốc là quốc gia đầu tư kinh tế và hoạt động chủ yếu, tích cực nhất trong chiến dịch viện trợ lương thực giúp Bắc Triều Tiên vượt qua nạn đói thập niên 1990 thông qua Chương trình Lương thực Thế giới của Liên Hợp Quốc.

Thời kỳ độc tài quân sự

 

Cách mạng 19 tháng 4 đã chấm dứt chính phủ độc tài dân sự của Lý Thừa Vãn

Cách mạng 19 tháng 4 đã chấm dứt chính phủ độc tài dân sự của Lý Thừa Vãn

 

Park Chung-hee (giữa) trong cuộc đảo chính 16 tháng 5

Park Chung-hee (giữa) trong cuộc đảo chính 16 tháng 5

 

Chang Myon vận động tranh cử vào năm 1956. Tuy nhiên, chính phủ dân sự của ông cùng với Yun Bo-seon về sau cũng bị Park Chung-hee đảo chính lật đổ

Chang Myon vận động tranh cử vào năm 1956. Tuy nhiên, chính phủ dân sự của ông cùng với Yun Bo-seon về sau cũng bị Park Chung-hee đảo chính lật đổ

Quá trình dân chủ hoá của Hàn Quốc bị thấm đẫm bởi máu, xung đột và bạo lực. Lý Thừa Vãn sau khi nắm quyền lực đã cho thực thi một chính sách cai trị độc tài, đàn áp quyết liệt, thẳng tay đối với những người cánh tả, thậm chí còn sát hại không ít nhân vật bất đồng chính kiến. Bên cạnh đó, bộ máy quản lý đất nước do ông xây dựng bị nạn tham nhũng đục khoét, tàn phá nặng nề, kinh tế trì trệ, đất nước phát triển chậm chạp. Năm 1960, Lý Thừa Vãn đối mặt làn sóng bất bình cực lớn của người dân. Cuối cùng, ông phải rời bỏ nhiệm sở, lên máy bay chạy sang Honolulu (Hoa Kỳ) và sống tị nạn tại đây cho tới cuối đời. Hiện nay, dư luận cùng giới chuyên gia ở Hàn Quốc vẫn đánh giá về Lý Thừa Vãn rất tiêu cực.[65]

Chính phủ dân sự ngắn ngủi kế nhiệm của Tổng thống Yun Bo-seon cùng Phó Tổng thống Chang Myon bị lật đổ sau cuộc đảo chính của tướng Park Chung-hee vào ngày 16 tháng 5 năm 1961. Năm 1963, Park Chung-hee kiểm soát chính phủ và chính thức lên nắm quyền tổng thống, trở thành nhà lãnh đạo thứ ba cũng như độc tài thứ hai của Hàn Quốc.[65] Thông qua hoạt động của Hiệp hội kêu gọi tái thiết quốc gia, Park Chung-hee đã giải tán quốc hội cùng các đảng phái chính trị đối lập đang hoạt động, đồng thời thẳng tay đàn áp những phong trào chống đối. Park Chung-hee ban hành loạt sắc lệnh cấm công nhân tổ chức mít tinh, biểu tình, diễu hành. Ông còn cài cắm lực lượng mật thám, nhân viên thân tín của chính phủ vào bên trong nội bộ các tổ chức công đoàn công nhân để giám sát và rồi dần dần kìm hãm phong trào đấu tranh của họ. Bên cạnh đó, về chính sách đối ngoại, quân đội Hàn Quốc được Park Chung-hee gửi sang chiến đấu cùng với Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam và cũng là lực lượng chính tiến hành các vụ đàn áp, bắt bớ, thủ tiêu, do thám trong nước theo mệnh lệnh của Park.[65]

 

Park Chung-hee xây dựng hình ảnh thông qua sự sùng bái cá nhân

Park Chung-hee xây dựng hình ảnh thông qua sự sùng bái cá nhân

Trong suốt thập niên 1960, chính phủ của Park Chung-hee có xu hướng đàn áp thô bạo ngày càng gia tăng. Năm 1971, Park Chung-hee đã ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia “dựa trên thực tế nguy hiểm của tình hình quốc tế”. Tới tháng 10 năm 1972, ông lại khởi xướng một cuộc đảo chính để tự giải thể quốc hội, đình chỉ hiến pháp, dọn đường để bản thân lên nắm quyền lực thông qua bản Hiến pháp Duy Tân vào tháng 11 và sau đó là một cuộc trưng cầu dân ý bị đánh giá, chỉ trích là gian lận nặng nề, theo đó, hiến pháp mới chính thức chấm dứt bầu cử dân chủ trực tiếp đồng thời suy tôn Park Chung-hee làm “Tổng thống trọn đời”. Park bị chỉ trích là một nhà độc tài quân sự tàn nhẫn, thế nhưng đổi lại, nền kinh tế Hàn Quốc đã được cải thiện rất đáng kể dưới nhiệm kỳ của Park. Chính phủ của ông đã phát triển một hệ thống đường cao tốc trên toàn quốc, hệ thống tàu điện ngầm Seoul và đặt nền tảng to lớn, vững chắc cho sự chuyển biến mạnh mẽ của Hàn Quốc trong những thập niên sau đó.[65]

Ngày 16 tháng 10 năm 1979, tại trường Đại học Busan, một nhóm sinh viên đã xuống đường kêu gọi chấm dứt chế độ độc tài. Làn sóng biểu tình nhanh chóng lan rộng với hơn 50.000 người tụ tập ở phía trước quảng trường thành phố Pusan. Trong hai ngày tiếp theo, một số văn phòng công cộng đã bị tấn công và khoảng 400 người biểu tình bị bắt giữ. Vào ngày 18 tháng 10, chính phủ Park Chung-hee tuyên bố thiết quân luật tại Pusan. Thế nhưng các cuộc biểu tình đã lan tới thành phố Masan, đặc biệt là ở trường Đại học Tổng hợp Kyungnam. Bạo lực leo thang với các cuộc tấn công vào các đồn cảnh sát và trụ sở các cơ quan của đảng cầm quyền trong thành phố. Khủng hoảng xã hội khiến nội bộ giới cầm quyền bị rạn nứt. Ngày 26 tháng 10 năm 1979, Park Chung-hee bị ám sát bởi Kim Jae-gyu, đương kim Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương và nhóm của mình. Ngay sau đó, Kim Jae-gyu cùng đồng phạm bị tử hình bằng hình thức treo cổ, nhưng cho đến tận ngày nay, một Uỷ ban đặc biệt của chính phủ vẫn đang phải phải tiếp tục thảo luận về việc có nên coi Kim Jae-gyu là người góp công cho quá trình dân chủ hoá của Hàn Quốc hay không.[65]

Thời đại Park Chung-hee kết thúc trong bạo lực và bất ổn xã hội. Một chính phủ tạm quyền được thành lập, đất nước đặt trong tình trạng thiết quân luật. Bản thân Park Chung-hee chết do bị ám sát bởi một quan chức thân tín phản bội. Sự nghiệp chính trị của ông cũng bị hoen ố vì độc tài và ngày nay, nhiều người Hàn Quốc căm ghét Park Chung-hee dù ông có công rất lớn trong việc xây dựng và tái thiết lại đất nước sau chiến tranh. Khi Roh Moo-hyun lên làm Tổng thống vào năm 2003, chính phủ vẫn phải tiếp tục ban hành các đạo luật mới và thành lập các uỷ ban điều tra về tình trạng bạo lực dưới thời Park Chung-hee. Tuy vậy, trong một cuộc khảo sát của Viện nghiên cứu và phân tích thông tin Gallup vào năm 2015 tại Hàn Quốc, Park Chung-hee đã được bình chọn là “Tổng thống vĩ đại nhất” trong lịch sử nước này (với tỷ lệ bình chọn là 44%).[66]

 

Hội trường Tưởng niệm ở Nghĩa trang Dân chủ 18 tháng 5, nơi chôn cất thi thể các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju

Hội trường Tưởng niệm ở Nghĩa trang Dân chủ 18 tháng 5, nơi chôn cất thi thể các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju

 

Phòng tưởng niệm Park Jong-cheol ở Namyeong, Seoul

Phòng tưởng niệm Park Jong-cheol ở Namyeong, Seoul

Năm 1980, tướng Chun Doo-hwan được một hội đồng quân sự bầu lên làm tổng thống. Ngày 18 tháng 5 năm 1980, tại thành phố Gwangju – thủ phủ của tỉnh Jeolla Nam đã xảy ra Phong trào dân chủ Gwangju – khi người dân địa phương tổ chức đánh cướp kho vũ khí của các trạm cảnh sát để chống lại lực lượng cảnh sát của chính phủ Chun Doo-hwan sau khi lực lượng này đàn áp tàn bạo một cuộc biểu tình ôn hòa đòi cải cách nền dân chủ cũng như đòi quyền tự do bầu cử của sinh viên địa phương.[67][68] Quân đội với vũ khí sát thương hạng nặng đã được điều động đến. 4 giờ sáng ngày 27 tháng 5 năm 1980, quân đội từ 5 hướng tiến vào trung tâm thành phố và đánh bại hoàn toàn lực lượng dân quân chỉ trong vòng 90 phút. Trong sự kiện này, quân đội Hàn Quốc được cho là đã nổ súng bắn chết khoảng từ 1.000 tới 2.000 thường dân.[69][70]

 

Phong trào Dân chủ Tháng Sáu

Phong trào Dân chủ Tháng Sáu

Sau khi đàn áp hoàn toàn cuộc nổi dậy của người dân trong cuộc thảm sát Gwangju, Chun Doo-hwan trở thành nhà lãnh đạo thứ năm cũng như độc tài thứ ba trong lịch sử chính trị Hàn Quốc. Cũng giống như người tiền nhiệm Park Chung-hee, Chun bắt đầu tiến hành kiểm soát đất nước một cách chặt chẽ hơn, ông ta loại bỏ hoàn toàn các chính trị gia đối lập khỏi chính trường và tiến hành thanh lọc xã hội theo quy mô lớn. Đồng thời, chính phủ Chun Doo-hwan thiết lập một cơ sở đào tạo quân sự đặc biệt mang tên gọi “Trại giáo dục Samcheong”, để tiến hành chương trình “giáo dục thanh lọc”.[71] Khoảng hơn 40 nghìn người bị bắt đưa đến các cơ sở của trại này. Số liệu thống kê về sau cho thấy có 54 người đã bị giết trong quá trình giam giữ và 397 người khác chết sau đó.[71] Năm 1986, Chun Doo-hwan tiếp tục ra lệnh bắt giữ và tra tấn nhiều nhà hoạt động có tư tưởng trái với khuynh hướng của giới cầm quyền, đồng thời nghiêm cấm triệt để các tổ chức công đoàn hoạt động, rất nhiều tổ chức chính trị theo đuổi dân chủ tự do bị đàn áp khốc liệt như Liên minh Dân chủ Thống nhất hay Phong trào Nhân dân.[65]

Tháng 1 năm 1987, một vụ tra tấn dã man của cảnh sát đã dẫn tới cái chết của Park Jong-cheol, sinh viên trường Đại học Quốc gia Seoul. Sau đó, người dân Hàn Quốc tiếp tục nổi dậy sau cái chết của sinh viên Park. Họ tổ chức hàng loạt cuộc bạo động lớn để phản đối chính sách bắt bớ, thủ tiêu, tra tấn tàn bạo của chế độ Chun Doo-hwan đồng thời yêu cầu sửa đổi Hiến pháp. Đây chính là sự khởi đầu cho Cuộc Nổi dậy Dân chủ Tháng Sáu – hàng triệu người tham gia vào cuộc “Tuần hành Hòa bình Vĩ đại của Nhân dân” được tổ chức tại 34 thành phố và 4 tỉnh, họ hô to các khẩu hiệu “Bãi bỏ hiến pháp xấu xa”, “Xóa bỏ chế độ độc tài”. Dưới áp lực ấy, chính quyền Chun Doo-hwan đã buộc phải tiến hành sửa đổi Hiến pháp, ban hành bản Hiến pháp mới vào ngày 29 tháng 10 năm 1987. Tuy nhiên, mặc cho tội ác của mình, Chun vẫn nắm giữ vị trí cao nhất trong bộ máy quyền lực ở Hàn Quốc cho tới năm 1988 và phải mãi đến tận năm 1996 mới bị chính phủ mới kết tội nổi loạn, phản quốc, tham nhũng, hối lộ, ra lệnh thảm sát dân thường và tuyên án tử hình nhưng sau đó được giảm xuống còn chung thân do Tòa án Tối cao cân nhắc vai trò của Chun khi đưa nền kinh tế Hàn Quốc trở thành “con Hổ châu Á”, bảo vệ đất nước khỏi khủng hoảng chính trị đồng thời chuyển giao quyền lực hòa bình cho người kế nhiệm.[72] Cuối cùng, Chun nhanh chóng được tổng thống Kim Young-sam ân xá với lý do “thúc đẩy đoàn kết dân tộc” vào ngày 22 tháng 12 năm 1997.[72]

Chính phủ dân sự

 

 

Tổng thống Kim Dae-jung – người thúc đẩy dân chủ, nhân quyền ở Hàn Quốc cùng các chính sách hòa giải với Bắc Triều Tiên, ông đôi khi được gọi là Nelson Mandela của châu Á

 

Park Geun-hye – nữ tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc cũng như dân cử đầu tiên ở Đông Á

Park Geun-hye – nữ tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc cũng như dân cử đầu tiên ở Đông Á

Các cuộc nổi dậy trong thập niên 1980 đã để lại dấu ấn to lớn cho sự ra đời của chính phủ dân sự vào năm 1992 với đường lối cầm quyền cùng chính sách đối ngoại mềm mỏng hơn rất nhiều. Trước đó; vào năm 1987, Hiến pháp Hàn Quốc đã được sửa đổi, người dân lại được quyền trực tiếp bầu ra Tổng thống. Sự kiện này đánh dấu quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ của đất nước. Thủ đô Seoul được chọn làm nơi tổ chức Thế vận hội Olympic năm 1988, một kỳ Thế vận hội vô cùng thành công và đã thúc đẩy đáng kể vị thế quốc tế của Hàn Quốc.[73] Hàn Quốc được mời trở thành một thành viên chính thức của Liên Hợp Quốc vào năm 1991.

Tuy đạt được nhiều tiến bộ trong quá trình dân chủ hóa, chính trường Hàn Quốc vẫn chưa bao giờ hết khốc liệt hay có dấu hiệu hạ nhiệt, các đời tổng thống tiếp theo là tướng Roh Tae-woo (1987), Kim Young-sam (1992) và Kim Dae-jung (1998) đều để lại nhiều dấu ấn với cả tích cực lẫn tiêu cực. Trong đó, vị tổng thống thứ sáu – Roh Tae-woo bị kết án tù vì các tội danh liên quan đến hối lộ, tham nhũng. Tuy vậy, sang đến năm 2000, tổng thống Kim Dae-jung gây tiếng vang lớn khi được trao giải Nobel Hoà Bình vì những nỗ lực trong việc bình thường hoá quan hệ với CHDCND Triều Tiên.[74] Vào tháng 6 năm 2000, hội nghị thượng đỉnh liên Triều đã diễn ra tại Bình Nhưỡng, thủ đô của CHDCND Triều Tiên, hội nghị là thành quả tích cực sau nhiều năm Hàn Quốc thực thi chính sách Ánh Dương với CHDCND Triều Tiên do tổng thống Kim Dae-jung đề xướng. Năm 2003, học trò của ông, Roh Moo-hyun kế nhiệm. Thế nhưng sau đó, đến lượt Roh cũng phải đối mặt với lời buộc tội tham nhũng, ông tự sát vào ngày 23 tháng 5 năm 2009 trong khi các cuộc điều tra vẫn đang tiếp diễn, do vậy, nhiều người nghi ngờ rằng vụ tự sát này là do sức ép đến từ các thế lực khác.

Sau đó là ông Lee Myung-bak làm tổng thống trong giai đoạn 2008-2013. Năm 2018, Lee bị bắt giam với cáo buộc ít nhất 12 tội danh, trong đó có việc nhận hối lộ 11 tỷ Won của Cơ quan Tình báo Quốc gia cùng các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó còn là những cáo buộc về trốn thuế và chiếm đoạt 35 tỷ Won từ một công ty mà Lee bí mật sở hữu. Vào tháng 3 năm 2019, Lee được cho phép tại ngoại vì những lo ngại liên quan đến vấn đề sức khỏe, tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 2 năm 2020, tòa án quận trung tâm Seoul đã chính thức ra bản án tuyên phạt ông Lee Myung-bak 17 năm tù giam cùng 13 tỷ Won tiền đền bù.[75]

Tiếp đến là Park Geun-hye (con gái của cựu tổng thống Park Chung-hee), bà là nữ tổng thống đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc hiện đại, đồng thời cũng là nữ tổng thống dân cử đầu tiên ở Đông Á.[76] Tuy nhiên, tới đầu năm 2017, đến lượt Park Geun-hye cũng bị quốc hội nước này phế truất và bắt giam với các cáo buộc tiết lộ bí mật quốc gia, nhận hối lộ, để người không có bất kỳ chức vụ, thẩm quyền gì là bà Choi Soon-sil (bạn thân) can thiệp bất hợp pháp vào các tài liệu mật cũng như công việc nội bộ của chính phủ, lạm quyền và tham nhũng.[77][78]

Như vậy, tính cho đến năm 2018, trong số 11 đời tổng thống Hàn Quốc (không tính các quyền tổng thống chỉ tạm thời đảm nhiệm chức vụ trong mấy tháng do khủng hoảng chính trị), đã có 1 người bị ám sát, 1 người tự sát do bị điều tra, 1 người bị đảo chính và phải chạy ra nước ngoài tị nạn, 4 người khác bị bắt giam do các tội danh liên quan đến tham nhũng, nhận hối lộ.[79] Những vụ bê bối liên quan đến giới chính trị gia hay lãnh đạo các doanh nghiệp kinh tế lớn luôn là một vấn nạn gây ám ảnh, nhức nhối tại quốc gia này[80] bên cạnh sự gia tăng của các loại tội phạm tình dục.[81]

Tái thống nhất với CHDCND Triều Tiên là một chủ đề chính trị đang được bàn luận sôi nổi, rộng rãi ở Hàn Quốc hiện nay, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một hiệp định hoà bình nào được ký kết. Luật an ninh quốc gia Hàn Quốc hiện vẫn không cho phép người dân được tiếp nhận bất cứ thông tin nào từ phía CHDCND Triều Tiên, những ai tỏ thái độ ủng hộ hoặc có các hành động diễn thuyết, tuyên truyền, phát biểu ca ngợi CHDCND Triều Tiên sẽ bị trục xuất khỏi nước này nếu là người nước ngoài[82] hoặc kết án 7 năm tù giam nếu là công dân Hàn Quốc, tự ý tổ chức các chuyến đi du lịch, đến thăm Bắc Triều Tiên mà không có sự cho phép của chính phủ có thể bị phạt tối đa lên tới 10 năm tù giam.[83][84][85] Tổng thống Roh Moo-hyun đã từng nghĩ tới việc dỡ bỏ luật này, nhưng hiện tại điều đó vẫn chưa được thực thi. Tổng thống đương nhiệm Moon Jae-in cũng hy vọng hai miền sẽ tái thống nhất trong hòa bình – sớm nhất là vào năm 2045.[86]

Khôi phục và phát triển kinh tế

Chính sách độc tài khắc khổ

 

Tăng trưởng GNI bình quân đầu người giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên trong giai đoạn từ 1950-2016

Tăng trưởng GNI bình quân đầu người giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên trong giai đoạn từ 1950-2016

Sau chiến tranh Triều Tiên, vào giai đoạn trước khi tướng Park Chung-hee lên nắm quyền vào năm 1961, kinh tế Hàn Quốc khá nghèo nàn với thu nhập bình quân đầu người ít hơn 100 USD mỗi năm. Hàn Quốc thời điểm đó bị xếp hạng là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Ở giai đoạn này, kinh tế Hàn Quốc cơ bản phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ. Khi đó, viện trợ từ chính phủ Mỹ chiếm phần lớn trong tổng ngân sách chính phủ cũng như tổng sản lượng quốc gia (GNP) của Hàn Quốc. Dù cho một số khu vực của đất nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa từ thời kỳ chiếm đóng của Nhật Bản nhưng nhìn chung vào đầu thập niên 60, Hàn Quốc vẫn là một nước thuần nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển hơn so với CHDCND Triều Tiên – vốn không những rất giàu có về tài nguyên thiên nhiên[87] mà còn được Liên Xô, Trung Quốc cùng khối các quốc gia xã hội chủ nghĩa viện trợ, giúp đỡ.

Để xóa bỏ đói nghèo và tái tạo động lực phát triển kinh tế, Park Chung-hee đã thành lập Hội đồng Tối cao phụ trách Tái thiết Quốc gia, mang “kỷ luật quân đội” và chính sách cải cách kinh tế – xã hội kiểu “độc tài” áp dụng trên toàn quốc. Một trong những mục tiêu, tham vọng chính của tướng Park là chấm dứt tình trạng lạc hậu, nghèo đói ở Hàn Quốc và biến đất nước này từ một nền kinh tế thuộc ‘Thế giới thứ tư’ trở thành một cường quốc kinh tế hàng đầu của thế giới, ông phát biểu cũng như đặt câu hỏi với các tướng lĩnh cấp dưới; rằng:[88][89]

Chúng ta có nghĩa vụ, trách nhiệm là phải chấm dứt sự nghèo đói và lạc hậu ở Hàn Quốc, để cho các thế hệ sau không còn phải sống như những gì chúng ta đang trải qua, làm thế nào để một đất nước nghèo như Hàn Quốc, vốn có cùng hoàn cảnh lịch sử nhưng lại không được chuẩn bị đầy đủ cho kỷ nguyên sắp tới, có thể giàu mạnh được như Tây Đức bây giờ?

Ngay sau khi thực hiện thành công cuộc đảo chính để lên nắm chính quyền vào tháng 7 năm 1961, tướng Park Chung-hee tuyên bố bắt đầu tiến trình “dọn rác” để thanh lọc xã hội.[90] Ông trực tiếp chỉ đạo các lực lượng cảnh sát, quân đội thực hiện hàng ngàn vụ đàn áp, bắt bớ và tiếp tục tái khẳng định quyết tâm của mình khi diễn thuyết trước hơn 20.000 sinh viên của Đại học Seoul bằng loạt câu nói nổi tiếng:

Toàn dân Hàn Quốc sẽ phải thắt lưng buộc bụng trong vòng ít nhất là 5 năm tới đây, phải cắn răng mà làm việc nếu muốn được sống còn. Phải biết cách làm như thế nào để trong vòng 10 năm tới, chúng ta tạo ra được một nền kinh tế đứng hàng đầu ở khu vực Đông Á và 20 năm sau đó, chúng ta trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới. Chúng ta sẽ khiến cho thế giới phải ngưỡng mộ, phải nể phục, tôn trọng chúng ta,… Hôm nay, có thể vẫn còn có một số đồng bào bất đồng ý kiến với tôi, nhưng xin những đồng bào đó hãy hiểu cho rằng, tổ quốc của chúng ta quan trọng hơn quyền lợi cá nhân. Tôi không hề muốn mị dân, tôi sẽ cương quyết ban hành một chính sách khắc khổ. Tôi sẽ đem bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công, dù chỉ một đồng. Tôi sẵn lòng chết cho lý tưởng mà mình đã đề ra.

Một trong những việc đầu tiên ông làm là đem tử hình 24 quan chức và doanh nhân vì tội tham nhũng. Toàn xã hội “thắt lưng buộc bụng”, trong các công ty, mọi người đều phải làm việc hết sức mình, ai làm không chăm sẽ bị phê bình, mắng nhiếc trước mặt mọi người, thậm chí, trong văn hóa, nội quy của các trường học công ty, doanh nghiệp Hàn Quốc thời bấy giờ có quy định “nếu như học sinh, nhân viên mắc lỗi, làm sai hoặc lười biếng thì giáo viên, cấp trên của họ có quyền tát bạt tai để làm gương mà người đó không được phép tỏ thái độ hay phản đối”. Một số ngành do quân đội trực tiếp xây dựng và quản lý, khi người lính làm việc không chăm, cấp trên có quyền trừng phạt bằng đòn roi. Những du học sinh trước khi ra nước ngoài học tập phải cam kết không ở lại nước ngoài mà phải về nước phục vụ dù muốn hay không, những ai đã học xong mà không quay về nước thì gia đình họ sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề.

 

Tổng thống Park Chung-hee đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phát triển nhanh chóng nền kinh tế Hàn Quốc thông qua chính sách công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu

Tổng thống Park Chung-hee đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phát triển nhanh chóng nền kinh tế Hàn Quốc thông qua chính sách công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu

 

Xưởng đóng tàu của Hyundai ở Ulsan năm 1976

Xưởng đóng tàu của Hyundai ở Ulsan năm 1976

Park chuyển chiến lược kinh tế của đất nước từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Ông thành lập một Ủy ban Kế hoạch Kinh tế để điều hành nền kinh tế đất nước. Lấy những “Kế hoạch kinh tế 5 năm” vốn đã từng rất thành công của Liên Xô trước đây làm kiểu mẫu, Park đề ra “Kế hoạch 5 năm” lần đầu tiên vào năm 1962, nhiệm vụ chủ chốt của kế hoạch này là tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ nhằm mục đích xuất khẩu. Ông tuyên bố thành phố Ulsan sẽ là một khu vực phát triển công nghiệp tiên phong đặc biệt của đất nước. Ngay sau đó, Hyundai – một trong những tài phiệt lớn đầu tiên của Hàn Quốc đã nhanh chân tận dụng vị thế đặc biệt của Ulsan để biến thành phố này trở thành nơi đặt các nhà máy sản xuất chính của mình.

Hầu hết các nhà sử học đều coi “Kế hoạch 5 năm đầu tiên” là điểm cất cánh của nền kinh tế Hàn Quốc. Từ năm 1962 đến năm 1966, tốc độ tăng trưởng của Hàn Quốc đạt 7,6%. Sản lượng công nghiệp xuất khẩu tăng trên 30% mỗi năm cùng sản lượng sản xuất tăng trên 15% mỗi năm. Các chính sách phát triển kinh tế của Park được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc và mong muốn giành quyền tự chủ cho đất nước. Do đó, ông chủ trương tự lực; không để cho nền kinh tế bị phụ thuộc và chi phối bởi nước ngoài. Ban đầu, Park ra sức hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, theo lời khuyên từ giới chuyên môn, ông bắt đầu dần nới lỏng những hạn chế này. Mặc dù vậy, các công ty nước ngoài khi đó muốn đầu tư vào thị trường Hàn Quốc thì bắt buộc phải tiến hành chuyển giao, chia sẻ công nghệ ở một mức độ nhất định cho doanh nghiệp trong nước. Năm 1966, đạo luật kích thích vốn đầu tư nước ngoài được chính phủ Park thông qua đã cung cấp thêm những ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư đồng thời hợp lý hóa quy trình này vào Hàn Quốc. Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1967-1971) tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, khuyến khích chuyển giao công nghệ cũng như cải thiện cơ sở hạ tầng.[91] Từ năm 1973, kinh tế Hàn Quốc đặt trọng tâm chủ yếu vào 7 ngành chính bao gồm: thép, hóa chất, luyện kim, chế tạo máy, đóng tàu, ô tô và điện tử. Giai đoạn phát triển công nghiệp cao độ này tập trung tại các thành phố nhỏ nằm ở phía đông nam đất nước.[92]

Kế hoạch phát triển kinh tế của Park Chung-hee là dựa vào xuất khẩu nhờ giá thành thấp. Chi phí sản xuất được cố tình hạ thấp đến mức tối thiểu bằng cách toàn dân phải cam chịu gian khổ, tiêu dùng hết sức tiết kiệm. Để người lao động có thể sống với mức lương rất thấp, chính quyền đã áp dụng biện pháp bảo hộ, giữ giá những sản phẩm nông nghiệp cũng luôn ở mức rất thấp. Cuối thập niên 70, nền công nghiệp Hàn Quốc đã sản xuất được máy thu hình màu nhưng chỉ để xuất khẩu còn trong nước vẫn dùng TV trắng đen. Các sản phẩm xa xỉ như mỹ phẩm, quần áo thời trang cho đến xe hơi cao cấp,… đều bị hạn chế nhập khẩu ở mức tối đa để nguồn vốn quý giá không bị chảy ra nước ngoài.

Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Hàn Quốc cũng phải trả giá bằng sự hy sinh rất lớn của tầng lớp lao động. Quyền của người lao động bị hạn chế tối đa vì từ năm 1962, chính sách toàn quốc thắt lưng buộc bụng được áp dụng triệt để, không có ngoại lệ, từ Tổng thống, quan chức đến dân chúng. Người dân, người lao động Hàn Quốc thời kỳ đó phải làm việc nặng nhọc triền miên và cật lực nhưng đời sống rất kham khổ. Hàng tuần mỗi người dân đều phải nhịn ăn một bữa, không hút thuốc lá ngoại nhập, không uống cà phê, không mặc quần áo thời trang đắt tiền. Thời gian lao động kéo dài từ 12-14 thậm chí 16 tiếng mỗi ngày với điều kiện lao động kém cùng tiền lương rất thấp. Những phản kháng do tự phát hay có tổ chức của công nhân, nông dân hoặc dân nghèo thành thị đòi hỏi cải thiện điều kiện sống đều bị chính quyền Park Chung-hee thẳng tay đàn áp không thương tiếc. Michael Schuman, một nhà báo nổi tiếng chuyên về lĩnh vực kinh tế học của thời báo Time (Mỹ) nhận định:[93]

Chế độ Park Chung-hee đã thực hiện quyền kiểm soát nhà nước đối với nền kinh tế một cách tàn bạo vượt xa cả con quỷ Sahashi.

Tham chiến tại Nam Việt Nam

 

Lục quân Hàn Quốc đang chiến đấu cùng Hoa Kỳ (1966), tranh vẽ bởi H. Charles McBarron

 

Tranh tuyên truyền tâm lý chiến chống Hàn Quốc của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

 

 

 

Những người lính PAVN và du kích Việt Cộng bị lính Hàn Quốc bắt giữ

 

Các nạn nhân của cuộc thảm sát Phong Nhất và Phong Nhị

Park Chung-hee đã gửi hơn 325.000 quân nhân sang tham chiến cùng với quân đội Mỹ, Việt Nam Cộng hòa và Khối đồng minh chống cộng (Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines,…) trong chiến tranh Việt Nam – vừa để nhằm mục đích “nâng cao vị thế quốc gia”,[94][95] hỗ trợ đồng minh Hoa Kỳ trong việc hoàn thành kế hoạch tham vọng chống lại sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn cầu theo Học thuyết Domino cũng như đổi lấy những khoản viện trợ từ phía chính phủ nước này.[96][97] Đây là lực lượng quân sự nước ngoài có quy mô lớn thứ hai trong cuộc chiến chỉ sau Hoa Kỳ,[98][99] số lượng binh sĩ Hàn Quốc tham chiến đạt mức cao nhất trong năm 1968 với khoảng trên 50.000 người.[100]

Ước tính sau 9 năm chiến đấu ở Nam Việt Nam (1964-1973): có khoảng từ 4.407 – 5.099 lính tử trận, 10.962 – 17.060 người khác bị thương và 4 mất tích trong suốt cuộc chiến.[101][102][103] Đội quân này gây ra một danh sách dài những tội ác chiến tranh, những vụ thảm sát thường dân, xóa sổ nhiều làng mạc Nam Việt Nam bị nghi ngờ là du kích, hỗ trợ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam khi tham chiến đồng thời bỏ lại hàng ngàn đứa con lai khi rời đi. Sau này, phía Hàn Quốc thống kê rằng quân đội của họ đã làm tổng cộng khoảng 41.000 người Việt Nam bị coi là Việt Cộng thiệt mạng.[102][104]

Đổi lại, chính phủ Hoa Kỳ tài trợ mọi khoản chiến phí và trả tiền lương cho binh lính Hàn Quốc. Tổng cộng Mỹ đã viện trợ hoặc cho Hàn Quốc vay ưu đãi khoảng 10 tỷ USD (tương đương 70 tỷ USD theo thời giá năm 2017) từ năm 1946-1978, trong đó nhiều nhất là giai đoạn 1965-1972. Trong 7 năm này, Hàn Quốc nhận được 5 tỷ USD (tương đương 35 tỷ USD theo thời giá 2017) – nhiều gấp 3 lần giai đoạn trước. Trong 2 năm đầu (1965-1966), thu nhập từ cuộc chiến chiếm khoảng 40% ngoại hối của Hàn Quốc. Một số học giả tính toán rằng khoản thu này chiếm từ 7-8% GDP Hàn Quốc trong những năm 1966-1969.[105] Số tiền được chính phủ Mỹ chuyển thẳng cho chính phủ Hàn Quốc dưới hình thức “bán công khai” như trợ cấp phát triển quốc phòng, hợp đồng dân sự, chuyển giao công nghệ và ưu đãi thị trường bởi các đời Tổng thống Johnson và Nixon.[106] Cùng với quân đội sang Nam Việt Nam, các công ty công nghiệp lớn của Hàn Quốc; như Hyundai, đã tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm khi tham gia vào việc hoàn thành các dự án xây dựng, hậu cần, giao thông vận tải lớn tại đây, tạo tiền đề để giành được những hợp đồng giá trị hơn trên khắp thế giới sau này.[102]

Nhờ viện trợ và tiền lương của Mỹ trả cho binh lính Hàn Quốc, kinh tế nước này phát triển nhanh chóng.[102] Trong vòng 10 năm từ 1964-1974, GNP bình quân tăng hơn 5 lần (từ 103 lên 541 USD).[102] Nhưng đổi lại, rất nhiều máu cũng đã đổ khi Hàn Quốc tham chiến ở Nam Việt Nam và nhiều ý kiến cho rằng những tổn thất sinh mạng đó góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế sau này.[102] Trong bài phát biểu nhân “Ngày tưởng niệm” (6/6/2017), Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã tái khẳng định:[107]

Nền kinh tế đất nước đã tồn tại được là nhờ vào sự cống hiến và hy sinh to lớn của những người lính tham gia chiến tranh Việt Nam!

Hỗ trợ từ Nhật Bản và Hoa Kỳ

 

Hiệp ước năm 1965 về quan hệ cơ bản Hàn-Nhật đã chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia

Hiệp ước năm 1965 về quan hệ cơ bản Hàn-Nhật đã chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia

Nhật Bản và Hoa Kỳ cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thần kỳ của Hàn Quốc. Tổng thống Park Chung-hee quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào năm 1965 – một động thái gặp phải sự phản đối gay gắt của nhiều người dân Hàn Quốc. Lao động giá rẻ ở trong nước kết hợp với vốn và công nghệ của Nhật Bản đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc. Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Nhật Bản trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai của Hàn Quốc chỉ sau Hoa Kỳ. Trong vòng 10 năm sau đó, thương mại giữa hai nước đã được mở rộng hơn 10 lần, từ năm 1962 đến 1979, khoảng 60% công nghệ từ nước ngoài của Hàn Quốc là do Nhật Bản cung cấp.[108]

Thị trường Hoa Kỳ cùng với các khoản đầu tư và chuyển giao công nghệ của Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến thần kỳ của nền kinh tế Hàn Quốc. Kinh tế Nhật Bản cũng là một mô hình rất tốt để Hàn Quốc noi theo trong công cuộc định hình, phát triển nền kinh tế quốc gia. Trong thời kỳ thuộc địa và kể cả sau khi giành được độc lập, người Hàn Quốc đã học hỏi được rất nhiều điều từ người Nhật về những gì mà một quốc gia không thuộc phương Tây có thể làm để công nghiệp hóa cũng như hiện đại hóa thành công. Một nhà kinh tế học người Hàn Quốc từng mô tả chính sách của cộng đồng doanh nghiệp nước này vào thời kỳ đó là: “Làm hệt như những gì người Nhật đã từng làm, nhưng cố gắng tìm cách làm sao để đạt được điều đó một cách nhanh hơn, hiệu quả và ít tốn kém hơn”.[109]

Cải cách văn hóa – xã hội

Park Chung-hee cho rằng, Hàn Quốc trước tiên cần phải phát triển kinh tế vững mạnh rồi sau đó mới có thể có được dân chủ:

Người dân các nước châu Á sợ hãi cái đói hơn là sợ độc tài. Các dân tộc châu Á muốn có bình đẳng kinh tế trước rồi sau đó mới có thể nghĩ đến chuyện xây dựng một cơ chế chính trị công bằng hơn… Và, viên ngọc mang tên dân chủ chắc chắn sẽ chẳng bao giờ có thể trở nên rực rỡ, nó là vô nghĩa đối với những người đang đói khát và tuyệt vọng.

 

Một lớp học ở Hàn Quốc trong thời kỳ Saemaul Undong với tư tưởng của Park Chung-hee được đưa vào chương trình giảng dạy

Một lớp học ở Hàn Quốc trong thời kỳ Saemaul Undong với tư tưởng của Park Chung-hee được đưa vào chương trình giảng dạy

Bằng lý lẽ này, Park Chung-hee sử dụng hệ thống cảnh sát mật để theo dõi và dẹp tan mọi hành vi chống lại ông. Tất cả mọi cá nhân có phát ngôn hoặc hành động chống lại chính phủ, mọi cuộc biểu tình đòi tăng lương đều bị đáp lại bằng sự trừng phạt, bắt bớ, trấn áp thẳng tay. Park Chung-hee sử dụng luật an ninh chống cộng để bỏ tù và tra tấn bất cứ ai bất đồng chính kiến. Các cuộc biểu tình, hệ thống báo chí và phát ngôn nói chung đều bị kiểm duyệt hà khắc. Các sĩ quan cảnh sát mang thước và chặn thanh niên trên phố để đo tóc và váy của họ. Chính quyền sẽ can thiệp rất thô bạo nếu thanh niên để tóc dài, phụ nữ mặc váy ngắn. Gián điệp, chỉ điểm có mặt khắp mọi nơi, giám sát đến cả trường học. Những người bất đồng chính kiến khó thoát khỏi bị bắt và kết cục là cuộc sống mòn mỏi ở trong tù. Ở Hàn Quốc thời điểm này, nếu một người bị quy là người cộng sản, người đó sẽ mất hết mọi quyền tồn tại trong xã hội. Quy kết và phê phán nhằm vào một chính sách nào đó của chính phủ, chính khách đối lập là mang tư tưởng “Cộng sản chủ nghĩa” là phương cách được chính quyền Park ưa thích và tận dụng rất hiệu quả. Khi một nhà hoạt động xã hội bị bắt, người đó sẽ bị tra tấn dã man để phải thú nhận mình là người cộng sản[110]. Cho đến nay, không một chính trị gia Hàn Quốc nào có thể tạo được sự uy quyền bao trùm tuyệt đối lên đất nước cũng như khiến cả một thế hệ người dân Hàn Quốc sợ hãi như Park Chung-hee.

Chế độ độc tài quân sự của Park Chung-hee mang tính chất chuyên chế độc đoán, phản dân chủ mạnh mẽ, nhưng cũng không thể phủ nhận những mặt tích cực của chế độ chính trị này đối với việc định hướng diện mạo nền kinh tế và xã hội Hàn Quốc ngày nay. Bên cạnh các biện pháp chính trị, Park Chung-hee sử dụng các yếu tố văn hóa Nho giáo để thúc đẩy phát triển đất nước. Vào đầu những năm 1970, Park Chung-hee dự định dẹp bỏ tất cả những gì gọi là truyền thống để nhanh chóng đạt được hiện đại hóa. Phong trào xây dựng nông thôn mới (Saemaul Undong) đã đập phá nhiều di sản văn hóa, những truyền thống đều bị coi là “cổ hủ”, “lạc hậu” và “lỗi thời” – cần phải nhanh chóng gạt bỏ để tiến lên hiện đại hóa:[111]

Người dân Hàn Quốc mắc kẹt với lối sống truyền thống của họ mà không hề hay biết bất kỳ điều gì đang xảy ra bên ngoài đất nước. Chúng tôi giống như những con ếch ngồi trong đáy giếng.

Nhưng về tư tưởng, Park Chung-hee nhận thấy rằng ông không thể đưa ra một học thuyết chính trị mới nào đủ hoàn thiện để có thể hoán đổi, thay thế được vị trí của Nho giáo trong xã hội Hàn Quốc mà nhận ra rằng, không thể không duy trì những yếu tố tích cực của tôn giáo này, trong đó, Trung (trung thành) và Hiếu (hiếu thảo) là hai giá trị tồn tại xuyên suốt qua nhiều thế kỷ ở Hàn Quốc. Cũng trong thời gian này, xã hội Hàn Quốc xảy ra nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng giữa các học giả về tính hữu dụng của những yếu tố tích cực trong Nho giáo truyền thống. Cuối cùng, kết quả là Park Chung-hee đã đi đến quyết định: “Giá trị quan của Nho giáo về Trung và Hiếu là những nền tảng không thể tách rời của xã hội”, chính sách giáo dục đề cao đạo Khổng được ông ra chỉ thị tiếp tục giảng dạy trong nhà trường cũng như truyền bá sâu rộng trong đời sống nhân dân.[112]

Thành quả

 

Tăng trưởng GDP (PPP) của Hàn Quốc từ năm 1911-2008

Tăng trưởng GDP (PPP) của Hàn Quốc từ năm 1911-2008

 

Olympic Seoul 1988

 

 

Hội nghị thượng đỉnh G20 Seoul 2010

 

Cao tốc Gyeongbu

Cao tốc Gyeongbu

Sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này đã cải thiện đáng kể mức sống cho người dân Hàn Quốc. Cuối năm 1965, khoảng 58,7% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống còn 50,4% vào năm 1970 và 38,4% vào năm 1978. Công nghiệp hóa dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng dân số ở các đô thị của Hàn Quốc, tăng từ 28,3% năm 1960 lên 54,9% vào năm 1979. Năm 1960, khoảng một phần ba trẻ em từ 12 đến 14 tuổi theo học tại các trường trung học; tỷ lệ đó tăng lên 53,3% vào năm 1970 và 74,0% vào năm 1975. Năm 1960, chỉ có khoảng 19,9% dân số từ 15 đến 17 tuổi được đi học; tỷ lệ đó tăng lên 29,3% vào năm 1970 và 40,5% vào năm 1975.[113] Năm 1970, quá trình xây dựng tuyến đường cao tốc Gyeongbu đã được hoàn thành, liên kết thủ đô Seoul với các khu vực phía đông nam cũng như các thành phố cảng lớn ở phía nam đất nước.[114] Vào năm 1969, cả nước chỉ có 200.000 máy truyền hình thì đến năm 1979 đã có khoảng 6 triệu máy.[115] Nếu như cũng trong năm 1969, chỉ có 6% hộ gia đình ở Hàn Quốc sở hữu một chiếc TV thì đến năm 1979, tỷ lệ này đã là 4/5.[115]

Nhờ những biện pháp cứng rắn về chính trị, khắc khổ về kinh tế cũng như tận dụng yếu tố văn hóa, từ thập niên 1960 trở đi, kinh tế Hàn Quốc phát triển nhanh chóng.[116] Tuy nhiên, vào ngày 26 tháng 10 năm 1979, tổng thống Park Chung-hee bất ngờ bị ám sát, sự tăng trưởng đều đặn của đất nước cũng đột ngột dừng lại, kéo theo đó là một thời kỳ hỗn loạn liên tiếp về chính trị cộng với sự tăng vọt của giá dầu mỏ cùng vụ mùa thu hoạch lúa gạo thất bát và tỷ lệ lạm phát lên tới 44% năm 1979 đã khiến cho nền kinh tế Hàn Quốc phải chịu mức suy thoái chạm mức 6% trong năm 1980. Nhưng sau đó, nền kinh tế đã nhanh chóng được phục hồi và quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng. Thập niên 1980 tiếp tục chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP cao, đạt đỉnh điểm vào những năm 1986-1988 ở mức 12% mỗi năm khiến cho Hàn Quốc trở thành nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao nhất trên thế giới tại thời điểm đó[117], Hàn Quốc về sau được xếp vào nhóm những nước công nghiệp mới. Trong những năm kế tiếp, tuy có chậm lại nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn tiếp tục gia tăng đều đặn cho đến năm 1997 với tốc độ trung bình là 10% mỗi năm.[117] Thời kỳ cải cách thành công và bùng nổ trong công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của Hàn Quốc được gọi là “Kỳ tích trên dòng sông Hán”.[118]

Sự hình thành Chaebol

 

Trụ sở chính của Samsung – Chaebol lớn mạnh nhất Hàn Quốc

Trụ sở chính của Samsung – Chaebol lớn mạnh nhất Hàn Quốc

 

Tổng thống Park Geun-hye cùng với các chủ tịch Samsung Lee Kun-hee và Hyundai Chung Mong-koo

Tổng thống Park Geun-hye cùng với các chủ tịch Samsung Lee Kun-hee và Hyundai Chung Mong-koo

Trong bối cảnh chính trị như vậy, nền kinh tế Hàn Quốc cũng phát triển theo mô hình “Độc tài”. Các Chaebol – tức Tài phiệt, là thuật ngữ dùng để chỉ các đại tập đoàn gia đình lớn. Thông thường, tài phiệt là các tập đoàn đa quốc gia với thành viên bao gồm rất nhiều các doanh nghiệp quốc tế nhưng đều nằm dưới sự điều khiển của một ông chủ duy nhất nắm quyền điều hành trên tất cả các cơ sở này.[119][120] Hiện nay, ở Hàn Quốc có đến hàng chục nhóm tài phiệt như vậy, hầu hết nằm dưới sự điều khiển tuyệt đối của một vài gia tộc. Đến năm 2008, khoảng 80% GDP của Hàn Quốc có nguồn gốc từ các tài phiệt, chỉ riêng Samsung đã chiếm tới 1/5 giá trị xuất khẩu của nước này. Các lãnh đạo tài phiệt đóng một vai trò quan trọng trong việc chi phối nền chính trị Hàn Quốc. Ví dụ, vào năm 1988; chủ tịch tập đoàn Hyundai khi ấy là ông Chung Mong-joon đã trúng cử vào quốc hội, một số lãnh đạo tài phiệt khác cũng trúng cử đại biểu quốc hội thông qua cơ chế đại biểu tỷ lệ.

Các tài phiệt chỉ nắm giữ một tỷ lệ nhỏ cổ phần nhưng lại có rất nhiều quyền lực cùng khả năng kiểm soát các công ty con. Ví dụ: Samsung chỉ sở hữu khoảng 0,5% tài sản của các chi nhánh thuộc quyền, nhưng trên thực tế thì họ có quyền chi phối tất cả các công ty con. Điều này cho thấy rằng mức độ tuân thủ luật pháp ở giới tài phiệt Hàn Quốc là rất thấp.[120] Các tài phiệt duy trì quyền lực của mình thông qua sở hữu chéo,[121] lũng đoạn nền kinh tế, trở nên quá lớn để có thể bị khống chế hay sụp đổ. Một số công ty như Hyundai, SK thậm chí còn có dính líu đến những vụ bê bối liên quan tới các tổng thống Kim Dae-jung và Roh Moo-hyun.[122]

Từ năm 1998 đến 2007, Hàn Quốc đã có những tiến bộ trong quá trình dân chủ hoá, song đôi khi vẫn trượt theo hướng độc tài, nhiều tổ chức phi chính phủ giả hiệu hoạt động theo mệnh lệnh của chính quyền, nhiều tổ chức cánh hữu hiện “vẫn tìm cách bảo vệ những quyền ưu tiên mà họ có được từ thời kỳ độc tài”. Ở Hàn Quốc, quá trình dân chủ hoá diễn ra trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng nhưng không thúc đẩy phát triển dân chủ mà vẫn mang nặng tính bóc lột khiến cho người dân Hàn Quốc hiện nay phải gánh chịu rất nhiều áp lực trong cuộc sống.[123] Người Hàn Quốc làm việc trung bình khoảng 2.052 giờ/năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình 1.707 giờ/năm của các nước trong Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD).[124]

 

Hàn Quốc nhìn từ vệ tinh

Hàn Quốc nhìn từ vệ tinh

 

Dokdo, lãnh thổ tranh chấp với Nhật Bản

 

Bờ biển của đảo Jeju

Lãnh thổ Hàn Quốc được sắp xếp thành 17 đơn vị hành chính, bao gồm cả các thực thể địa lý tranh chấp như nhóm đảo Liancourt / Dokdo (với Nhật Bản và Bắc Triều Tiên) và bãi đá ngầm Socotra, Gageo (với Trung Quốc) mà nước này tuyên bố chủ quyền đồng thời hiện đang duy trì quyền tài phán cũng như sự kiểm soát trên thực tế.[125]

Hàn Quốc có đường biên giới trên bộ duy nhất với CHDCND Triều Tiên ở phía bắc; dài 238 km dọc theo khu phi quân sự liên Triều. Lãnh thổ Hàn Quốc phần lớn được bao bọc bởi biển; với 8.460 km đường bờ biển trải dài ở cả 3 mặt tây, nam, đông. Phía tây là biển Hoàng Hải, phía nam là biển Hoa Đông còn phía đông là các đảo Ulleungdo và Liancourt trên biển Nhật Bản (biển này còn được gọi là “biển Đông” theo cách gọi của người Hàn Quốc).

Tổng diện tích tính riêng phần đất liền (chưa bao gồm các hòn đảo) của Hàn Quốc là 100.032 km² (38.623 sq mi).[126][127] Lãnh thổ Hàn Quốc trải dài từ vĩ độ 33° đến 38° Bắc và kinh độ từ 124° đến 130° Đông.[125] Địa hình phân hoá thành hai vùng rõ rệt: vùng rừng núi chiếm khoảng 70% diện tích nằm ở phía đông, còn lại là vùng đồng bằng duyên hải ở phía tây và nam. Bãi bồi ven biển Saemangeum là bãi nổi ven biển lớn thứ hai trên thế giới và bức tường chắn sóng biển bao quanh Saemangeum là bờ đê nhân tạo dài nhất thế giới.[128]

Địa hình

 

Bản đồ mô phỏng địa hình Hàn Quốc

Bản đồ mô phỏng địa hình Hàn Quốc

 

Tâm chấn các trận động đất ở Hàn Quốc (từ M2.0 trở lên)

Tâm chấn các trận động đất ở Hàn Quốc (từ M2.0 trở lên)

Không giống như Nhật Bản hay các tỉnh phía bắc Trung Quốc, địa chất của bán đảo Triều Tiên tương đối ổn định. Không có núi lửa hoạt động (ngoại trừ núi Bạch Đầu ở biên giới giữa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, hoạt động gần đây nhất vào năm 1903) và cũng không có các trận động đất mạnh.[125]

Hàn Quốc ít các vùng đồng bằng rộng, các vùng đất thấp là sản phẩm của hoạt động xói mòn núi. Khoảng 30% lãnh thổ Hàn Quốc là các vùng đất thấp, phần còn lại bao gồm vùng cao và những ngọn núi. Phần lớn các vùng đất thấp nằm dọc theo bờ biển, đặc biệt là bờ biển phía tây dọc theo những con sông lớn. Đồng bằng quan trọng nhất là đồng bằng sông Hán bao quanh thủ đô Seoul cho tới ven biển phía tây nam của thành phố Pyeongtaek cùng lưu vực các sông Geum, Nakdong, Yeongsan và Honam ở phía tây nam. Một dải đồng bằng hẹp ven biển chạy dọc theo bờ biển phía đông đất nước.[125]

Khoảng 3.000 hòn đảo; chủ yếu là nhỏ và không có người ở; nằm ngoài bờ biển phía tây và phía nam của Hàn Quốc. Jeju nằm cách bờ biển phía nam Hàn Quốc khoảng 100 km, đây là hòn đảo lớn nhất cả nước với diện tích 1.845 km². Jeju cũng là nơi có Hallasan – núi cao nhất Hàn Quốc, đây là một ngọn núi lửa đã ngưng hoạt động, cao 1.950 mét so với mực nước biển. Các đảo lớn khác ở phía đông Hàn Quốc bao gồm có Ulleungdo, Dokdo trong khi Marado và Socotra là những đảo cực nam.[125]

Thành phố lớn nhất của Hàn Quốc là Seoul, có dân số chính thức vào khoảng trên 10 triệu người và nằm ở phía tây bắc, những thành phố lớn khác là Incheon ở phía tây Seoul, Daejeon ở miền trung, Gwangju ở phía tây nam, Daegu và Busan ở phía đông nam.[125]

Hàn Quốc có 20 công viên quốc gia cùng những địa điểm thiên nhiên nổi tiếng như cánh đồng trà Boseong, công viên sinh thái vịnh Suncheon hay công viên quốc gia núi Jiri.[129]

Khí hậu

 

Các kiểu khí hậu của Hàn Quốc

Các kiểu khí hậu của Hàn Quốc

 

Tuyết rơi kỷ lục ở Hàn Quốc năm 2004

 

Bức xạ mặt trời ở Hàn Quốc

 

Phân loại khí hậu của Hàn Quốc

Phân loại khí hậu của Hàn Quốc

Hàn Quốc có sự xen kẽ giữa khí hậu lục địa ẩm ướt, ôn đới và cận nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Á, có bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân thường kéo dài từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5, mùa hè từ giữa tháng 5 đến đầu tháng 9, mùa thu từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 11 và mùa đông từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 3.

Mùa đông Hàn Quốc rất lạnh với nhiệt độ thường xuyên dưới 0 °C và có thể xuống dưới −20 °C (−4 °F) ở những vùng nội địa do gió mùa mang không khí lạnh từ Siberia thổi tới. Ở Seoul, nhiệt độ trung bình tháng 1 là −7 đến 1 °C (19 đến 34 °F) và phạm vi nhiệt độ trung bình tháng 8 là 22 đến 30 °C (72 đến 86 °F). Nhiệt độ mùa đông cao hơn dọc theo bờ biển phía nam và thấp hơn đáng kể ở các vùng núi. Mùa hè nóng và ẩm với nhiệt độ vượt quá 30 °C (86 °F) ở hầu hết các khu vực trên cả nước. Do ở phía nam và bị biển bao bọc chung quanh, đảo Jeju có thời tiết ấm hơn và dễ chịu hơn so với các vùng khác của Hàn Quốc. Nhiệt độ trung bình trên đảo vào khoảng từ 2,5 °C (36,5 °F) trong tháng Giêng đến 25 °C (77 °F) trong tháng Bảy.[130][131]

Những cơn mưa nặng hạt tập trung vào một quãng thời gian ngắn trong mùa hè. Mùa mưa ở Hàn Quốc được gọi là “Jangma”, bắt đầu từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 7. Lượng mưa trung bình hàng năm thay đổi từ 1.370 mm (54 inch) ở Seoul đến 1.470 mm (58 inch) ở Busan. Hiếm khi nào mưa ít hơn 750 milimét (29,5 inch) trong năm, phần lớn đều trên 1.000 milimét (39,4 inch) nên nước này có đủ mưa để duy trì sản xuất nông nghiệp. Hàn Quốc ít bị bão hơn so với Nhật Bản và Trung Quốc. Có khoảng từ 1-3 cơn bão mỗi năm. Bão thường đổ bộ vào cuối mùa hè, đặc biệt là trong tháng Tám và tập trung chủ yếu vào vùng bờ biển phía nam; đem đến gió mạnh cùng những cơn mưa xối xả. Lũ lụt thỉnh thoảng cũng gây ra thiệt hại đáng kể như sạt lở đất dẫn tới đất đai, nhà cửa, cơ sở vật chất bị phá hủy do địa hình Hàn Quốc phần lớn là đồi núi.[132]

Môi trường

 

Ảnh chụp bán đảo Triều Tiên cũng như biên giới hai miền nhìn từ vệ tinh vào ban đêm cho thấy sự chênh lệch rất lớn trong mức độ tiêu thụ điện năng giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên

 

Suối Cheonggyecheon

 

Cánh đồng trà Boseong

 

Một biểu ngữ phản đối ở Hàn Quốc nhằm kêu gọi các biện pháp đối phó của chính phủ với ô nhiễm không khí dạng hạt đang ngày một nghiêm trọng từ Trung Quốc tràn qua

 

Ô nhiễm bụi mịn luôn là một vấn đề môi trường nghiêm trọng của các đô thị Hàn Quốc

Trong 20 năm đầu giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Hàn Quốc, quốc gia này có rất ít nỗ lực bảo vệ môi trường.[133] Công nghiệp hóa và phát triển đô thị không được kiểm soát đã dẫn đến nạn phá rừng và phá hủy các vùng đất ngập nước.[134] Tuy nhiên, gần đây đã có những nỗ lực để ứng phó, khắc phục những vấn đề này, bao gồm cả một dự án năng lượng sạch năm năm do chính phủ điều hành trị giá 84 tỷ USD nhằm mục đích thúc đẩy hiệu quả năng lượng và công nghệ xanh.[135]

Chiến lược phát triển dựa trên nền tảng xanh là sự đại tu toàn diện của nền kinh tế Hàn Quốc, tiêu tốn gần 2% tổng GDP. Sáng kiến ​​phủ xanh bao gồm những nỗ lực xây dựng mạng lưới xe đạp, tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như mặt trời và gió, giảm thiểu các phương tiện chạy bằng xăng dầu, tiết kiệm ánh sáng điện tử không cần thiết vào ban ngày bằng cách áp dụng rộng rãi các công nghệ thân thiện với môi trường như đèn LED trong chiếu sáng trên toàn quốc.[136] Chương trình tiêu chuẩn danh mục tái tạo với các chứng chỉ năng lượng tái tạo đã có từ năm 2012 đến 2022.[137] Các hệ thống hạn ngạch ủng hộ các máy phát lớn, tích hợp theo chiều dọc cùng các tiện ích điện đa quốc gia, nếu chỉ vì các chứng chỉ thường được quy định theo đơn vị một Megawatt/giờ, chúng cũng khó thiết kế và thực hiện hơn so với biểu giá Feed-in.[138] Khoảng 350 đơn vị nhiệt điện kết hợp vi mô dân cư đã được lắp đặt vào năm 2012.[139]

Năm 2017, Hàn Quốc là quốc gia phát thải khí carbon lớn thứ 7 trên thế giới cũng như đứng thứ 5 toàn cầu theo bình quân đầu người. Tổng thống Moon Jae-in cam kết giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính – góp phần gây ra biến đổi khí hậu – xuống còn 0 vào năm 2050.[140][141]

Nước máy của Seoul gần đây cũng đã trở nên an toàn để uống.[142] Các dự án trồng rừng được đẩy mạnh. Một dự án trị giá nhiều tỷ đô la khác là sự phục hồi suối Cheonggyecheon, một con suối chảy qua trung tâm Seoul mà trước đó đã bị lấp lại khi xây đường cao tốc.[143] Vấn đề lớn nữa là chất lượng không khí với mưa axit, oxit lưu huỳnh và bão bụi vàng từ phía Trung Quốc thổi qua hàng năm, đây là thách thức đặc biệt nghiêm trọng với môi trường. Người ta thừa nhận rằng tình trạng này xày ra một phần là do ảnh hưởng từ các khu vực Nội Mông và Hoa Bắc lân cận của Trung Quốc – những nơi đang bị ô nhiễm không khí trầm trọng.[133]

Hàn Quốc có điểm trung bình chỉ số toàn vẹn cảnh quan rừng năm 2019 là 6,02/10, xếp thứ 87 trong số 172 quốc gia trên toàn cầu.[144]

Hàn Quốc là thành viên của Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực, Công ước về Đa dạng sinh học, Nghị định thư Kyoto (hình thành Nhóm toàn vẹn môi trường (EIG), liên quan đến UNFCCC, với Mexico và Thụy Sĩ), CITES, UNCLOS, Hiệp ước Cấm thử Hạt nhân Toàn diện, Nghị định thư Montreal và Công ước Ramsar.[145][146]

Lãnh thổ Hàn Quốc bao gồm 1 thủ đô (đặc biệt thị), 8 tỉnh (đạo), 6 thành phố trực thuộc trung ương (quảng vực thị), 1 tỉnh tự trị (đặc biệt tự trị đạo) và 1 thành phố tự trị (đặc biệt tự trị thị). Thủ đô của Hàn Quốc – Seoul, là thành phố lớn nhất cũng như một thành phố toàn cầu quan trọng. Ngoài ra, vùng thủ đô Seoul – trung tâm đô thị lớn thứ 4 về dân số trên thế giới,[147] cũng là một trong những đại đô thị có quy mô kinh tế lớn nhất hiện nay với hạng 5 châu Á, 17 thế giới về GDP (2020).[148][149]

Bản đồ
Tên
Hangul
Hanja
Hán-Việt
Dân số

 

Gangwon

Seoul

Incheon

Gyeonggi

N.
Chungcheong

B.
Chungcheong

Sejong

Daejeon

B. Gyeongsang

B. Jeolla

Daegu

Ulsan

Busan

N. Gyeongsang

Gwangju

N. Jeolla

Jeju

Bắc Triều Tiên

Nhật Bản

Hoàng Hải

Eo biển Triều Tiên
(Eo biển Busan)

Eo biển Triều Tiên
(Eo biển Tsushima)

Biển Nhật Bản
(Biển Đông)

Thủ đô (đặc biệt thị) (Teukbyeolsi)
Seoul

서울특별시

서울特別市

Seoul đặc biệt thị
9.794.304
Thành phố trực thuộc trung ương (quảng vực thị) (Gwangyeoksi)
Busan

부산광역시

釜山廣域市

Phủ Sơn quảng vực thị
3.635.389
Daegu

대구광역시

大邱廣域市

Đại Khâu quảng vực thị
2.512.604
Incheon

인천광역시

仁川廣域市

Nhân Xuyên quảng vực thị
2.628.000
Daejeon

대전광역시

大田廣域市

Đại Điền quảng vực thị
1.442.857
Gwangju

광주광역시

光州廣域市

Quang Châu quảng vực thị
1.456.308
Ulsan

울산광역시

蔚山廣域市

Uất Sơn quảng vực thị
1.087.958
Tỉnh (đạo) (Do)
Gyeonggi

경기도

京畿道

Kinh Kỳ đạo
10.415.399
Gangwon

강원도

江原道

Giang Nguyên đạo
1.592.000
Chungcheong Bắc

충청북도

忠淸北道

Trung Thanh Bắc đạo
1.462.621
Chungcheong Nam

충청남도

忠淸南道

Trung Thanh Nam đạo
1 840.410
Jeolla Bắc

전라북도

全羅北道

Toàn La Bắc đạo
1.890.669
Jeolla Nam

전라남도

全羅南道

Toàn La Nam đạo
1.994.287
Gyeongsang Bắc

경상북도

慶尙北道

Khánh Thượng Bắc đạo
2.775.890
Gyeongsang Nam

경상남도

慶尙南道

Khánh Thượng Nam đạo
2.970.929
Tỉnh tự trị (đặc biệt tự trị đạo) (Teukbyeoljachi-do)
Jeju

제주특별자치도

濟州特別自治道

Tế Châu đặc biệt tự trị đạo
560.000
Thành phố tự trị (đặc biệt tự trị thị) (Teukbyeol-jachisi)
Sejong

세종특별자치시

世宗特別自治市

Thế Tông đặc biệt tự trị thị
122.263

Các thành phố lớn:

 

Toàn cảnh thành phố Seoul nhìn từ tháp N Seoul Tower trên đỉnh núi Namsan vào buổi sáng

Toàn cảnh thành phố Seoul nhìn từ tháp N Seoul Tower trên đỉnh núi Namsan vào buổi sáng

 

Hệ thống bầu cử và phân quyền của Hàn Quốc

 

Quốc hội Hàn Quốc

 

Biểu đồ các đảng phái chính trị của Hàn Quốc từ năm 2005-2018

 

Nhà Xanh

 

Tòa án Tối cao Hàn Quốc

 

Tòa án Hiến pháp Hàn Quốc

Thể chế chính trị của Hàn Quốc là dân chủ đại nghị và dân chủ trực tiếp với Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất, chính phủ quốc gia hoạt động, vận hành theo hệ thống Tổng thống chế toàn phần, trong đó, Tổng thống là nhà lãnh đạo đất nước, người đứng đầu chính phủ kiêm Tổng tư lệnh của các lực lượng vũ trang.

Cấu trúc của chính phủ Hàn Quốc được xác định bởi Hiến pháp Hàn Quốc. Giống như nhiều quốc gia dân chủ khác, Hàn Quốc có một hệ thống chính phủ được chia thành ba nhánh tách biệt: hành pháp, tư pháp và lập pháp. Các cơ quan hành pháp và lập pháp hoạt động chủ yếu ở cấp quốc gia, mặc dù các bộ khác nhau trong ngành hành pháp cũng thực hiện chức năng cấp địa phương. Chính quyền địa phương là bán tự trị đồng thời có các cơ quan hành pháp cùng lập pháp của riêng họ. Ngành tư pháp hoạt động ở cả cấp quốc gia và địa phương. Hàn Quốc là một nền dân chủ lập hiến.

Hiến pháp Hàn Quốc đã được chú trọng sửa đổi nhiều lần kể từ khi ban hành lần đầu tiên vào năm 1948 sau khi giành độc lập. Tuy nhiên, văn bản này vẫn giữ được nhiều đặc điểm rộng rãi và ngoại trừ Đệ Nhị Đại Hàn Dân Quốc tồn tại trong thời gian ngắn. Hàn Quốc luôn có một hệ thống tổng thống với một uỷ ban điều hành độc lập. Theo hiến pháp hiện hành, nhà nước đôi khi được gọi là Đệ Lục Đại Hàn Dân Quốc. Cuộc bầu cử trực tiếp lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1948. Ngày nay, The World Factbook và Cơ quan Tình báo Kinh tế công nhận và mô tả nền dân chủ của Hàn Quốc là một nền dân chủ hiện đại, hoàn chỉnh với đầy đủ chức năng.[151][152] Năm 2020, Hàn Quốc được xếp hạng 8 châu Á và thứ 33 trên thế giới về chỉ số nhận thức tham nhũng theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế.[153]

Theo Điều luật 70 của Hiến pháp, người đứng đầu chính phủ nhà nước Đại Hàn Dân Quốc là Tổng thống do mỗi công dân mang quốc tịch Hàn Quốc từ trên 18 tuổi trở lên trực tiếp bỏ phiếu bầu ra, thời hạn nhiệm kỳ kéo dài 5 năm và không được phép tái tranh cử. Tổng thống là người đại diện cao nhất cho quốc gia, chịu trách nhiệm điều hành đất nước đồng thời có toàn quyền chỉ huy quân đội – tương đương với Tổng Tư lệnh. Ngoài ra, Tổng lý Quốc vụ (Thủ tướng) do Tổng thống chỉ định. Chính phủ có tối thiểu 15 và tối đa 30 thành viên. Thành viên chính phủ cũng do Thủ tướng chỉ định nhưng vẫn phải được sự thông qua của Quốc hội. Quốc hội Hàn Quốc có 300 ghế với 253 ghế cử tri và 47 ghế đại biểu theo tỷ lệ, đại biểu quốc hội được bầu 4 năm một lần. Nơi ở cũng như làm việc chính thức của các đời Tổng thống Hàn Quốc hiện nay là Nhà Xanh.

Cơ quan quan trọng thứ ba trong hệ thống chính trị của Hàn Quốc là Toà án Tối cao. Cơ quan này theo dõi hoạt động của chính phủ và ra các phán quyết cuối cùng. Toà án Tối cao gồm có 9 thẩm phán. Tổng thống trực tiếp chỉ định 3 người trong số này, 3 người khác được quốc hội bầu ra, tuy nhiên vẫn phải được sự chấp thuận của Tổng thống. Chánh án Toà án tối cao là người chỉ định 3 thẩm phán còn lại.

 

Quân đội Hàn Quốc tiến vào Bình Nhưỡng trong chiến tranh Triều Tiên

Quân đội Hàn Quốc tiến vào Bình Nhưỡng trong chiến tranh Triều Tiên

 

Binh sĩ Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam

Binh sĩ Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam

Quân đội Hàn Quốc được phân thành Lục quân (ROKA), Hải quân (ROKN, trong đó bao gồm cả Thủy quân lục chiến (ROKMC) cùng Bảo vệ bờ biển), Không quân (ROKAF) và dự bị chiến lược.[154] Theo hiến pháp, toàn bộ công dân mang quốc tịch Hàn Quốc là nam giới từ 18 đến 28 tuổi đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc bất kể người đó là ai. Thời gian tại ngũ thường là 18 tháng đối với lục quân cùng thủy quân lục chiến, 20 tháng với hải quân và 22 tháng với không quân.

Quân đội Hàn Quốc là một trong những tổ chức quân sự mạnh trên thế giới,[155][156][157] tuy nhiên, lực lượng này không phát triển hay sở hữu các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt do đã ký kết Hiệp ước không phổ biến. Tổng số quân nhân của Hàn Quốc năm 2019 là 6.708.000 người bao gồm cả phục vụ trực tiếp lẫn dự bị.[158] Năm 2019, ngân sách quốc phòng của Hàn Quốc là 44 tỷ đô la Mỹ, chiếm 2,7% tổng GDP[159] – xếp thứ 10 thế giới,[160][161] năm 2020 là 45.5 tỷ,[162] năm 2021 tăng lên 48 tỷ – giữ hạng 8 toàn cầu.[31]

Lịch sử

 

Quân dân Hán Thành (Seoul) nổi dậy chống Nhật năm 1907

Quân dân Hán Thành (Seoul) nổi dậy chống Nhật năm 1907

 

Các chỉ huy của Đại Hàn Quang phục Quân cùng với Cơ quan Tình báo chiến lược Hoa Kỳ năm 1944

Các chỉ huy của Đại Hàn Quang phục Quân cùng với Cơ quan Tình báo chiến lược Hoa Kỳ năm 1944

Quân đội Hàn Quốc bắt nguồn từ Đại Hàn Quang phục Quân, lực lượng dân quân được thành lập bởi chính phủ Lâm thời Đại Hàn Dân Quốc ở Trùng Khánh, Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 17 tháng 9 năm 1940 trong thời kỳ Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên. Ngoài ra, nhiều binh sĩ trực thuộc Quốc Dân Đảng và Mãn Châu Quốc có gốc là người Triều Tiên về sau cũng tham gia vào hàng ngũ kháng chiến.[163]

Sau khi Hàn Quốc độc lập khỏi Nhật Bản vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, lực lượng quân cảnh cùng lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hàn Quốc (do Phó Đô đốc Son Won-il cùng nhiều người khác tổ chức) được thành lập thông qua chính quyền quân sự Hoa Kỳ tại phía nam bán đảo. Các lực lượng này về sau lần lượt phát triển thành Lục quân và Hải quân Hàn Quốc, sau này có thêm lực lượng Không quân – thành lập vào tháng 10 năm 1949.

Quân đội Hàn Quốc phát triển nhanh chóng trong giai đoạn sau của chiến tranh Triều Tiên do được Hoa Kỳ cùng Bộ Tư lệnh Liên Hợp Quốc trang bị và huấn luyện. Sau chiến tranh, quân đội Hàn Quốc thiết lập liên minh quân sự với Hoa Kỳ cũng như ký kết Hiệp ước Phòng thủ chung.[164]

Lục quân

 

Đặc nhiệm Lục quân Hàn Quốc luyện tập tác chiến chống khủng bố

Đặc nhiệm Lục quân Hàn Quốc luyện tập tác chiến chống khủng bố

 

 

Các binh sĩ của Lực lượng Tác chiến Đặc biệt “Mũ nồi đen” Hàn Quốc luyện tập trong tuyết

Lục quân Hàn Quốc ước tính hiện có khoảng 2.500 xe tăng chiến đấu chủ lực đang hoạt động,[165] bao gồm cả những mẫu được thiết kế, lắp ráp và sản xuất nội địa như K1 88 (K1A1) và đặc biệt là K2 Báo Đen – một trong những mẫu xe tăng hiện đại cũng như có giá thành đắt đỏ bậc nhất trên thế giới hiện nay,[166][167] tạo thành ‘xương sống’ cho lực lượng tăng thiết giáp và bộ binh cơ giới kết hợp cùng một kho vũ khí lớn bao gồm nhiều hệ thống pháo các loại với khoảng 1.700 pháo tự hành K55, K9 Thunder, pháo phản lực bắn loạt K136, K239, M270, thiết giáp K200, xe chiến đấu bộ binh ‘lưỡng cư’ K21 đặc biệt với khả năng tiêu diệt trực thăng[168] hay hệ thống pháo phòng không tự hành K30. Quân đội Hàn Quốc cũng đang chú trọng vào phát triển và hoàn thiện các loại Robot quân sự với công nghệ tự động hóa cùng quá trình điều khiển có sự hỗ trợ của lực lượng tác chiến điện tử nhằm chiến đấu, tiêu diệt mục tiêu hoàn toàn bằng trí tuệ nhân tạo[169][170], ví dụ như pháo binh Robot I-UGV – một sản phẩm hợp tác với tập đoàn vũ khí Hanwha Defense – có thể nghe tiếng súng địch để khóa mục tiêu.[171]

Hải quân

 

Tàu tấn công đổ bộ lớp Dokdo của Hải quân Hàn Quốc trong một cuộc tập trận chung cùng với trực thăng đa nhiệm Sikorsky SH-60 Seahawk của Hải quân Hoa Kỳ

Tàu tấn công đổ bộ lớp Dokdo của Hải quân Hàn Quốc trong một cuộc tập trận chung cùng với trực thăng đa nhiệm Sikorsky SH-60 Seahawk của Hải quân Hoa Kỳ

 

Một sĩ quan Hải quân Hàn Quốc được học tập, đào tạo trên khu trục hạm USS Bradford của Hải quân Hoa Kỳ năm 1952

Một sĩ quan Hải quân Hàn Quốc được học tập, đào tạo trên khu trục hạm USS Bradford của Hải quân Hoa Kỳ năm 1952

Hải quân Hàn Quốc được đánh giá là lực lượng hải quân lớn thứ 8 trên thế giới.[172][173][174] Hạm đội chiến lược của lực lượng này bao gồm nhóm tàu khu trục lớp Chungmugong Yi Sun-sin, tàu tấn công đổ bộ các lớp Dokdo, Soyang, Solgae, tàu ngầm diesel-điện các lớp Dosan Ahn Chang-ho (có khả năng mang theo và phóng tên lửa đạn đạo (SLBM) – đưa Hàn Quốc trở thành quốc gia đầu tiên không sở hữu vũ khí hạt nhân làm được điều này)[175], Son Won-il và Jang Bogo – tất cả đều được trang bị động cơ AIP cùng tàu khu trục lớp Sejong Đại đế – trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis thế hệ mới nhất cho phép theo dõi, đánh chặn và tiêu diệt đồng thời nhiều tên lửa hành trình hoặc tên lửa đạn đạo của đối phương, tạo thành “Chiếc ô phòng thủ tên lửa trên biển” của Hải quân Hàn Quốc – chống lại mối đe dọa tên lửa đến từ phía Bắc Triều Tiên.

Hải quân Hàn Quốc hiện nay đang tiếp tục kế hoạch hoàn thiện, nâng cấp, phát triển các dự án đóng tàu lớn như chương trình tàu ngầm Hàn Quốc (KSS), chương trình khu trục hạm Hàn Quốc (KDX), chương trình tàu khu trục (FFX) và chương trình tàu vận tải đổ bộ (LPX-I, LPX-II).[176] Năm 2016, tổ chức này hoàn thành một căn cứ mới với tên gọi “Cảng liên hợp dân sự – quân sự Jeju” trên bờ biển phía nam của đảo Jeju để bảo vệ các tuyến đường liên lạc trên biển.[177]

Thủy quân lục chiến

 

Thủy quân lục chiến Hàn Quốc trong Lễ kỷ niệm 64 năm ngày giải phóng Seoul (2014)

Thủy quân lục chiến Hàn Quốc trong Lễ kỷ niệm 64 năm ngày giải phóng Seoul (2014)

 

Thủy quân lục chiến Hàn Quốc trong một cuộc tập trận huấn luyện tấn công đổ bộ

Thủy quân lục chiến Hàn Quốc trong một cuộc tập trận huấn luyện tấn công đổ bộ

Thủy quân lục chiến Hàn Quốc là một nhánh thuộc Hải quân, được thành lập từ năm 1949 và chịu trách nhiệm về các hoạt động phản ứng nhanh, tác chiến đặc biệt hoặc tấn công đổ bộ, tư lệnh của lực lượng này là một tướng ba sao. Thủy quân lục chiến là một trong những lực lượng chiến đấu tinh nhuệ nhất của quân đội Hàn Quốc với chương trình huấn luyện khắc nghiệt. Đây cũng là lực lượng có chế độ luyện tập hà khắc nhất kèm theo đó là kỹ năng chiến đấu được rèn rũa thông qua các cuộc tập trận chung hàng năm cùng với Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và nhiều cường quốc quân sự khác trên thế giới.[178]

Thủy quân lục chiến Hàn Quốc có khoảng 29.000-30.000 nhân viên, được tổ chức thành 2 sư đoàn, 1-2 lữ đoàn, 2 tiểu đoàn và 1 đại đội trinh sát, được trang bị khoảng 300 phương tiện đổ bộ tấn công, xe tăng và pháo tự hành.[179] Biệt danh của lực lượng này hiện nay là “Những con Sói biển”.[178] Tháng 3 năm 2016, Bộ Quốc phòng Hàn Quốc thông báo về việc thành lập một trung đoàn Thủy quân lục chiến mới mang tên gọi “Spartan 3000” – bao gồm khoảng 3.000 lính thủy đánh bộ được tuyển chọn đặc biệt với nhiệm vụ sẵn sàng triển khai chiến đấu ở bất kỳ khu vực nào trên bán đảo Triều Tiên trong vòng 24 giờ trong trường hợp nước này bị Bắc Triều Tiên tấn công; đồng thời chịu trách nhiệm xử lý những mục tiêu ưu tiên cao ở Bắc Triều Tiên, bao gồm cả các cơ sở hạt nhân.[180]

Không quân

 

Một phi công của Không quân Hàn Quốc trên chiến đấu cơ F-16

Một phi công của Không quân Hàn Quốc trên chiến đấu cơ F-16

 

Không quân Hàn Quốc thực hiện kỹ thuật tiếp nhiên liệu trên không

Không quân Hàn Quốc thực hiện kỹ thuật tiếp nhiên liệu trên không

Không quân Hàn Quốc hiện đang vận hành 1.649 máy bay các loại (trong đó có 680 trực thăng cùng nhiều UAV thế hệ mới, đưa tổ chức này trở thành lực lượng không quân lớn thứ 5 trên thế giới[181][182]), bao gồm một số chiến đấu cơ hiện đại như F-15, F-16 và T-50 nội địa, được hỗ trợ bởi các tiêm kích tuy cũ nhưng được bảo trì tốt như F-4 và F-5 – vẫn phục vụ hiệu quả bên cạnh những dòng tiên tiến hơn như F-35. Trong nỗ lực để đạt được sức mạnh không chỉ về số lượng mà còn cả tính hiệu quả, việc đưa 4 máy bay cảnh báo sớm trên không Boeing 737 AEW&C vào hoạt động thu thập, phân tích thông tin tình báo được kỳ vọng sẽ tăng cường khả năng hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ với độ chính xác cao nhất. Tháng 5 năm 2011, Hàn Quốc ký hợp đồng trị giá 400 triệu đô la để bán 16 máy bay huấn luyện siêu âm hạng nhẹ T-50 sang Indonesia, trở thành quốc gia châu Á đầu tiên xuất khẩu máy bay siêu thanh.[183][184] Tháng 12 năm 2019, Hàn Quốc tiếp nhận máy bay không người lái RQ-4 trị giá 123 triệu USD của Mỹ, trở thành nước châu Á đầu tiên sở hữu loại UAV này.[185] Tháng 4 năm 2021, tập đoàn Công nghiệp Hàng không vũ trụ Hàn Quốc (Korea Aerospace Industries – KAI) giới thiệu nguyên mẫu đầu tiên trong dự án mang tên gọi “KF-X” (KF-21) – chương trình phát triển tiêm kích đa năng thế hệ mới sau thành công của T-50 trị giá 8 tỷ USD; hợp tác cùng chính phủ và quân đội Indonesia. Đây là chương trình phát triển tiêm kích lớn, đắt đỏ nhất trong lịch sử nước này – đặt tham vọng xuất khẩu, cạnh tranh trên thị trường vũ khí với F-35.[186]

Tháng 7 năm 2020, vệ tinh quân sự đầu tiên được phóng thành công vào không gian, đưa Hàn Quốc trở thành quốc gia thứ 10 trong danh sách số ít các nước trên thế giới hiện nay đang sở hữu vệ tinh liên lạc dành riêng cho các mục đích quân sự hoạt động trong vũ trụ.[187]

Liên minh với Hoa Kỳ

 

Liên quân Mỹ – Hàn trong một cuộc tập trận chung

Liên quân Mỹ – Hàn trong một cuộc tập trận chung

 

Các quân nhân Hàn Quốc trực thuộc chương trình KATUSA

Các quân nhân Hàn Quốc trực thuộc chương trình KATUSA

Theo Hiệp định Phòng thủ chung Hàn – Mỹ được ký kết vào năm 1953, quân đội Hoa Kỳ duy trì sự hiện diện, đặt căn cứ quân sự, đưa toàn bộ lãnh thổ Hàn Quốc vào “Ô bảo hộ Hạt Nhân” cùng với NATO, phần lớn châu Âu, Nhật Bản và Úc, hỗ trợ đào tạo nhân lực, đảm bảo an ninh quốc phòng cho đồng minh Hàn Quốc đồng thời, các đơn vị vũ trang trực thuộc Hải quân Hoa Kỳ đóng gần lãnh thổ Hàn Quốc như Hạm đội 7 cũng sẵn sàng tham chiến cùng lực lượng mặt đất trong trường hợp nước này bị xâm lược hoặc tấn công phủ đầu.

Mỗi năm, khoảng 2.000 nam giới Hàn Quốc được chọn ra để phục vụ 21 tháng trong chương trình KATUSA – biểu tượng của quan hệ đồng minh Mỹ-Hàn trên lĩnh vực quân sự, nhằm mục đích nâng cao quan hệ quốc phòng song phương và tăng cường sức mạnh cho lực lượng liên quân Hoa Kỳ – Hàn Quốc (USFK). Đây là chương trình tuyển quân đặc biệt mà Hoa Kỳ chưa từng thiết lập ở bất cứ quốc gia đồng minh nào khác ngoại trừ Hàn Quốc.[188]

Triển khai ở nước ngoài

 

Một binh sĩ Hàn Quốc tại Afghanistan

Một binh sĩ Hàn Quốc tại Afghanistan

 

Các binh sĩ Hàn Quốc thuộc Sư đoàn Zaytun tại Iraq

Các binh sĩ Hàn Quốc thuộc Sư đoàn Zaytun tại Iraq

Hàn Quốc cũng thường gửi quân đội ra nước ngoài để hỗ trợ các lực lượng Mỹ. Quân đội Hàn Quốc tham gia vào hầu hết các cuộc xung đột lớn mà Hoa Kỳ khởi xướng trong vòng hơn 73 năm qua kể từ khi thành lập. Trong quá khứ, Hàn Quốc đã điều động hơn 325.000 binh sĩ tham chiến cùng quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.[189] Năm 2004, Hàn Quốc gửi 3.300 binh sĩ tới Iraq để củng cố cho Sư đoàn Zaytun – trở thành quốc gia có đóng góp lớn thứ ba trong lực lượng sau Mỹ và Anh.[190] Quốc gia này ủng hộ, tham chiến và hỗ trợ tất cả các chiến dịch quân sự của Mỹ cùng NATO vào Somalia, Afghanistan, Iraq, Libya và Syria. Từ năm 2001 đến nay, Hàn Quốc triển khai 24.000 binh sĩ tới Trung Đông để hỗ trợ cuộc chiến chống khủng bố của các lực lượng quốc tế dẫn đầu bởi Mỹ. 1.800 binh sĩ khác cũng được triển khai từ năm 2007 để củng cố cho lực lượng gìn giữ Hòa bình Liên Hợp Quốc nhằm chống lại các âm mưu tấn công khủng bố ở Liban.[191]

Hàn Quốc duy trì mối quan hệ ngoại giao hữu nghị với 191 quốc gia trên toàn cầu.[192] Nước này cũng là nước thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn, trong số đó nổi bật như: Liên Hợp Quốc, WTO, OECD, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) cùng Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), FAO, UNIDO, IAEA, ITU, UNESCAP, ICAO, IEA, Interpol, Câu lạc bộ Paris, Liên minh MIKTA, Ủy ban Đặc biệt phụ trách Hỗ trợ Phát triển và Hợp tác Kinh tế trực thuộc OECD (DAC), Nhóm các nền kinh tế lớn G20, Khối Đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ,… Quốc gia này cũng đồng thời là thành viên sáng lập của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị cấp cao Đông Á, Cộng đồng Đông Á và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),…

 

Quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc

Quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc

  Hàn Quốc

  Quan hệ ngoại giao chính thức

  Không có quan hệ ngoại giao

CHDCND Triều Tiên

 

Khu vực An ninh chung ở Khu phi quân sự liên Triều

 

Chính phủ hai miền gặp mặt tại Nhà Hòa bình liên Triều

 

Đoàn thể thao liên Triều tại Olympic Pyeongchang 2018

 

Nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in gặp nhau ở DMZ năm 2018

 

 

Lãnh đạo, phu nhân hai miền gặp mặt và ký kết Tuyên bố chung Bàn Môn Điếm về hòa bình, thịnh vượng và thống nhất bán đảo Triều Tiên (27/4/2018)

Trong những năm gần đây, tình hình chính trị – quân sự trên bán đảo Triều Tiên luôn được đặt trong trạng thái căng thẳng cao độ, triển vọng hòa bình, ổn định và phi hạt nhân hóa bị đánh giá ở mức độ thấp do xung đột chính trị liên Triều cùng chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Tuy vậy, tái thống nhất với CHDCND Triều Tiên lại đang là một chủ đề chính trị đang được bàn luận rất sôi nổi ở Hàn Quốc hiện nay, thậm chí, người ta còn đã đề cập đến khả năng áp dụng thể chế chính trị “Một quốc gia, hai chế độ” để tái thống nhất bán đảo, chính quyền Hàn Quốc cũng đang có kế hoạch tham vọng lớn tiến đến tới công cuộc tái thống nhất hòa bình với Bắc Triều Tiên trong năm 2045[193], thế nhưng, hiện tại vẫn chưa có bất kỳ hiệp định hoà bình chính thức nào được ký kết, khiến cho đề xuất trên hay các ý kiến khác mới chỉ dừng lại ở mức ý tưởng. Luật an ninh quốc gia Hàn Quốc hiện nay vẫn không cho phép người dân tiếp nhận bất cứ thông tin nào từ phía CHDCND Triều Tiên, những ai bày tỏ thái độ ủng hộ, có các hành động tuyên truyền hoặc phát biểu, diễn thuyết ca ngợi CHDCND Triều Tiên sẽ bị trục xuất khỏi nước này nếu là người nước ngoài[82] hoặc kết án 7 năm tù giam nếu là công dân Hàn Quốc, nếu tự ý tổ chức các chuyến đi du lịch, đến thăm Bắc Triều Tiên mà không được sự cho phép của chính phủ thậm chí hình phạt còn nặng nề hơn – với bản án hình sự có thể lên tới mức 10 năm tù giam.[83][84][85] Tổng thống Roh Moo-hyun đã từng nghĩ tới việc giảm hoặc dỡ bỏ một số điều luật của luật này, nhưng hiện tại ý tưởng đó vẫn chưa được thực thi.

Tháng 6 năm 2000, hai chính phủ đã chính thức gặp gỡ nhau. Với tư cách là một phần trong “chính sách Ánh Dương” của tổng thống Kim Dae-jung, một hội nghị thượng đỉnh liên Triều đã diễn ra tại Bình Nhưỡng, thủ đô của Bắc Triều Tiên. Cuộc gặp gỡ này được xem như là sự thắng lợi của chính sách ánh dương trong việc bình thường hoá quan hệ giữa hai miền Triều Tiên. Cuối năm đó, Kim Dae-jung được nhận giải Nobel Hòa bình. Tuy nhiên, do sự bất bình trong dân chúng đối với các cách tiếp cận không có kết quả với Bắc Triều Tiên dưới các chính quyền trước đó cũng như trong bối cảnh các vụ khiêu khích của Bắc Triều Tiên liên tiếp diễn ra, một chính phủ bảo thủ đã được bầu lên vào năm 2007 do Lee Myung-bak, cựu thị trưởng Seoul làm tổng thống. Cả Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên đều tuyên bố chủ quyền của mình đối với toàn bộ bán đảo và các hòn đảo xa bờ, cả hai cũng đồng thời coi chính quyền của họ là chính quyền hợp pháp duy nhất trên bán đảo Triều Tiên. Những nỗ lực hòa giải giữa hai miền vẫn tiếp tục tiếp diễn kể từ sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Tuy nhiên, tiến trình hòa giải này vẫn còn nhiều phức tạp sau các vụ thử tên lửa đạn đạo của CHDCND Triều Tiên thời trong gian gần đây, khiến cho mối quan hệ giữa hai nước trở nên căng thẳng. Năm 2017, tân tổng thống Moon Jae-in lên nắm quyền, hứa hẹn sẽ đem lại những thay đổi lớn nhằm cải thiện mối quan hệ giữa hai nhà nước. Trong một cuộc khảo sát vào năm 2014, số người Hàn Quốc được hỏi có cái nhìn tích cực về CHDCND Triều Tiên chỉ chiếm 3%, tuy nhiên, theo một cuộc khảo sát khác vào năm 2017 của chính phủ, có tới 56% người Hàn Quốc ủng hộ việc tái thống nhất với miền Bắc.[194][195]

Trong năm 2018, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên đã tổ chức 3 hội nghị thượng đỉnh liên Triều lần lượt vào các tháng 4, tháng 5 và 9. Đặc biệt, vào ngày 27 tháng 4, hai miền dù chưa ký hiệp định hòa bình nhưng đã ra bản Tuyên bố Bàn Môn Điếm, qua đó chấm dứt nội chiến, kết thúc trạng thái xung đột cùng thái độ thù địch để tiến tới kỷ nguyên hòa bình lâu dài, thịnh vượng và tái thống nhất. Hàn Quốc là quốc gia viện trợ nhân đạo nhiều nhất cho Bắc Triều Tiên trong năm 2019.[196]

Nhật Bản

 

Tổng thống Moon Jae-in và cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzō Abe trong chuyến thăm chính thức năm 2018

Tổng thống Moon Jae-in và cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzō Abe trong chuyến thăm chính thức năm 2018

 

Tượng hòa bình, công trình tưởng niệm những người phụ nữ giải khuây của Hàn Quốc ở Seoul

Tượng hòa bình, công trình tưởng niệm những người phụ nữ giải khuây của Hàn Quốc ở Seoul

Mặc dù là hai quốc gia láng giềng và đều là đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ ở khu vực Đông Bắc Á nhưng người dân Hàn Quốc (đặc biệt là các thế hệ trung niên và cao tuổi) đa phần đều có cái nhìn tiêu cực đối với Nhật Bản, nguyên nhân chủ yếu do nước này đã phải chịu sự cai trị của Nhật Bản trong vòng 35 năm (1910-1945) kể từ khi Nhật chiếm bán đảo Triều Tiên. Dù Nhật Bản trao trả độc lập năm 1945 nhưng phải chờ đến tận năm 1965 thì hai nước mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhật Bản hiện đang là đối tác thương mại lớn thứ hai của Hàn Quốc.[197]

Trong thời kỳ Nhật thuộc, hàng trăm nghìn người Triều Tiên đã cộng tác với Nhật để đàn áp những đồng bào đấu tranh đòi độc lập. Ngày nay, sử sách Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc gọi những người này là “Ngụy quân”. Tại Hàn Quốc có hẳn một bộ quy định riêng về những đối tượng này, Trung tâm Sự thật và Công lý Lịch sử Hàn Quốc đã lập ra một danh sách 4.389 người từng cộng tác với Nhật để xét lý lịch đối với con cháu của họ, bản thân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cũng cho rằng: “xóa sạch những dấu tích của việc cộng tác với Nhật Bản là điều nên được thực hiện từ lâu”.[198]

Hàn Quốc và Nhật Bản đã từng đồng tổ chức World Cup 2002. Tuy nhiên, quan hệ hai nước sau đó trở nên căng thẳng vì những tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn đối với đảo Liancourt – nhóm đảo mà Hàn Quốc đã kiểm soát từ tháng 7 năm 1954. Cả Nhật Bản và Hàn Quốc đều coi đây là một phần lãnh thổ không thể tách rời của họ, dẫn đến những tranh cãi gay gắt và hiện vẫn chưa tìm được biện pháp giải quyết.[199][200][201]

Chiến tranh thương mại

 

Banner kêu gọi tẩy chay hàng hóa Nhật Bản tại một nhà hàng Hàn Quốc

Banner kêu gọi tẩy chay hàng hóa Nhật Bản tại một nhà hàng Hàn Quốc

 

Poster kêu gọi tẩy chay hàng hóa Nhật Bản trên tàu điện ngầm Seoul

Poster kêu gọi tẩy chay hàng hóa Nhật Bản trên tàu điện ngầm Seoul

Ngoài ra, Hàn Quốc và Nhật Bản gần đây cũng bắt đầu xảy ra những mâu thuẫn liên quan đến các vấn đề về thương mại song phương và bồi thường hậu quả hậu chiến tranh, bắt nguồn từ việc Toà án Tối cao Hàn Quốc ra bản án buộc các doanh nghiệp lớn của Nhật Bản như Mitsubishi, Nippon Steel và Nachi-Fujikoshi,… phải bồi thường thiệt hại cho những người Hàn Quốc bị ép buộc lao động khổ sai và mua vui cho binh lính Nhật trong thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng bán đảo Triều Tiên.[202][203] Phía Nhật Bản không đồng ý vì cho rằng vấn đề đó đã được giải quyết từ hiệp ước năm 1965; khi nước này tiến hành bình thường hóa mối quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, đồng thời áp đặt lệnh hạn chế xuất khẩu các nguyên vật liệu dùng trong sản xuất các sản phẩm công nghệ cao như Fluorinated Polyamides, Photoresists, Hydrogen Fluoride,… sang thị trường Hàn Quốc và gạch tên nước này khỏi danh sách các quốc gia được hưởng ưu đãi thương mại từ chính phủ Nhật Bản.[204] Hàn Quốc đáp trả bằng các biện pháp tương tự[205], trong đó bao gồm việc tẩy chay hàng hóa Nhật Bản[206], hạn chế xuất khẩu các mặt hàng công nghệ cao như màn hình OLED, chip nhớ, vi mạch và chất bán dẫn,… sang thị trường Nhật Bản[207][208], chấm dứt hiệp định chia sẻ thông tin tình báo quân sự chung đã được ký kết trước đó với nước này[209] – dẫn đến nguy cơ bùng phát một cuộc chiến tranh thương mại mới với tính chất và mức độ rủi ro tương tự như cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung, đáng lo ngại hơn, cuộc chiến này sẽ nổ ra giữa hai nền kinh tế hàng đầu tại châu Á[208], gây gián đoạn chuỗi cung ứng cho các sản phẩm công nghệ cao trên toàn cầu[210] đồng thời đẩy giá thành của các sản phẩm đó lên cao.[211][212] Mặc dù đã có một số cuộc gặp cấp cao được tổ chức, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một cuộc đàm phán song phương chính thức nào để giải quyết dứt điểm vấn đề trên.

Chính sách kiểm duyệt

Do tâm lý bài Nhật kể từ sau khi giành được độc lập, chính phủ Hàn Quốc ban hành và duy trì các đạo luật khắt khe nhằm kiểm duyệt chặt chẽ tất cả những chương trình truyền hình, sản phẩm truyền thông liên quan đến làn sóng Nhật Bản như phim ảnh, trò chơi, âm nhạc, sách báo,… nếu những sản phẩm này muốn được thâm nhập vào thị trường Hàn Quốc. Năm 2003, phim truyền hình và âm nhạc Nhật Bản vẫn bị cấm phát sóng trên truyền hình mặt đất tại Hàn Quốc.[213] Ngày 23 tháng 2 năm 2011, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc Chung Byoung-guk thông báo rằng nước này “có thể xem xét xóa bỏ các lệnh cấm trong tương lai”.[214] Tuy nhiên, đến năm 2014, bài hát tiếng Hàn “Uh-ee” của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Crayon Pop bị đài KBS cấm phát sóng vì có từ tiếng Nhật pikapika trong lời bài hát.[215][216][217] Năm 2018, nhóm nhạc nữ Hàn-Nhật IZ*ONE cho phát hành các bài hát có chứa tiếng Nhật và đã không được phép phát sóng trên truyền hình Hàn Quốc vì nội dung “mang đậm màu sắc Nhật Bản”. Đài Fuji News Network của Nhật Bản nhận xét: “sự ghê tởm đối với văn hóa Nhật Bản tại Hàn Quốc vẫn còn tàn tích rất mạnh mẽ”.[218]

Trung Quốc

 

Các hoạt động của chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân Quốc tại Trung Hoa Dân Quốc trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật

 

Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch và người đồng cấp Hàn Quốc Lý Thừa Vãn trong chuyến thăm chính thức năm 1953

 

Đại diện phái đoàn Hàn Quốc tại Đài Bắc Yang Chang-soo gặp Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn

 

Tổng thống Moon Jae-in cùng phu nhân và Chủ tịch Tập Cận Bình cùng phu nhân trong chuyến thăm chính thức năm 2017

Tổng thống Moon Jae-in cùng phu nhân và Chủ tịch Tập Cận Bình cùng phu nhân trong chuyến thăm chính thức năm 2017

 

Hàn Quốc là một trong những nước tham gia vào Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường của Trung Quốc

Hàn Quốc là một trong những nước tham gia vào Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường của Trung Quốc

Hàn Quốc và Trung Quốc có mối quan hệ sâu rộng, phức tạp và lâu đời. Bước sang thời kỳ hiện đại, quan hệ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hàn Quốc nhìn chung là rất thù địch vào khoảng thời gian trước những năm 1980, khi ấy Trung Quốc đại lục chỉ công nhận chính quyền Bắc Triều Tiên trong khi Hàn Quốc cũng chỉ công nhận chính quyền Trung Hoa Dân Quốc trên đảo Đài Loan. Hàn Quốc trở thành quốc gia châu Á cuối cùng thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 24 tháng 8 năm 1992.[219] Trong những năm gần đây, Trung Quốc và Hàn Quốc đã nỗ lực thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác trong nhiều lĩnh vực, trong đó: đầu tư, chuyển giao công nghệ, thương mại, du lịch và giao lưu văn hóa là những yếu tố quan trọng nhất để tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nhà nước.

Mối quan hệ giữa hai nước đã xấu đi đáng kể vào cuối năm 2016 sau khi quân đội Hàn Quốc tuyên bố ý định sẽ cùng với quân đội Mỹ tiến hành triển khai THAAD (Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối) trên lãnh thổ nước này, một động thái mà chính phủ Trung Quốc phản đối gay gắt.[220] Chính phủ Hàn Quốc và Hoa Kỳ tuyên bố rằng việc triển khai THAAD hoàn toàn là một biện pháp phòng thủ, chỉ nhắm vào Bắc Triều Tiên và không có ý định đe dọa lợi ích an ninh của Trung Quốc, song, chính phủ Trung Quốc lại coi đây là một động thái gây thù địch, đe dọa an ninh cũng như chống lại họ.[221] Chính phủ Trung Quốc ngầm áp đặt một chiến dịch tẩy chay không chính thức đối với hàng hóa Hàn Quốc trong nỗ lực ngăn chặn họ triển khai hệ thống tên lửa. Truyền thông Trung Quốc liên tục đưa tin về việc công dân nước này tẩy chay các sản phẩm có xuất xứ từ từ Hàn Quốc chẳng hạn như xe hơi của Hyundai, Kia, điện thoại di động và các thiết bị, sản phẩm công nghệ của Samsung, LG,… Hàng hóa của Hàn Quốc sau đó bị loại bỏ khỏi kệ hàng siêu thị tại Trung Quốc, nhiều thương hiệu bán lẻ lớn như Lotte, CJ, Shinsegae,… buộc phải đóng cửa hàng loạt các cơ sở kinh doanh hoặc thậm chí rút lui hoàn toàn khỏi thị trường tỷ dân này,[222] trong khi khách du lịch và nhiều công ty du lịch Trung Quốc đồng loạt hủy bỏ các chuyến bay đến Hàn Quốc.[223][224] Tuy nhiên, vào cuối tháng 10 năm 2017, hai nước đã kết thúc cuộc tranh chấp ngoại giao kéo dài gần 1 năm và nhanh chóng nỗ lực để đưa mối quan hệ giữa hai chính phủ trở lại đúng hướng, kể từ đó, tất cả các lệnh hạn chế về thương mại và văn hóa của Trung Quốc đối với Hàn Quốc cũng được dỡ bỏ, cùng với đó là sự hợp tác về chính trị, an ninh, kinh tế và trao đổi văn hóa dần trở lại trạng thái bình thường.[225]

Vào ngày 29 tháng 11 năm 2010, tài liệu mật của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bị rò rỉ bởi Wikileaks đã đề cập đến nội dung của một cuộc trò chuyện giữa hai quan chức Trung Quốc ẩn danh với Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Chun Yung-woo. Trong cuộc trò chuyện này, hai quan chức đã tuyên bố rằng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẵn sàng ủng hộ một bán đảo Triều Tiên thống nhất dưới quyền chính phủ miền Nam, miễn là chính quyền này không thù địch với Trung Quốc.[226]

Một cuộc khảo sát được công bố vào năm 2019 bởi Trung tâm nghiên cứu Pew và Hội đồng các vấn đề toàn cầu Chicago (Mỹ) cho thấy rằng có tới 63% người dân Hàn Quốc giữ quan điểm tiêu cực về Trung Quốc.[227] Sang đến năm 2020, tình hình tiếp tục diễn biến theo hướng tiêu cực, với gần 60% người dân Hàn Quốc xem Trung Quốc (một trong những đối tác thương mại lớn nhất) là ‘đối thủ’, 75% cho biết họ có ‘ác cảm’ đối với người Trung Quốc, 83% không có niềm tin vào Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong việc xử lý các vấn đề khu vực cũng như quốc tế, tỷ lệ có thiện chí với Trung Quốc chỉ ở mức 24%, đồng thời liên tục giảm mạnh qua từng năm – tập trung vào giới trẻ.[228] Cũng trong một cuộc khảo sát khác được báo Dong-a Ilbo thực hiện cùng năm, kết quả cho thấy gần 53% người dân Hàn Quốc nói họ ủng hộ quốc gia tham gia vào nỗ lực chống lại “Bắc Kinh cùng chủ nghĩa bành trướng” của chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden, đặc biệt, với nhóm ở độ tuổi 20 – tỷ lệ này tăng lên mức 66%.[228] Thậm chí, sau sự bùng phát của Đại dịch COVID-19, xu hướng bài Trung Quốc ở quốc gia này hiện nay còn lớn hơn cả Nhật Bản.[229] Bên cạnh đó, hai quốc gia cũng đang tranh chấp chủ quyền của các bãi đá ngầm Socotra, Gageo trên biển Hoàng Hải và xảy ra nhiều tranh cãi xung quanh nguồn gốc của các món ăn nổi tiếng như Kim chi, Samgyetang và Tteokbokki – vốn từ lâu đã được coi là một biểu tượng của đất nước, văn hóa cũng như nền ẩm thực Hàn Quốc.[230][231]

Việt Nam

 

Một biểu ngữ tại Việt Nam kêu gọi phát triển hơn nữa mối quan hệ hữu nghị Việt-Hàn

Một biểu ngữ tại Việt Nam kêu gọi phát triển hơn nữa mối quan hệ hữu nghị Việt-Hàn

 

Park Hang-seo – huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam được coi là người có ảnh hưởng tích cực nhất trong quan hệ Hàn-Việt hiện nay[232]

Park Hang-seo – huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam được coi là người có ảnh hưởng tích cực nhất trong quan hệ Hàn-Việt hiện nay[232]

 

Cầu Vàm Cống, một trong những dự án tiêu biểu ở Việt Nam được hoàn thành với nguồn vốn ODA từ chính phủ Hàn Quốc[233]

Cầu Vàm Cống, một trong những dự án tiêu biểu ở Việt Nam được hoàn thành với nguồn vốn ODA từ chính phủ Hàn Quốc[233]

Tương tự như Trung Quốc, quan hệ giữa Hàn Quốc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 là thù địch, khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đồng minh thân cận với Bắc Triều Tiên còn Hàn Quốc là Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, khác biệt trong quan điểm chính trị kết hợp cùng hàng loạt chính sách bao vây, cấm vận Việt Nam từ phía Hoa Kỳ, quan hệ ngoại giao giữa nhà nước Việt Nam thống nhất và Hàn Quốc tiếp tục bế tắc.

Đầu năm 1980, khi Mỹ bắt đầu nới lỏng các chính sách cấm vận, hàng hoá Việt Nam (chủ yếu là gạo) mới bắt đầu được phép vào thị trường Hàn Quốc. Năm 1990, sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, quan hệ ngoại giao giữa hai nước dần cải thiện. Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc với Việt Nam là ngày 22 tháng 12 năm 1992 và hai quốc gia bắt đầu nâng cấp mối quan hệ lên thành “Đối tác chiến lược” từ năm 2009. Từ năm 2011 đến nay, Hàn Quốc luôn là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, đứng thứ hai về lượng vốn ODA cho Việt Nam sau Nhật Bản. Thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc chiếm hơn 40% tổng quy mô trao đổi thương mại giữa Hàn Quốc với các nước ASEAN khác. Samsung của Hàn Quốc hiện đang là tập đoàn có mức đóng góp nhiều nhất vào tổng giá trị GDP của Việt Nam trong năm 2018 với 28% đồng thời cũng liên tục là doanh nghiệp FDI có quy mô lớn nhất tại quốc gia này, giữ vai trò quan trọng trong giá trị xuất khẩu hàng năm cũng như thị trường lao động.[234][235][236] Bên cạnh đó hiện nay, văn hóa – ngôn ngữ Hàn Quốc (Hàn Quốc học) là ngành học hàng đầu tại Việt Nam, được Bộ Giáo dục Việt Nam đưa vào giảng dạy ở tất cả các cấp bậc trong hệ thống giáo dục[237][238], có tiêu chuẩn đầu vào khắt khe, cạnh tranh nhất đối với bậc đại học[239][240] đồng thời cũng là một trong những chuyên ngành được sinh viên Việt Nam lựa chọn theo đuổi nhiều nhất hiện nay.

Năm 2021, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đạt 70,38 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2020. Hàn Quốc là quốc gia đầu tư trực tiếp lớn thứ hai ở Việt Nam với 7,4 tỷ USD, tăng 85% so với năm 2020. Ước tính có hơn 240.000 người Việt đang sinh sống tại Hàn Quốc và khoảng 200.000 người Hàn sống tại Việt Nam. Chính phủ hai nước cũng đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên mức 100 tỷ USD vào năm 2023 và 150 tỷ USD năm 2030 đồng thời nâng cấp quan hệ từ Đối tác hợp tác chiến lược lên Đối tác chiến lược toàn diện.[241]

Liên minh châu Âu, G7 và NATO

 

Tổng thống Moon Jae-in tại Hội nghị Thượng đỉnh G7 năm 2021

Tổng thống Moon Jae-in tại Hội nghị Thượng đỉnh G7 năm 2021

 

Vị trí của Hàn Quốc (xanh lá) trong hệ thống đối tác toàn cầu của NATO

Vị trí của Hàn Quốc (xanh lá) trong hệ thống đối tác toàn cầu của NATO

Liên minh châu Âu (EU) và Hàn Quốc là những đối tác thương mại quan trọng. Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 9 của EU và EU là điểm đến xuất khẩu lớn thứ 3 của Hàn Quốc.[242]

Hàn Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có với EU đồng thời 3 hiệp định về kinh tế, chính trị và an ninh.[243] EU coi Hàn Quốc là đối tác quan trọng trong chính sách Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của khối đồng thời ủng hộ cải thiện quan hệ liên Triều, thiết lập nền hòa bình lâu dài, tiến tới phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.[244] Bên cạnh đó, hai bên cũng thúc đẩy hợp tác nhằm cùng nhau tăng cường an ninh hàng hải ở vịnh Guinea cũng như khu vực Sừng châu Phi, sẵn sàng đối phó với những mối đe dọa đến từ nạn cướp biển.[245]

Bên cạnh EU, Hàn Quốc còn là khách mời thường trực trong các hội nghị thượng đỉnh chính thức cũng như bên lề của G7, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump từng ủng hộ việc đưa Hàn Quốc trở thành một thành viên của nhóm. Tuy nhiên, quan điểm này vấp phải sự phản đối của Nhật Bản do mâu thuẫn ngoại giao Nhật-Hàn cùng chính sách thân Trung Quốc của chính quyền Tổng thống Moon Jae-in.[246]

Hàn Quốc là một trong những đối tác toàn cầu của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).

Nga

 

Tổng thống Moon Jae-in phát biểu trước Duma Quốc gia Nga

Tổng thống Moon Jae-in phát biểu trước Duma Quốc gia Nga

Bên cạnh quan hệ ngoại giao hữu nghị cơ bản, Hàn Quốc và Nga cùng tham gia Đàm phán Sáu bên về vấn đề tên lửa – hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Ngoài ra, Hàn Quốc là một trong những khách hàng mua khí đốt lớn của Nga[247] đồng thời giữa hai nước có nhiều hợp tác thương mại song phương trên nhiều lĩnh vực[248] đặc biệt là quân sự – quốc phòng.[249] Hiện nay, Hàn Quốc và Nga đang đàm phán về việc mở lại một đường ống dẫn khí đốt tự nhiên từ Nga chạy xuyên qua bán đảo Triều Tiên.[250][247] Vào tháng 6 năm 2018, Moon Jae-in trở thành nhà lãnh đạo Hàn Quốc đầu tiên phát biểu trước Quốc hội Nga[251] và tới ngày 22 tháng 6 cùng năm, Tổng thống Hàn Quốc đã cùng với người đồng cấp Nga Vladimir Putin chính thức ký kết văn kiện thành lập một khu vực thương mại tự do.[252]

Hoa Kỳ

 

Tổng thống Moon Jae-in và Tổng thống Joe Biden trong chuyến thăm chính thức (21/5/2021)

Tổng thống Moon Jae-in và Tổng thống Joe Biden trong chuyến thăm chính thức (21/5/2021)

Mối quan hệ chặt chẽ giữa hai quốc gia được bắt đầu từ ngay khi kết thúc Thế chiến 2, sau khi Nhật Bản đầu hàng và trao trả độc lập cho bán đảo Triều Tiên. Theo quyết định của Hội nghị Yalta, Hoa Kỳ tạm thời tiếp quản miền Nam bán đảo trong vòng 3 năm, trong khi Liên Xô tiếp quản miền Bắc. Năm 1948, với sự ủng hộ của Mỹ, Lý Thừa Vãn thành lập nhà nước Đại Hàn Dân Quốc. Khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, quân đội Hoa Kỳ cùng Liên Hợp Quốc đã được gửi đến kịp thời để giúp đỡ nhà nước cùng quân đội Hàn Quốc chống lại các cuộc tấn công từ phía Bắc Triều Tiên. Sự tham chiến của Hoa Kỳ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc ngăn chặn thất bại của quân đội Hàn Quốc non trẻ trước sức tấn công từ phía quân đội Bắc Triều Tiên được Liên Xô hậu thuẫn. Sau chiến tranh, Hoa Kỳ và Hàn Quốc thành lập liên minh quân sự chung, ký kết Hiệp ước Phòng thủ chung. Ngày nay, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục duy trì số lượng lớn binh sĩ cùng các căn cứ quân sự tại Hàn Quốc, Hạm đội 7 trực thuộc Hải quân Hoa Kỳ phụ trách việc đảm bảo an ninh quốc phòng cho Hàn Quốc. Ngoài ra, lực lượng này cũng sẵn sàng tham chiến nếu xảy ra xung đột vũ trang hoặc đồng minh Hàn Quốc bị tấn công xâm lược. Tại hội nghị thượng đỉnh G20 năm 2009, Tổng thống Barack Obama trong tuyên bố của mình đã nhấn mạnh rằng:[36]

Hàn Quốc là một trong những đồng minh thân cận nhất và cũng là một trong những người bạn tuyệt vời nhất của Hoa Kỳ.

Hàn Quốc là một trong những nước đồng minh không thuộc NATO quan trọng của Hoa Kỳ. Lãnh thổ Hàn Quốc hiện nay cũng đang nằm dưới “Ô bảo vệ Hạt Nhân” của Hoa Kỳ cùng với khối NATO, phần lớn châu Âu, Nhật Bản và Úc.

Mặc dù Hàn Quốc và Mỹ duy trì mối quan hệ đồng minh thân cận trong phần lớn các đời tổng thống, tuy nhiên, dưới thời Tổng thống Donald Trump, mối quan hệ này bị rạn nứt do chính phủ hai nước xảy ra nhiều bất đồng, tranh cãi xung quanh việc chi trả chi phí hoạt động cho các lực lượng quân đội Mỹ đồn trú tại Hàn Quốc.[253][254] Nhiều cuộc đàm phán song phương cấp cao đã được tiến hành, một số thỏa thuận đã được thông qua[255][256], tuy nhiên; giữa hai quốc gia vẫn chưa thể tìm được tiếng nói chung.[257] Hiện nay, sau thời kỳ cầm quyền của ông Trump, Tổng thống kế nhiệm Joe Biden và chính quyền Seoul đã xử lý thành công vấn đề trên, qua đó, Hàn Quốc đồng ý đóng góp 1,03 tỷ USD cho các lực lượng Mỹ đồn trú tại nước này.[258] Bên cạnh đó, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cũng đang yêu cầu phía Mỹ tiến hành chuyển giao toàn bộ quyền chỉ huy quân đội trong thời chiến cho các tướng lĩnh người Hàn.[259]

 

Nam nữ Hàn Quốc trong trang phục truyền thống Hanbok

Nam nữ Hàn Quốc trong trang phục truyền thống Hanbok

Vào tháng 4 năm 2016, dân số Hàn Quốc được Văn phòng Thống kê Quốc gia ước tính là 50,8 triệu người, với số lượng ở trong độ tuổi lao động và tổng tỷ suất sinh tiếp tục có xu hướng suy giảm.[260] Hàn Quốc có mật độ dân số rất cao – lên tới 505 người/km² năm 2015, nhiều hơn 10 lần so với mức trung bình toàn cầu. Hầu hết người Hàn Quốc sống ở thành thị do quá trình di cư ồ ạt khỏi các vùng nông thôn trong quá trình mở rộng kinh tế nhanh chóng của đất nước vào những năm 1970, 1980 và 1990.[261]

Theo tổng điều tra dân số năm 2019, đại đô thị Seoul có 25,3 triệu cư dân – trở thành khu vực đô thị lớn thứ 4 thế giới theo quy mô dân số.[147] Các thành phố lớn khác bao gồm có: Busan (3,5 triệu), Incheon (3 triệu), Daegu (2,5 triệu), Daejeon (1,4 triệu), Gwangju (1,4 triệu) và Ulsan (1,1 triệu).[262][263] Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Hàn Quốc cùng với Nhật Bản là hai quốc gia sớm phục hồi do đó; một lượng lớn lao động từ các nước đang phát triển đã đổ về đây để tìm kiếm việc làm. Một bộ phận không nhỏ người nước ngoài cũng đang sinh sống, học tập, làm việc tại Hàn Quốc, họ tập trung tại những khu vực kinh doanh năng động nhất của Seoul, chẳng hạn như Itaewon, nơi đây có những khu “Làng Liên Hợp Quốc” bên cạnh rất nhiều các đại sứ quán cùng công ty nước ngoài.

Trong thành phần dân cư của Hàn Quốc thì người Hàn-Triều Tiên chiếm đa số với gần 99%[16], đây là một quốc gia dân tộc đồng nhất, nhóm thiểu số duy nhất là một bộ phận nhỏ người gốc Hoa và gốc Nhật. Hộ chiếu Hàn Quốc nằm trong nhóm quyền lực nhất thế giới cùng Nhật Bản, Singapore,[264] hiện đang giữ hạng 2 (2021)[265] và có những thời điểm vươn lên số 1 toàn cầu.[266]

Tình trạng già hóa dân số

Tỷ lệ sinh của Hàn Quốc là thấp nhất thế giới trong năm 2009.[267] Nếu tỷ lệ này tiếp tục được duy trì, dân số của Hàn Quốc dự kiến sẽ giảm 13% xuống còn 42,3 triệu người vào năm 2050.[268] Tỷ lệ sinh trung bình hàng năm của Hàn Quốc là khoảng 9 ca sinh trên 1000 người.[269][270] Tuy nhiên, tỷ lệ sinh đã tăng 5,7% kể từ năm 2010 và Hàn Quốc không còn là quốc gia có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới nữa.[271] Theo công bố năm 2011 từ báo Chosun Ilbo, tổng tỷ suất sinh của Hàn Quốc (1,23 trẻ em sinh ra trên mỗi phụ nữ) cao hơn so với Đài Loan (1,15) và Nhật Bản (1,21).[272] Tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc trong năm 2008 là 79,10 tuổi (đứng thứ 34 trên thế giới)[273] nhưng đến năm 2015 đã tăng lên 81 tuổi.[274] Hàn Quốc là nước có sự sụt giảm mạnh nhất về dân số ở độ tuổi lao động trong số các quốc gia thuộc OECD.[275][276][277] Năm 2015, Cục Thống kê Quốc gia ước tính rằng dân số đất nước sẽ đạt đến đỉnh điểm vào năm 2035.[260]

Hiện nay, trước áp lực của cuộc sống hiện đại, ngày càng nhiều người trẻ Hàn Quốc ở độ tuổi 20-30 chọn cách sống độc thân, không con cái, dẫn đến nhiều hệ quả kinh tế – xã hội; đặc biệt là sự lão hoá dân số đi kèm cùng sụt giảm lao động trẻ tuổi. Họ được gọi là “Thế hệ Sampo” và thường bị chỉ trích là ích kỷ.[278]

Lý do để trở thành Thế hệ Sampo[279]

%
Không có tiền tiết kiệm

53.5
Áp lực cuộc sống cao dù cho có nhiều tiền

42.1
Khó kiếm việc làm

33.1
Thu nhập sau thuế thấp

32.1
Nợ cá nhân cao

16.8

Vấn nạn “hôn nhân mua bán”

Trong những năm gần đây, với tỷ lệ chênh lệch giới tính, bất bình đẳng giai cấp xã hội, chi phí sinh hoạt, nuôi dạy con cái ngày một tăng cao kết hợp cùng xu hướng muốn theo đuổi lối sống độc thân, tự do, tự chủ của nữ giới[280] đã dẫn đến hệ quả là ngày càng có nhiều nam giới Hàn Quốc (phần lớn sống ở khu vực nông thôn hoặc có thu nhập cá nhân ở mức thấp[46]) gặp khó khăn, không muốn hoặc không thể lấy được vợ. Tình trạng dần trở nên nghiêm trọng đến nỗi chính phủ Hàn Quốc phải vào cuộc nghiên cứu, đề xuất giải pháp “giải cứu” cho những người này, qua đó; họ sẽ được chính quyền địa phương hỗ trợ một khoản chi phí để sang “mua vợ” tại các nước đang phát triển[281][282], những quốc gia có con người, văn hóa, phong tục tập quán gần gũi với Hàn Quốc đặc biệt như Trung Quốc[283] và Việt Nam (nhóm cộng đồng chiếm số lượng đông đảo nhất)[284][285][286], Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar, Uzbekistan hay Philippines,… thường được họ ưu tiên lựa chọn để tiến hành các cuộc “hôn nhân mua bán”. Mặc dù bước đầu cơ bản giải quyết được vấn đề xã hội và ổn định dân số, thế nhưng, nhiều trong số các cuộc hôn nhân kể trên thường đem lại những hệ lụy đáng tiếc do sự khác biệt văn hóa, lối sống, bất đồng ngôn ngữ cùng thái độ kỳ thị con lai, tư tưởng “trọng nam” của nam giới, những người bảo thủ theo chủ nghĩa thuần huyết Triều Tiên cũng như văn hóa gia đình Hàn Quốc, đồng thời góp phần khiến cho tỷ lệ dân nhập cư và số lượng các gia đình đa chủng tộc tại đất nước này đang ngày một tăng cao.[287][288]

Quá trình di dân

 

Phố người Hàn tại Manhattan, Mỹ

Phố người Hàn tại Manhattan, Mỹ

Ngược lại cũng có rất nhiều người Hàn Quốc – Bắc Triều Tiên hiện đang sinh sống, học tập, làm việc tại nước ngoài, ví dụ như Trung Quốc và các nước Trung Á (nguyên nhân bắt nguồn từ việc nhà độc tài Liên Xô cũ Stalin đã đưa hàng ngàn người Triều Tiên tới đó sau chiến tranh thế giới thứ nhất, đầu chiến tranh thế giới thứ hai. Đặc biệt, chính tại Hàn Quốc lại là nơi có đông đảo nhất cộng đồng người đào tẩu Bắc Triều Tiên sinh sống). Trong thời kỳ bị Nhật Bản đô hộ, một số lượng lớn người Hàn-Triều Tiên đã di cư sang Nhật, hình thành nên một cộng đồng cư dân mới ở đây. Sau Thế chiến 2, sự bất ổn chính trị, xã hội và kinh tế trong nước đã dẫn tới việc một số người Hàn Quốc di cư sang châu Âu, Nhật Bản, Canada, Nga và Hoa Kỳ. Sau năm 1992, khi tình hình chính trị trong nước dần ổn định trở lại, nhiều người đã quay trở về quê hương và mang cho mình hai quốc tịch.

Áp lực cuộc sống và nạn tự sát

Xã hội Hàn Quốc hiện đại tạo nên những áp lực rất lớn trong cuộc sống, từ học tập, thi cử, tìm kiếm – làm việc[289], cho tới kết hôn, sinh – nuôi dạy con cái,…[290][291] Do các áp lực này, tỷ lệ tự sát tại Hàn Quốc cũng luôn thuộc mức rất cao trên thế giới. Năm 2012, tỷ lệ tự sát tại Hàn Quốc là 28,9 vụ/100.000 dân, cao hơn nhiều so với mức 12,1 vụ của Mỹ, 7,8 vụ của Trung Quốc và cao hơn 2,5 lần so với mức trung bình trên toàn cầu. Áp lực cuộc sống cao dẫn tới nhiều chứng bệnh nguy hiểm như trầm cảm, căng thẳng tâm lý, rối loạn lo âu và tự sát là nguyên nhân số một trong những ca tử vong của thanh thiếu niên (từ 15 tới 30 tuổi).[292][293][294]

Hiện nay, nhiều người cao tuổi Hàn Quốc phải làm các công việc chân tay nặng nhọc[295], vào tù do phạm pháp[296][297] hoặc qua đời trong cô độc[298], đây là một trong những tồn tại nhức nhối của xã hội mà chính phủ Hàn Quốc vẫn đang loay hoay tìm cách giải quyết. Những biến động ở Hàn Quốc vốn đã bắt đầu nhen nhóm kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1997 tàn phá nền kinh tế đồng thời làm nhiều người mất việc và điều này khiến cho họ bị tụt lại trong sự cạnh tranh gay gắt của xã hội. Nhiều người cao tuổi không có tiền tiết kiệm khi về hưu, họ gặp khó khăn nghiêm trọng về tài chính trong khi con cái cùng những thế hệ kế cận lại không đủ khả năng chu cấp cho cha mẹ, kết hợp với tâm lý không muốn bản thân trở thành gánh nặng cho con cháu vốn đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều thế hệ người cao tuổi Hàn Quốc đã khiến cho vấn đề trên ngày càng trở nên trầm trọng.[295] Trợ cấp xã hội dành cho những người ngoài độ tuổi 50 chỉ ở mức tương đối thấp. Chỉ số Hưu trí toàn cầu Mercer Melbourne 2015 xếp hạng Hàn Quốc đứng thứ 24 trong 25 quốc gia có nền kinh tế lớn, chỉ cao hơn Ấn Độ. Năm 2014, chỉ 45% người Hàn Quốc trong độ tuổi từ 55 đến 79 có lương hưu và chi tiêu trung bình hàng tháng của họ là 431 USD, bằng 82% mức chi phí sinh hoạt tối thiểu cho một người trẻ tuổi. Khoảng 30% người cao tuổi có thu nhập hàng tháng dưới mức ‘nghèo tuyệt đối’ – theo quy chuẩn của chính phủ Hàn Quốc. Cứ 4 người cao tuổi Hàn Quốc lại có một người mắc chứng trầm cảm, tỷ lệ tự sát của nhóm người cao tuổi cao gấp đôi so với mức trung bình cả nước và được dự báo sẽ còn tiếp tục gia tăng.[295]

Hàn Quốc là nước xếp cao nhất trong các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và liên tục có số vụ tự sát thuộc hàng đầu trong các nước phát triển. Nhà ga tàu điện ngầm ở Seoul đã phải dựng hàng rào chắn để ngăn chặn những người mắc bệnh trầm cảm có thể nhảy xuống bất kỳ lúc nào khi tàu đến và toàn bộ 8 cây cầu trong thành phố đều được lắp đặt dày đặc các hệ thống camera CCTV nhằm phát hiện nhanh người có ý định tự sát. Quốc gia này là nơi thường xuyên xảy ra các vụ tự tử của sinh viên, ca sĩ, người mẫu, diễn viên, vận động viên thể thao hay chính trị gia nổi tiếng.

Theo các chuyên gia về tâm thần học tại Đại học Quốc gia Seoul và cũng là thành viên của Hiệp hội ngăn chặn tự sát, tự sát tập thể khá phổ biến ở Hàn Quốc và đang có xu hướng gia tăng – đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997).[302] Năm 2011, trước tình hình trên, một số người đứng ra tổ chức những khoá học chết thử với lý do “trải nghiệm cảm giác sắp chết sẽ mang lại ý nghĩa về sự sống cho tất cả mọi người, bất kể họ già hay trẻ”. Mục đích của chương trình này là muốn người tham gia “nghĩ về cuộc sống và tận hưởng nó một cách có ý nghĩa hơn” thay vì tìm đến cái chết.[303]

Ở các gia đình Hàn Quốc có hai vợ chồng cùng đi làm, đàn ông chỉ dành khoảng 40 phút làm việc nhà hoặc trông con, ít hơn rất nhiều so với mức trung bình 3 giờ/ngày của phụ nữ. Theo thống kê, số giờ làm việc trung bình của một người Hàn Quốc là 2.113 giờ/năm, đứng thứ hai trong số các quốc gia thành viên OECD và chỉ xếp sau Mexico.[304] Không dừng lại ở đó, nhiều cuộc khảo sát khác gần đây còn cho thấy thực tế tệ hơn đang diễn ra và xu hướng giống như Nhật Bản – nơi thường xuyên có người lao động chết hoặc tự kết liễu bản thân do lao lực, căng thẳng tâm lý hoặc kiệt sức trong công việc. “Gwarosa” – thuật ngữ dùng để phản ánh tình trạng trên ở Hàn Quốc cũng bắt nguồn từ thuật ngữ “Karōshi” – với ý nghĩa tương tự của Nhật Bản.[305]

Hàn Quốc đã thực hiện Chiến lược ngăn ngừa tự tử (STOPS) nhằm tăng cường nhận thức của cộng đồng kết hợp cùng với sự hỗ trợ từ phía chính phủ trong công tác phòng chống và ngăn chặn tự sát.[306] Những biện pháp này đem lại hiệu quả tích cực, kể từ năm 2010, tỷ lệ tự tử ở Hàn Quốc bắt đầu giảm mạnh. Bên cạnh đó, việc cấm lưu hành thuốc diệt cỏ Paraquat được coi là chìa khóa trong việc giảm tỷ lệ tự sát ở nơi đây. Từ năm 2011 đến 2015, tỷ lệ tử vong do tự tử ở Hàn Quốc đã giảm gần 15%. Ông Moon Jae-in – Tổng thống nhậm chức năm 2018, cam kết sẽ tiếp tục hạ thấp tỷ lệ tự tử xuống còn 20 vụ trên 100.000 người vào năm 2020.[307]

Tôn giáo

 

Đạo Cơ Đốc là tôn giáo lớn nhất tại Hàn Quốc khi số lượng tín đồ chiếm tới gần 1/3 dân số[308]

Đạo Cơ Đốc là tôn giáo lớn nhất tại Hàn Quốc khi số lượng tín đồ chiếm tới gần 1/3 dân số[308]

Tôn giáo tại Hàn Quốc (2015)[5]

  Không tôn giáo (56.1%)

  Tin Lành (19.7%)

  Phật giáo (15.5%)

  Công giáo Rôma (7.9%)

  Khác (0.8%)

Theo số liệu thống kê đến năm 2015 do chính phủ Hàn Quốc cung cấp, có khoảng 56,1% công dân cho biết họ theo chủ nghĩa vô thần – tức không đặt niềm tin hay tuân theo bất kỳ một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Người theo đạo Cơ đốc hoặc Kitô giáo chiếm 27,6% dân số. Trong đó, Tin Lành chiếm 19,7%, Công giáo là 7,9% và 15,5% là Phật tử, 0,8% còn lại theo các tôn giáo thiểu số khác như Đạo giáo, Vu giáo hay Shaman giáo.[309]

Hàn Quốc cũng có khoảng 40.000 người bản địa theo Hồi giáo, chiếm 0,09% dân số (chưa kể nhóm lao động nước ngoài tới từ các quốc gia theo đạo Hồi).[310]

Nhiều người Hàn Quốc không đặt nặng vấn đề tôn giáo, họ tổ chức ngày lễ của nhiều tôn giáo khác nhau. Việc pha trộn tôn giáo này từng vấp phải sự phản đối kịch liệt của các tín đồ Nhân chứng Giê-hô-va; tuy nhiên, những nghi lễ cổ truyền vẫn đang được duy trì. Các giá trị của đạo Khổng (Nho giáo) hiện vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường nhật của người dân nơi đây.

Người dân Hàn Quốc được hưởng tự do tôn giáo ở mức độ cao, tuy nhiên, những vấn nạn, bê bối liên quan đến các giáo phái cuồng giáo luôn luôn là một trong những vấn đề gây nhức nhối, ám ảnh trong xã hội.[311]

Thành tựu

 

Tuổi thọ người dân của Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên (1908-2019)

Tuổi thọ người dân của Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên (1908-2019)

Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất trên thế giới với 3,03%.[312][313] Quốc gia này đứng thứ 4 châu Á sau Singapore, Nhật Bản và Hồng Kông, giữ hạng 9 toàn cầu về tuổi thọ trung bình của người dân (đồng hạng với Israel).[314] Tỷ lệ tội phạm giết người có chủ đích trong phạm vi lãnh thổ Hàn Quốc năm 2018 là 0.60% – mức rất thấp theo nghiên cứu và công bố của Văn phòng Liên Hợp Quốc về chống Ma túy và Tội phạm.[315][316] Chỉ số khủng bố bằng 0 (không có khủng bố)[317], chỉ số phát triển con người đạt mức rất cao[20] đồng thời gần như không có người mù chữ với tỷ lệ biết chữ đạt 99% dân số năm 2020.[318]

Theo Báo cáo Hạnh phúc toàn cầu năm 2019 của Liên Hợp Quốc, Hàn Quốc là quốc gia hạnh phúc thứ 54 trên thế giới.[319] Năm 2020, đất nước này đứng thứ 2 châu Á (sau Nhật Bản), hạng 17 thế giới về chỉ số tiến bộ xã hội.[28][29][30]

 

Hệ thống giáo dục Hàn Quốc

 

Trụ sở Bộ Giáo dục Hàn Quốc

 

Bữa trưa cơ bản của học sinh Hàn Quốc

… Nếu ngủ 3 tiếng mỗi đêm, bạn có thể mơ tới việc thành một phần của S.K.Y. Nếu ngủ 4 tiếng, bạn có thể thi đỗ vào trường đại học khác. Còn nếu ngủ 5 tiếng hoặc hơn, nhất là trong năm cuối cấp, thì hãy quên ngay ý định bước chân vào cổng trường đại học…

Cuộc chiến thi đại học Hàn Quốc, Pháp luật và bạn đọc – Báo điện tử Sức khỏe & Đời sống, 17 tháng 9 năm 2020[320]

 

Bản đồ các khu vực của Hàn Quốc theo chỉ số phát triển con người năm 2017

Bản đồ các khu vực của Hàn Quốc theo chỉ số phát triển con người năm 2017

Hệ thống giáo dục ở Hàn Quốc bao gồm 6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở và 3 năm trung học phổ thông. Học sinh ở cả 3 cấp đều được miễn học phí.[321] Chương trình đánh giá học sinh quốc tế do OECD khởi xướng và chỉ đạo xếp hạng giáo dục khoa học của Hàn Quốc đứng thứ 3 trên thế giới và luôn cao hơn mức trung bình của OECD.[322][323]

Năm 2015, chính phủ Hàn Quốc chi ra 5,1% GDP cho giáo dục, cao hơn 0,8% so với mức trung bình của OECD (4,3%). Giáo dục là chìa khóa giúp cho đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên này từ một vùng đất hoang tàn do chiến tranh có thể nhanh chóng phát triển thịnh vượng trong suốt hơn 60 năm qua nhưng đồng thời cũng tồn tại nhiều mặt tối.[324][325] Năm 2020, Hàn Quốc chi 4,81% GDP cho nghiên cứu và phát triển, tỷ lệ này cao thứ 2 thế giới sau Israel (4,95%).[326][327]

Một năm học ở Hàn Quốc được chia thành 2 học kỳ, kỳ đầu tiên bắt đầu vào đầu tháng 3 và kết thúc vào giữa tháng 7, kỳ thứ hai bắt đầu vào cuối tháng 8 và kết thúc vào giữa tháng 2. Các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Hàn Quốc đều yêu cầu học sinh mặc đồng phục.

Hàn Quốc đứng thứ 9 thế giới cũng như hạng 4 châu Á về năng lực Anh ngữ năm 2020 theo công bố của tổ chức giáo dục quốc tế EF.[328] Quốc gia này là một trong những nước có bình quân trình độ học vấn cao nhất thế giới.[329] Năm 2014, Hàn Quốc xếp thứ 2 thế giới sau Singapore trong bảng xếp hạng Toán học và Khoa học của sinh viên do OECD công bố.[330]

Xã hội Hàn Quốc nổi tiếng với quan điểm chạy đua trong giáo dục.[331] Mặc dù học sinh và sinh viên Hàn Quốc thường được xếp hạng cao trong các bảng xếp hạng quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục vẫn bị lên án vì tập trung vào việc học thụ động cũng như học thuộc lòng. Giống như Trung Quốc hay Nhật Bản, hệ thống giáo dục Hàn Quốc khắt khe, cạnh tranh và rập khuôn hơn hầu hết các nước phương Tây. Đặc điểm nổi bật nhất của giáo dục ở Hàn Quốc là sự cạnh tranh khốc liệt. Cuộc đua đến với các trường đại học hàng đầu sớm được khởi tranh ngay từ khi học sinh bắt đầu học mẫu giáo, khi lên các cấp học cao hơn, trường tiểu học và trung học giống như một đấu trường để tranh giành thành tích, điểm số. Học sinh Hàn Quốc học trung bình 16 tiếng/ngày, thường ăn tối ở trường và vẫn phải chịu những hình phạt thể xác nếu học tập không tốt. Giáo dục Hàn Quốc lấy thi cử làm trung tâm, người Hàn Quốc coi việc thi đỗ và tốt nghiệp từ một trong những trường đại học thuộc top đầu (nhóm SKY) là mục tiêu cao nhất. Những người không đạt được giáo dục đại học phải đối mặt với nhiều định kiến và thường bị coi là “công dân hạng hai”, dẫn đến triển vọng công việc, hôn nhân thấp cũng như khó lòng cải thiện địa vị xã hội.[332] Kỳ thi tuyển sinh đại học hay Suneung là cánh cửa duy nhất dẫn tới điều đó. Khi Suneung diễn ra, học sinh thi liên tục 8 tiếng/ngày, cùng thời gian đó, quân đội dừng tập trận, phương tiện giao thông bị cấm bấm còi, hạn chế di chuyển vào những tuyến đường xung quanh địa điểm thi, các văn phòng, công sở bắt đầu vào làm muộn hơn thường nhật, lực lượng cảnh sát, y tế, cứu hỏa, bảo vệ,… túc trực toàn thời gian, sẵn sàng trợ giúp thí sinh khi xảy ra sự cố, máy bay dân sự tạm dừng cất-hạ cánh trong thời gian diễn ra phần thi nghe của môn tiếng Anh, các địa điểm tôn giáo như chùa, nhà thờ,… mở cửa nhiều ngày liền để phục vụ nhu cầu tâm linh của phụ huynh. Ngoài ra, việc thành lập các trường tư thục độc lập với học phí cao (Hagwon) cũng bị các bậc cha mẹ Hàn Quốc lên án như một vấn đề nhức nhối của xã hội.[325][333]

Hàn Quốc có hơn 80% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông tiếp tục thi đỗ vào các trường đại học[334], là một trong những quốc gia có chỉ số sáng tạo cao nhất thế giới.[335][336][337][338] Năm 2017, Hàn Quốc đứng thứ 5 thế giới về tỷ lệ công dân từ 25 đến 64 tuổi hoàn thành giáo dục đại học với 47,7%. Ngoài ra, 69,8% người Hàn Quốc ở độ tuổi 25-34 cũng đã hoàn thành xong chương trình giáo dục đại học, đây là tỷ lệ cao nhất trong OECD.[339][340][341]

Hàn Quốc thường tự hào với nền công nghiệp giáo dục của mình, nhưng rồi đất nước này lại đi quá trớn với số sinh viên tốt nghiệp quá nhiều khiến cho tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Giáo dục trở thành một cổng chi tiêu tài chính làm tê liệt nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á. Việc học thêm và luyện thi đại học gây nợ nần cho các gia đình nhiều hơn 3% GDP.[43] Chính phủ Hàn Quốc đã đưa việc giảm thất nghiệp vào danh sách mục tiêu được ưu tiên hàng đầu đồng thời tăng cường đầu tư vào các chương trình công cộng. OECD cũng kêu gọi Hàn Quốc tham gia hiệu quả hơn vào công tác đào tạo, nâng cao trình độ dạy nghề vì nước này đang quá tập trung vào nhóm cử nhân tốt nghiệp từ các trường đại học khiến cho tỷ lệ cạnh tranh việc làm tại đô thị tăng cao, vùng nông thôn bị người lao động rời bỏ dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân lực trẻ trong lĩnh vực thủ công, gây ra một làn sóng công nhân nhập cư với tay nghề, kỹ năng thấp.[342]

Năm 2017, thống kê có khoảng 123.000 sinh viên quốc tế đang theo học tại các trường đại học của Hàn Quốc. Trong số đó, hơn một nửa đến từ Trung Quốc. Theo Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ nước này, học bổng cho sinh viên nước ngoài tới Hàn Quốc du học sẽ tăng mạnh qua từng năm và số lượng sinh viên quốc tế dự kiến sẽ tăng lên hơn 200.000 vào năm 2023.[343]

 

Trụ sở Bộ Y tế và Phúc lợi Hàn Quốc

Trụ sở Bộ Y tế và Phúc lợi Hàn Quốc

 

Hàn Quốc nằm trong nhóm những quốc gia đã và đang duy trì chế độ bảo hiểm y tế toàn dân

Hàn Quốc nằm trong nhóm những quốc gia đã và đang duy trì chế độ bảo hiểm y tế toàn dân

Hàn Quốc thực hiện một hệ thống bảo hiểm sức khỏe trong đó một người thanh toán một số tiền phí bảo hiểm hàng tháng nhất định tùy theo mức thu nhập và tài sản của họ. Nếu tham gia bảo hiểm y tế thì khi ốm đau hoặc thai sản sẽ tiết kiệm được một khoản tiền không nhỏ đến từ chi phí y tế, khám chữa bệnh và dịch vụ kèm theo,… Mặt khác, bản thân họ còn được kiểm tra sức khỏe định kỳ. Tất cả mọi người đều phải tham gia bảo hiểm y tế, ngoại trừ những người đã được hưởng trợ cấp y tế. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế được chia làm 2 nhóm là đối tượng tham gia bảo hiểm theo doanh nghiệp và đối tượng tham gia bảo hiểm theo khu vực. Tất cả công dân, người lao động, công nhân, nhân viên, công chức của doanh nghiệp và giáo viên đều được gọi là đối tượng tham gia bảo hiểm doanh nghiệp. Theo quy định gia nhập bảo hiểm doanh nghiệp, trong trường hợp là người duy trì đời sống chính trong gia đình và có đầy đủ điều kiện thu nhập cùng điều kiện phụng dưỡng phù hợp với quy định được ghi trong quy tắc thi hành luật bảo hiểm sức khỏe thì sẽ có thể đăng ký vào bảo hiểm doanh nghiệp bảo trợ người thân. Trong trường hợp có thu nhập riêng ngoài phần tiền lương thì sau khi trừ một khoản tiền từ tổng thu nhập ra theo quy định, bản thân người đó phải chi trả toàn bộ 100% tỷ lệ phí bảo hiểm được áp dụng.[344][345]

Người tham gia bảo hiểm sức khỏe khi nhận sự trị liệu tại bệnh viện thì một phần trong lệ phí trị liệu sẽ do Công đoàn bảo hiểm sức khỏe quốc dân chi trả. Ngoài ra, chương trình y tế quốc gia chi trả tối đa 60% cho mỗi hóa đơn y tế.[346] Bên cạnh đó, họ còn nhận được ưu đãi trong việc khám bệnh, kiểm tra sức khỏe, tùy theo độ tuổi mà có sự khác nhau nhưng thường là hai năm một lần.[347]

Kinh tế Hàn Quốc bao gồm các đặc điểm nổi bật như hỗn hợp, cạnh tranh, tự do cao, ít có sự can thiệp của chính phủ và phát triển. Hiện nay, Hàn Quốc được xếp vào nhóm quốc gia phát triển trên thế giới.[348][349] Nền kinh tế Hàn Quốc được các nhà kinh tế học coi là một ví dụ tiêu biểu về lợi ích của chủ nghĩa tư bản tự vận hành.[350][351][352]

Kinh tế Hàn Quốc là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới từ đầu những năm 1960 cho đến cuối những năm 1990 và vẫn tiếp tục tăng trưởng đều đặn trong thập niên 2000. Từ năm 1980 đến 1990, quốc gia này ghi nhận mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người nhanh nhất thế giới.[353][354]

Nền kinh tế Hàn Quốc chịu sự ảnh hưởng cũng như chi phối lớn bởi các tập đoàn tài phiệt do những gia tộc đại tư bản điều hành (Chaebol). Những Chaebol lớn có thể kể tới như Samsung, Hyundai, Kia, LG, Lotte, CJ, SK, Shinsegae hay Daewoo. Từ những năm 1970, các Chaebol Hàn Quốc bắt đầu xâm nhập và tạo dựng được chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới, biến quốc gia này trở thành một thực thể thương mại quốc tế quan trọng. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhiều chi nhánh của các tập đoàn này ở nước ngoài đã phải đóng cửa.

Năm 1997, giống như nhiều nước châu Á khác, Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tài chính nặng nề. Mặc dù bị tổn hại nghiêm trọng do tác động của cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Hàn Quốc vẫn hồi phục nhanh chóng sau đó và GDP tăng gấp 3 lần.[355] Quốc gia này duy trì nợ nhà nước ở mức thấp cùng dự trữ tài khóa cao để có thể nhanh chóng được huy động nhằm sẵn sàng giải quyết các tình huống tài chính khẩn cấp.[356]

Hàn Quốc tiếp tục duy trì được mức độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong khoảng thời gian sau đó, đạt mức 6,2% trong năm 2010[357], tuy vậy đến năm 2016 đã tụt xuống chỉ còn hơn 2,6%. Năm 2019, Hàn Quốc là quốc gia đứng thứ 7 thế giới về kim ngạch xuất khẩu[358], hạng 9 về nhập khẩu.[359] Cùng năm 2019, Hàn Quốc đứng thứ 20 toàn cầu trong bảng xếp hạng về chỉ số thương hiệu quốc gia công bố bởi Future Brand.[360] Cũng trong năm đó, theo công bố, đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Hàn Quốc xếp hạng 4 châu Á sau Singapore, Hồng Kông và Nhật Bản, đứng thứ 13 thế giới trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu.[361] Năm 2020, Brand Finance – đơn vị chuyên định giá thương hiệu và tư vấn chiến lược độc lập của Vương quốc Anh công bố báo cáo về thương hiệu quốc gia, theo đó, tổng giá trị của các thương hiệu Hàn Quốc xếp thứ 4 châu Á sau Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ, đồng thời đứng thứ 10 toàn cầu.[362] Về chỉ số tự do kinh tế, Hàn Quốc xếp thứ 6 châu Á, hạng 25 thế giới.[363]

Năm 2020, Hàn Quốc là nền kinh tế có quy mô lớn thứ 10 trên thế giới tính theo GDP danh nghĩa[22][23], hạng 14 theo sức mua tương đương.[364] Thu nhập bình quân đầu người lần lượt xếp hạng 26 theo danh nghĩa[365] và 24 thế giới theo sức mua.[366] Nền kinh tế dựa vào xuất khẩu, tập trung vào các ngành mũi nhọn như công nghiệp nặng, điện tử tiêu dùng, xe hơi, đóng tàu, sản xuất máy móc tự động hóa, viễn thông, dược phẩm, thiết bị quân sự,… Ngoài ra, Hàn Quốc cũng là quốc gia phát triển trong các ngành dịch vụ, du lịch, nghệ thuật, thời trang và giải trí.

 

Đảo Jeju

Đảo Jeju

 

Quang Hóa môn

Quang Hóa môn

 

Cảnh Phúc cung

Cảnh Phúc cung

 

Lotte World

Lotte World

Hàn Quốc có nhiều khu du lịch với phong cảnh cũng như văn hóa giao thoa giữa truyền thống và hiện đại. Thủ đô Seoul có nhiều cung điện hoàng gia cổ được xây dựng từ thời Joseon. Ngoài ra, những trung tâm giải trí lớn như Lotte World, công viên Everland, các chợ Dongdaemun, Gwangjang, Noryangjin, Gyeongdong, Namdaemun, Jagalchi,… luôn nhộn nhịp, du khách tới đây có thể dễ dàng tìm mua đủ các loại thực phẩm, hàng hóa theo nhu cầu. Bên cạnh Seoul, Hàn Quốc còn có các điểm du lịch nổi tiếng khác như đảo Nami, đảo Jeju, núi Seorak, bãi biển Haeundae,…

Trong năm 2016, Hàn Quốc đón 17 triệu khách du lịch nước ngoài.[373][374][375] Viện nghiên cứu Hyundai báo cáo rằng Làn sóng Hàn Quốc có tác động trực tiếp đến việc khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trở lại đất nước thông qua nhu cầu về sản phẩm và công nghiệp du lịch.[376] Ngành du lịch Hàn Quốc được phát triển, quảng bá và thúc đẩy bởi nhiều yếu tố như chính sách hỗ trợ từ phía chính phủ, các chiến dịch truyền thông đại chúng, sự phổ biến của điện ảnh cùng nhạc K-pop, ngoài ra còn có những thế mạnh tự nhiên khác như văn hóa, ẩm thực và cảnh quan môi trường.

 

KBS – đài phát thanh quốc gia

 

 

EBS
Đài phát thanh
giáo dục

Chosun Ilbo
Nhật báo
lâu đời nhất

KBS – đài phát thanh quốc gia

 

MBC – đài phát thanh văn hóa

MBC – đài phát thanh văn hóa

Các phương tiện truyền thông cơ bản của Hàn Quốc bao gồm có báo chí, truyền hình, đài phát thanh và Internet. Báo chí ở Hàn Quốc bắt đầu xuất hiện khi đất nước mở cửa giao thương với nước ngoài vào thế kỷ XIX và phát triển kể từ đó. Các tờ báo lớn bao gồm: Chosun Ilbo, JoongAng Ilbo và Dong-A Ilbo. Tất cả những tờ báo này đều được xuất bản bằng tiếng Hàn, những báo có thêm phiên bản tiếng Anh bao gồm: The Korea Herald, The Korea Times và JoonAng Daily.[377]

Giống như báo chí, phần lớn các chương trình phát thanh cũng được phát bằng tiếng Hàn bên cạnh một số nhà đài cung cấp thêm những chương trình hoàn toàn bằng tiếng Anh.[378] Hệ thống chương trình truyền hình ở Hàn Quốc cũng được phát sóng phần lớn bằng tiếng Hàn, các nội dung nước ngoài thì được lồng tiếng. Những kênh truyền hình lớn nhất của Hàn Quốc bao gồm có: KBS, MBC, EBS, SBS, Mnet, JTBC và tvN. Ngoài ra còn có các kênh phát sóng chương trình độc quyền bằng tiếng Anh chẳng hạn như Arirang TV.[379]

Internet là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của người Hàn Quốc, trung bình cứ 10 hộ gia đình thì có tới 9 hộ có dịch vụ Internet. Đây là một trong những quốc gia có số lượng thuê bao đăng ký sử dụng Internet trên đầu người lớn nhất, số lượng công ty cung cấp dịch vụ Internet trên đầu người lớn nhất cùng tốc độ kết nối thuộc nhóm nhanh nhất trên thế giới[380][381]. Hàn Quốc cũng là một trong những nước dẫn đầu về công nghệ DMB.[382]

 

Hệ thống tàu điện ngầm Seoul

 

Sân bay quốc tế Incheon

 

Tàu đệm từ sân bay Incheon

 

Hệ thống tàu cao tốc KTX

 

Hệ thống đường cao tốc Hàn Quốc

Giao thông ở Hàn Quốc bao gồm có các tuyến đường sắt, đường bộ cao tốc, xe buýt, dịch vụ phà và các tuyến đường hàng không trải dài khắp đất nước, 91% các tuyến đường bộ tại Hàn Quốc được trải nhựa, trong khi tỷ lệ này của Bắc Triều Tiên chỉ là 6%.[383]

Hệ thống tàu điện cao tốc tại Hàn Quốc là một trong những mạng lưới đường sắt cao tốc nhanh, đúng giờ và có mật độ phân bố dày đặc nhất trên thế giới.[384][385] Korea Expressway Corporation là tập đoàn vận hành hệ thống đường cao tốc thu phí cùng các dịch vụ đi kèm. Korail điều hành hệ thống đường sắt tại tất cả các thành phố lớn của Hàn Quốc trong khi KTX cung cấp dịch vụ đường sắt tốc độ cao. Cả 6 thành phố lớn của Hàn Quốc là Seoul, Busan, Daegu, Gwangju, Daejeon và Incheon đều có hệ thống tàu điện ngầm riêng. Hệ thống xe buýt tốc độ cao cũng có mặt ở hầu hết các thành phố trên cả nước.[386] Ngoài ra ở Hàn Quốc, trên nóc các tòa nhà cao tầng phần lớn đều có bãi đáp cho máy bay trực thăng.

Sân bay quốc tế Incheon và Korean Air là hai đơn vị đầu tàu của ngành hàng không Hàn Quốc, thường xuyên có mặt trong top những sân bay và hãng hàng không tốt nhất thế giới.[387][388][389][390] Korean Air là một thành viên tham gia sáng lập liên minh hàng không quốc tế SkyTeam.[391] Cảng hàng không Incheon – sân bay lớn nhất, phục vụ trên 60 triệu hành khách năm 2016.[392] Các sân bay quốc tế khác bao gồm Gimpo, Gimhae và Jeju. Ngoài ra còn có nhiều sân bay khác được hình thành như một phần của sự bùng nổ xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng chưa được khai thác, tận dụng hết công suất. Hãng hàng không quốc gia cũng như lớn nhất – Korean Air, phục vụ hơn 30 triệu hành khách, trong đó bao gồm gần 20 triệu khách quốc tế trong năm 2016.[393] Hãng hàng không lớn thứ hai, Asiana Airlines; cũng phục vụ các chuyến bay trong và ngoài nước. Những hãng bay có quy mô nhỏ hơn, chẳng hạn như Jeju Air; thì cung cấp dịch vụ bay nội địa với giá vé thấp hơn.[394]

 

Tàu con rùa

Tàu con rùa

 

Bản sao của kinh Mugujeong Gwangdae Dharani được trưng bày tại Bảo tàng quốc gia Hàn Quốc

Bản sao của kinh Mugujeong Gwangdae Dharani được trưng bày tại Bảo tàng quốc gia Hàn Quốc

 

Hỏa xa được coi là hệ thống vũ khí có cơ chế bắn loạt đầu tiên[395]

Hỏa xa được coi là hệ thống vũ khí có cơ chế bắn loạt đầu tiên[395]

Nền khoa học và công nghệ Triều Tiên cổ đại đã phát minh ra kỹ thuật in ấn dùng kim loại, đồng hồ tự gõ, máy đo lượng nước mưa đầu tiên và tàu chiến bọc chông sắt. Trực chỉ là tài liệu bằng chữ Hán cổ nhất của thế giới được in bằng khuôn chì.[396] Ngoài ra, một trong những hiện vật nổi tiếng khác là Chiêm tinh đài – một đài quan sát cao 9,4 mét được xây dựng vào khoảng năm 634.

Mẫu bản in khắc gỗ cổ xưa nhất còn sót lại là bộ Kinh Mugujeong Gwangdae Dharani – được tìm thấy tại chùa Bulguksa, Hàn Quốc năm 1966. Bản mẫu này được tin rằng đã được in vào khoảng những năm 704-751, nếu đúng như vậy thì bản in còn nhiều tuổi hơn cả Kim cương kinh.[397] Bát vạn Đại tạng kinh là tập hợp các bản khắc kinh Phật Hán văn với khoảng trên 81.000 khối gỗ được in dưới thời vua Cao Ly Cao Tông vào thế kỷ 13, đây là phiên bản Đại tạng kinh được bảo tồn nguyên vẹn và đầy đủ nhất về giáo quy bằng chữ Hán của thế giới.[398] Tơ Cao Ly được người phương Tây đánh giá cao và đồ gốm sứ cũng được săn đón. Gốm Cao Ly, đặc biệt là loại làm bằng men ngọc, có màu xanh dương hoặc xanh lá là những loại có chất lượng tốt nhất và luôn được các thương gia Ả Rập sưu tầm.

Trong thời kỳ của nhà Triều Tiên, những Quy bối thuyền (thuyền chiến gỗ bọc gai sắt, thiết kế và đóng theo hình mai rùa) đã được phát minh cùng nhiều loại vũ khí độc đáo khác như Phi kích thần thiên lôi và Hỏa xa.[399][400][401] Các loại vũ khí này về sau được vị danh tướng Lý Thuấn Thần sử dụng trong cuộc kháng chiến của quân dân Triều Tiên chống lại quân xâm lược nhà Kim (Trung Quốc) và Nhật Bản.

Bảng chữ cái Hangul của Hàn Quốc cũng được Triều Tiên Thế Tông (vua Sejong) phát minh trong thời gian này.

Thời kỳ hiện đại

Khái quát

 

Albert HUBO – Robot dạng người phát triển bởi KAIST

Albert HUBO – Robot dạng người phát triển bởi KAIST

 

Tên lửa đẩy nội địa Nuri-2 rời bệ phóng

 

Một nguyên mẫu siêu xe của Hyundai Motor

 

Airbot – Robot hỗ trợ phát triển bởi LG Electronics

Hàn Quốc dẫn đầu thế giới trong nhiều ngành khoa học ứng dụng, điện tử, công nghệ.[402][403][404] Đây là quốc gia sáng tạo nhất thế giới năm 2021.[405][406][407] Samsung Electronics, SK Hynix là những công ty sản xuất thiết bị điện tử hàng đầu thế giới.[408][409][410] LG Electronics là nhà sản xuất thiết bị gia dụng hàng đầu thế giới tính theo doanh thu năm 2021.[411] Liên minh Hyundai – Kia lần lượt là các nhà sản xuất xe hơi có giá trị thương hiệu lớn thứ 5 và 13 toàn cầu trong năm 2020[412] – đưa Hàn Quốc trở thành một trong những cường quốc về sản xuất và xuất khẩu ô tô trên thế giới.[413][414] Ngoài ra, liên minh này cùng với thương hiệu con Genesis đồng thời cũng được đánh giá cao về chất lượng sản phẩm tại các thị trường khó tính như Đức[370] hay Hoa Kỳ.[415] Samsung C&T là công ty xây dựng đa quốc gia hàng đầu thế giới – đơn vị đã tạo nên những công trình cao nhất hiện nay như Petronas Twin Towers và Merdeka 118 ở Kuala Lumpur (Malaysia), Đài Bắc 101 ở Đài Bắc (Đài Loan) hay Burj Khalifa ở Dubai (UAE).

Năm 2010, trên 90% người Hàn Quốc sở hữu ít nhất một chiếc điện thoại di động[416], quốc gia này có tốc độ đường truyền kết nối Internet thuộc nhóm nhanh nhất thế giới.[380][381] Năm 2018, Hàn Quốc trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới thương mại hóa thế hệ mạng di động thứ 5.[417][418] Bên cạnh đó, không chỉ tiến hành thương mại hóa sớm nhất[419][420], Hàn Quốc còn dẫn đầu thế giới về công nghệ này.[421][422][423] Ngoài công nghệ viễn thông, Hàn Quốc còn là một quốc gia mạnh về lập trình, thiết kế trò chơi điện tử trực tuyến, độc lập cũng như di động. Một số tựa game nổi tiếng được phát triển bởi người Hàn có thể kể đến như: PUBG, Play Together, Biệt đội thần tốc, CrossFire, FIFA Online 3; 4, Blade & Soul, MU Online, Crazy Arcade hay Audition Online,…

Hàn Quốc là quốc gia thứ 22 trong lịch sử thế giới có vệ tinh nội địa được phóng thành công vào quỹ đạo không gian vũ trụ với KITSAT-1 năm 1992.[424] Năm 2020, Hàn Quốc xếp hạng 14 thế giới, thứ 2 châu Á (sau Singapore) trong chỉ số sẵn sàng kết nối mạng (một phương thức để xác định mức độ phát triển công nghệ thông tin và truyền thông của một quốc gia) công bố bởi Diễn đàn kinh tế thế giới.[425] Đất nước này cũng đồng thời đứng hạng 2 thế giới sau Israel trong top 5 quốc gia chi nhiều phần trăm ngân sách trên tổng GDP nhất cho các hoạt động nghiên cứu & phát triển cùng với Nhật Bản, Thụy Sĩ và Thụy Điển.[326]

Công nghệ hạt nhân

 

Lò phản ứng KSTAR Tokamak được ví như “Mặt Trời nhân tạo” của Hàn Quốc

Lò phản ứng KSTAR Tokamak được ví như “Mặt Trời nhân tạo” của Hàn Quốc

 

 

Shin Kori, một trong những tổ hợp nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động lớn nhất thế giới

Hàn Quốc bắt đầu phát triển chương trình điện hạt nhân từ đầu thập niên 1970 và ngày nay hiện đang là một trong những nhà sản xuất năng lượng hạt nhân lớn nhất trên thế giới.[426] Năng lượng hạt nhân cung cấp phần lớn sản lượng điện hàng năm và nước này hiện đang tích cực nghiên cứu, nâng cấp nhiều loại lò phản ứng tiên tiến, bao gồm các lò phản ứng mô-đun nhỏ, lò phản ứng nhanh, biến đổi kim loại lỏng và thiết kế sản xuất Hydro ở nhiệt độ cao. Sản xuất nhiên liệu và công nghệ xử lý chất thải hạt nhân cũng được phát triển kèm theo. Quốc gia này là một thành viên của dự án ITER.[427]

Chính sách an ninh năng lượng của Hàn Quốc được thúc đẩy với mong muốn giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu. Hệ thống nhà máy điện hạt nhân ở đây chủ yếu bao gồm các lò phản ứng nước điều áp (PWR) được đưa vào vận hành từ năm 1977 đến năm 2019, bốn lò phản ứng khác đang được xây dựng tại Shin Kori và Shin Hanul nhằm mục tiêu bổ sung thêm công suất. Lò phản ứng hạt nhân đầu tiên của nước này, Kori 1, đã ngừng hoạt động vào năm 2017. Lò phản ứng Đơn vị 1 của Wolsong được đưa vào hoạt động thay thế cùng năm cho đến 2019.[426] Gần đây, trước những lo ngại về tính an toàn sau sự cố hạt nhân tại nhà máy điện Fukushima của Nhật Bản, chính phủ Hàn Quốc đã công bố kế hoạch dần loại bỏ, thay thế loại năng lượng này, theo đó sẽ cắt giảm số lượng các lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động hiện nay xuống còn 14 vào năm 2038.[426]

Hàn Quốc là nhà xuất khẩu lò phản ứng hạt nhân mới nổi, đã ký kết thỏa thuận với UAE để xây dựng và duy trì bốn lò phản ứng hạt nhân tiên tiến,[428] với Jordan cho một lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu[429][430] và với Argentina để xây dựng và sửa chữa những lò phản ứng hạt nhân nước nặng. Kể từ năm 2010, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu đàm phán về việc tiến hành xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân mới.[431][432][433] Quốc gia này cũng đang chuẩn bị đấu thầu để xây dựng lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ cho Argentina.[433]

Hàn Quốc là một trong số ít các quốc gia trên thế giới đã nghiên cứu, tiến hành xây dựng và vận hành thành công lò phản ứng nhiệt hạch – hay còn được giới khoa học gọi với biệt danh “Mặt Trời nhân tạo”. Bên cạnh đó, công trình này xác lập kỷ lục thế giới mới khi thành công trong việc duy trì luồng plasma siêu nóng suốt 30 giây trong lò phản ứng Tokamak.[434]

 

Triều Tiên Thế Tông

Triều Tiên Thế Tông

 

Hahoetal, mặt nạ truyền thống

Hahoetal, mặt nạ truyền thống

 

Lễ hội Đèn lồng Hoa sen Yeondeunghoe, di sản Văn hóa Phi vật thể được UNESCO công nhận[435]

Lễ hội Đèn lồng Hoa sen Yeondeunghoe, di sản Văn hóa Phi vật thể được UNESCO công nhận[435]

 

Động Seokguram, di sản thế giới được UNESCO công nhận[436]

Động Seokguram, di sản thế giới được UNESCO công nhận[436]

Trong thời kỳ phong kiến chuyên chế; đặc biệt là nhà Triều Tiên, văn hóa Triều Tiên đạt đến đỉnh cao dưới thời Triều Tiên Thế Tông. Sau này, dưới sự cai trị của Đế quốc Nhật Bản, văn hóa Hàn Quốc cận đại chịu ảnh hưởng lớn từ nước láng giềng. Bước sang thời kỳ hiện đại, Hàn Quốc chia sẻ văn hóa truyền thống của mình với Bắc Triều Tiên; thế nhưng, hai miền đã phát triển các hình thức văn hóa đương đại khác biệt kể từ khi bán đảo bị chia cắt vào năm 1945. Trong lịch sử, mặc dù văn hóa Hàn Quốc từng có khoảng thời gian dài chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nước láng giềng Trung Quốc; tuy nhiên, quốc gia này vẫn độc lập phát triển một bản sắc văn hóa độc đáo, khác biệt với Trung Quốc.

Nền văn hóa phong phú của Hàn Quốc đã để lại 21 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận[437], cùng với đó là 15 di sản thế giới.[438] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc tích cực khuyến khích bảo tồn nghệ thuật truyền thống cũng như nhiều hình thức nghệ thuật đương đại khác thông qua các chương trình tài trợ, quảng bá và giáo dục. Ngày nay, công nghiệp hóa cùng đô thị hóa đã mang lại những thay đổi đáng kể trong văn hóa, lối sống của người dân Hàn Quốc, dẫn đến sự tập trung dân số cũng như đa dạng văn hóa tại các thành phố lớn, đặc biệt là thủ đô Seoul.

Ngôn ngữ

 

Bản đồ biểu thị sự phân bố phương ngữ của tiếng Hàn Quốc

Bản đồ biểu thị sự phân bố phương ngữ của tiếng Hàn Quốc

 

Chữ Hangul ban đầu có tên gọi là Hunmin Jeong-eum – Huấn dân chính âm

Chữ Hangul ban đầu có tên gọi là Hunmin Jeong-eum – Huấn dân chính âm

 

Một tờ rơi tuyên truyền trong chiến tranh Triều Tiên sử dụng chữ viết hỗn hợp Hangul-Hanja

Một tờ rơi tuyên truyền trong chiến tranh Triều Tiên sử dụng chữ viết hỗn hợp Hangul-Hanja

Ở Hàn Quốc, ngôn ngữ chính thức là tiếng Hàn Quốc. Một số nhà ngôn ngữ học xếp ngôn ngữ này vào ngữ hệ Altai, một số khác thì cho rằng tiếng Hàn Quốc là một ngôn ngữ biệt lập. Kể từ bậc tiểu học, ngoài tiếng mẹ đẻ, các giáo viên bắt đầu dạy tiếng Anh cho học sinh. Sau này, tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật cũng trở thành các ngoại ngữ chính. Các ngôn ngữ châu Âu khác như Pháp, Đức, Ý, Nga, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,… hay tiếng Ả Rập hoặc tiếng Việt thì ít phổ biến hơn và thường được giảng dạy trong các trường đại học.

Khác với chữ viết của các nước láng giềng Đông Á, Hangul – chữ viết của người Hàn Quốc sử dụng một bảng chữ cái gồm có 51 ký tự với 24 ký tự đơn và 27 ký tự kép. Những ký tự này được kết hợp lại theo âm tiết để tạo thành các chữ. Đối với những người chưa biết thì chữ Hangul cũng phức tạp giống như chữ Hán. Nhưng trên thực tế thì người học có thể nắm bắt được những kiến thức cơ bản về cách sử dụng loại chữ này chỉ sau 4 đến 5 tiếng đồng hồ, vì thế mà Hangul còn được gọi là Chữ viết buổi sáng (trong một buổi sáng là có thể học xong).

Hanja, bộ chữ Hán của người Hàn Quốc có ý nghĩa tương tự như chữ Latinh ở các nước châu Âu. Giống như các ngôn ngữ ở Đông Á và Đông Nam Á, rất nhiều từ trong tiếng Hàn Quốc có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tuy nhiên việc loại bỏ đi các thanh âm trong tiếng Hán dẫn đến việc trong tiếng Hàn Quốc có rất nhiều từ đồng âm. Các từ này được phát âm giống nhau nhưng mang ý nghĩa khác nhau và chỉ phân biệt được dựa vào ngữ cảnh. Vì vậy, để cho rõ nghĩa, trong các văn bản khoa học người Hàn Quốc thường ghi chú thích bằng chữ Hanja ở sau những cụm từ quan trọng. Ngoài ra, trong giao tiếp thường nhật hoặc trên các tấm danh thiếp, người Hàn cũng thường sử dụng Hanja để giải thích ý nghĩa họ tên.

Trong thập niên 2000 của thế kỷ 21, những tín đồ Hồi giáo tại Hàn Quốc đã tiếp nhận thêm bảng chữ cái Ả Rập và biến đổi lại để ghi âm tiếng Hàn gọi là “Kuryan” (tương tự như chữ Jawi của ngữ tộc Mã Lai). Hệ chữ này sử dụng văn tự Ả Rập để ghi âm tiếng Hàn nhằm phục vụ cho hoạt động giao tiếp và truyền bá trong cộng đồng người Hồi giáo tại Hàn Quốc.

Nghệ thuật

 

Pansori – nghệ thuật hát ả đào

Pansori – nghệ thuật hát ả đào

 

Talchum – nghệ thuật múa mặt nạ

Talchum – nghệ thuật múa mặt nạ

Nghệ thuật Hàn Quốc truyền thống vốn chịu ảnh hưởng rất lớn từ Phật giáo và Nho giáo, có thể thấy trong nhiều bức tranh, tác phẩm điêu khắc, gốm sứ và nghệ thuật biểu diễn. Đồ gốm sứ Hàn Quốc, chẳng hạn như Baekja và Buncheong của nhà Triều Tiên, Celadon của vương quốc Cao Câu Ly nổi tiếng trên khắp thế giới. Ngoài ra, Trà đạo Hàn Quốc, Pansori, Talchum và Buchaechum cũng là những nét văn hóa nghệ thuật dân gian đặc sắc của quốc gia này.

Nghệ thuật hiện đại của Hàn Quốc sau chiến tranh bắt đầu phát triển vào những năm 1960 và 1970, khi các nghệ sĩ bắt đầu quan tâm đến hình dạng hình học và các chủ đề phi vật thể. Thiết lập sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên cũng là một chủ đề được yêu thích trong giai đoạn này. Cùng với những biến động xã hội, các vấn đề chính trị bắt đầu xuất hiện như một chủ đề lớn trong suốt thập niên 1980. Ngày nay, nghệ thuật Hàn Quốc truyền thống được quảng bá chủ yếu qua phim ảnh, du lịch cùng các sự kiện cũng như triển lãm quốc tế khác nhau.

Kiến trúc

 

Hàn Ốc

 

Nhà thờ Anh giáo ở Seoul, công trình tiêu biểu cho thấy sự du nhập và ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây vào Hàn Quốc

 

Làng dân gian Hahoe

 

Làng cổ Hanok Bukchon

 

Đức Thọ cung vào mùa thu

 

Bảo tàng nghệ thuật Leeum Samsung được thiết kế và xây dựng theo phong cách kiến trúc hiện đại

Do lịch sử đầy biến động của Hàn Quốc, việc xây dựng và phá hủy các công trình kiến trúc được lặp đi lặp lại nhiều lần, dẫn đến sự pha trộn thú vị trong phong cách thiết kế. Kiến trúc truyền thống Hàn Quốc được biểu hiện đặc trưng bởi sự hài hòa với thiên nhiên. Các kiến ​​trúc sư cổ đại đã thiết kế các hệ thống mái tranh và sàn gỗ sưởi ấm được gọi là Ondol. Người dân thuộc tầng lớp thượng lưu thường xây dựng những ngôi nhà lớn hơn với mái ngói cong thanh lịch hoặc mái hiên nâng. Kiến trúc truyền thống có thể được nhìn thấy trong các cung điện, đền thờ, địa danh tôn giáo, những ngôi nhà cổ được bảo tồn (Hàn Ốc) cùng nhiều địa điểm thăm quan nổi tiếng như làng dân gian Hahoe, làng Hanok Bukchon, làng Yangdong ở Gyeongju và làng dân tộc Hàn Quốc. Hàn Quốc sở hữu 15 di sản thế giới được UNESCO công nhận.[438]

Kiến trúc phương Tây lần đầu tiên được giới thiệu đến Hàn Quốc vào khoảng cuối thế kỷ 19. Nhà thờ Kitô giáo, văn phòng cho người nước ngoài, các trường trung học, đại học bắt đầu được xây dựng theo đường nét thiết kế, phong cách, tư duy kiến trúc mới. Với sự sáp nhập của bán đào Triều Tiên vào Đế quốc Nhật Bản năm 1910, chế độ thuộc địa đã can thiệp vào nhiều di sản kiến ​​trúc truyền thống đồng thời kiến ​​trúc hiện đại theo phong cách Nhật Bản được áp đặt. Tuy nhiên, chiến tranh Triều Tiên đã phá hủy hầu hết các công trình xây dựng trong thời gian đó. Kiến trúc Hàn Quốc bước vào giai đoạn phát triển mới trong quá trình tái thiết đất nước sau chiến tranh, xu hướng, phong cách kiến ​​trúc hiện đại được sử dụng rộng rãi. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong những thập niên 1970 và 1980, việc tái phát triển đã chứng kiến ​​nhiều triết lý kiến ​​trúc mới. Sau Olympic 1988, với sự mở cửa thị trường nội địa cho các kiến ​​trúc sư nước ngoài, kiến ​​trúc Hàn Quốc chứng kiến những thay đổi lớn trong phong cách thiết kế. Tuy vậy, kiến ​​trúc đương đại vẫn không ngừng cố gắng để cân bằng triết lý “hòa hợp với thiên nhiên” truyền thống.

Văn học

 

Ngũ lão hội thiệp đồ – tranh do họa sĩ Yu Suk vẽ năm 1861, mô tả cảnh đàm đạo văn chương của giới trí thức thời Joseon

Ngũ lão hội thiệp đồ – tranh do họa sĩ Yu Suk vẽ năm 1861, mô tả cảnh đàm đạo văn chương của giới trí thức thời Joseon

Văn học hiện đại Hàn Quốc bắt nhịp khá chậm trước các xu thế mới, một phần do sự kiểm duyệt của chính quyền thuộc địa kết hợp với việc người dân nơi đây chưa có thói quen cũng như không được tiếp cận với nền văn học khai phóng của phương Tây. Trước năm 1945, tất cả các phong trào văn học, thơ ca yêu nước, cổ vũ tinh thần ái quốc ở Hàn Quốc đều bị coi là bất hợp pháp. Năm 1919, Kim Dong-in khai trương tạp chí Văn học Sáng tạo – mở ra hướng phổ cập văn chương hoàn toàn mới lạ, đánh dấu bước khởi đầu của nền văn học đương đại Hàn Quốc.

Ngày nay, văn hóa đọc sách và các tác phẩm văn học của Hàn Quốc thu hút một số lượng lớn độc giả. Những buổi đọc sách thậm chí còn được tổ chức ngoài trời tại các sân vận động.

Hwang Sok-yong là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất Hàn Quốc. Ông trải qua các cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam. Đề tài chính trong các tác phẩm của ông là những mâu thuẫn giữa hai thái cực truyền thống và hiện đại.

Ẩm thực

 

Kim chi được chế biến đa dạng

 

Một bữa cơm gia đình Hàn Quốc

 

Bibimbap

 

Quán lều

 

Văn hóa thứ bậc khi uống rượu luôn được người Hàn Quốc đặc biệt coi trọng

Ẩm thực Hàn Quốc nổi tiếng nhất với món Kim chi, đây là một món ăn sử dụng quá trình lên men đặc biệt để bảo quản một số loại rau, trong đó phổ biến nhất là cải thảo và cải bắp. Khổ tiêu tương, Doenjang cùng Guk-ganjang là những loại nước chấm rất thông dụng trong bữa ăn hàng ngày cũng như tương tiêu và tương ớt là những gia vị điển hình của một nền ẩm thực nổi tiếng với vị cay.

Nhóm Gogigui – tiêu biểu như Bulgogi, Galbi, Dak galbi hay Samgyeopsal là những đặc sản từ thịt nổi tiếng. Cá biển cũng là thực phẩm phổ biến vì là loại thịt truyền thống mà người Hàn Quốc hay dùng trong bữa ăn. Samgyetang, Galbi-tang và Doenjang jjigae là những món xúp và canh hầm nổi tiếng, các món ăn phụ được gọi là Banchan.

Những món ăn nổi tiếng khác bao gồm Bibimbap, Jajangmyeon, Chimaek, Naengmyeon và các loại bánh Tteok. Ngoài ra, mì ăn liền (Ramyeon) cũng là một loại thức ăn nhanh phổ biến. Người Hàn Quốc rất thích ăn uống tại các Pojangmacha (quán lều bán dạo trên đường phố – một hình thức cơ sở thương mại dựa trên một căn lều nhỏ dựng bằng vải dù hoặc quầy hàng ven đường), ở đây người ta có thể mua Tteokbokki, Hotteok, khoai tây chiên mực, Sundae (dồi lợn luộc), khoai lang tẩm bột rán cùng các món nhậu,… Ngoài ra, ẩm thực Hàn Quốc còn có một số món ăn nhẹ phổ biến khác như bánh Choco Pie, kẹo đường Dalgona, bánh que Pepero, bánh tôm, bánh xèo hải sản, bánh hành (Haemul Pajeon), bánh gạo giòn hay Nurungji (cơm cháy).

Các loại đồ uống có cồn phổ biến của Hàn Quốc bao gồm có Soju (rượu nếp), Makgeolli (rượu gạo) và Bokbunja-ju (rượu trái cây), đặc biệt, người Hàn còn hay pha rượu Soju với bia tươi (Somaek), sữa chua hoặc Sprite – một loại nước ngọt có ga; để tăng độ mạnh cho thức uống truyền thống này. Uống nhiều rượu cùng cung cách uống rượu cũng là một nét văn hóa đặc sắc trong lối sống của người Hàn Quốc. Đây là một trong những quốc gia mà người dân tiêu thụ đồ uống có cồn với mức trung bình nhiều nhất trên thế giới trong năm 2018, tuy nhiên, sang đến năm 2021, con số này đã giảm đáng kể.[439][440]

Khác với phần lớn các nước Đông Á và Đông Nam Á, người Hàn Quốc khi ăn thường ưu tiên sử dụng đũa kim loại thay vì đũa gỗ. Truyền thống này đã có từ thời cổ đại khi đũa kim loại được tìm thấy trong các di tích khảo cổ học được cho là có từ thời Cao Câu Ly.[441]

Âm nhạc và giải trí

 

Psy biểu diễn “Gangnam Style” tại buổi hòa nhạc KIIS-FM Jingle Ball ở Los Angeles, Mỹ

 

Một buổi biểu diễn K-pop trực tiếp

 

BTS – nhóm nhạc nam K-pop thành công nhất hiện nay

 

Blackpink – nhóm nhạc nữ K-pop nổi tiếng nhất

 

Người hâm mộ xếp hàng chờ mua các sản phẩm liên quan đến K-pop ở Los Angeles

K-pop là dòng nhạc pop của Hàn Quốc, ban đầu chịu sự ảnh hưởng của J-pop (nhạc pop Nhật Bản). Nhờ chiến lược đầu tư, phát triển bài bản cùng sự quảng bá mạnh mẽ của truyền thông nước nhà mà K-pop đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, thu hút người hâm mộ trên khắp thế giới và trở thành một hiện tượng giải trí toàn cầu.[442][443]

Ngoài thị trường tiêu dùng nội địa, Hàn Quốc còn có một ngành công nghiệp giải trí đang phát triển mạnh mẽ trong mọi loại hình giải trí, bao gồm phim truyền hình, điện ảnh và âm nhạc nổi tiếng đã tạo ra doanh thu hoạt động tài chính đáng kể cho nền kinh tế Hàn Quốc. Hiện tượng văn hóa được gọi là “Làn sóng Hallyu” hoặc “Làn sóng Hàn Quốc” đã càn quét nhiều quốc gia trên khắp châu Á, khiến Hàn Quốc trở thành một trong những quyền lực mềm với tư cách là đất nước xuất khẩu văn hóa và giải trí đại chúng, sánh ngang với các quốc gia phương Tây như Hoa Kỳ hay Vương quốc Anh.[444][445]

Cho đến những năm 1990, trot và những bản ballad dựa trên âm nhạc dân gian truyền thống của Hàn Quốc đã thống trị nền âm nhạc đại chúng của Hàn Quốc. Sự xuất hiện của nhóm nhạc pop Hàn Quốc Seo Taiji and Boys vào năm 1992 đã đánh dấu một bước ngoặt đối với nền âm nhạc đại chúng của Hàn Quốc, còn được gọi là “K-pop”, khi thể loại này được hiện đại hóa bằng cách kết hợp các yếu tố của nhiều thể loại âm nhạc nổi tiếng từ khắp nơi trên toàn cầu, chẳng hạn như âm nhạc đại chúng phương Tây, experimental, jazz, phúc âm, latinh, cổ điển, hip hop, rhythm and blues, dance điện tử, reggae, đồng quê, dân ca và rock dựa trên âm nhạc truyền thống độc đáo của Hàn Quốc.[446] Các tiết mục nhạc pop, hip hop, rhythm and blues, rock, dân gian, điện tử theo phong cách phương Tây đã thống trị nền âm nhạc đại chúng hiện đại của Hàn Quốc, mặc dù nhạc trot vẫn được những người Hàn Quốc lớn tuổi yêu thích. Các ngôi sao và nhóm nhạc K-pop đã trở nên nổi tiếng khắp châu Á và thâm nhập vào thị trường quốc tế với doanh thu xuất khẩu hàng triệu USD. Nhiều nghệ sĩ K-pop cũng có thể thu hút một lượng người theo dõi mạnh mẽ ở nước ngoài bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông mạng xã hội trực tuyến, chẳng hạn như trang web chia sẻ video YouTube.

Năm 2012, K-pop gây sốt với “điệu nhảy ngựa” trong ca khúc Gangnam Style của ca sĩ PSY, đạt hơn 3 tỷ lượt xem trên YouTube. Năm 2020, Baby Shark vượt qua Despacito để trở thành video có “nhiều lượt xem nhất mọi thời đại” trên nền tảng này với con số hơn 7 tỷ[447][448], không dừng lại ở đó, bài hát thiếu nhi này còn tiếp nối thành công của Gangnam Style, trở thành một “hiện tượng văn hóa toàn cầu mới”.[449][450]

Ngày 21 tháng 8 năm 2020, MV cho bài hát “Dynamite” của nhóm nhạc BTS xác lập kỷ lục Guinness khi trở thành MV ca nhạc đạt số lượng người xem trực tiếp cũng như view cao nhất trên YouTube sau 24 giờ phát hành với hơn 3 triệu và 101,1 triệu lượt xem trong một ngày, vượt qua con số 1,66 và 86,3 triệu – kỷ lục trước đó thuộc về nhóm nhạc Blackpink với MV “How You Like That”.[451][452] Cũng với ca khúc này, BTS đạt #1 Billboard Hot 100 trong hai tuần liên tiếp. Cùng với phim ảnh, K-pop gây nên một cơn sốt đặc biệt lớn đối với giới trẻ, đi kèm theo đó là một số hệ lụy không đáng có.

SM, YG và JYP là ba công ty lớn, truyền thống cũng như có tầm ảnh hưởng nhất trong ngành công nghiệp giải trí Hàn Quốc, thường được gọi chung là “Tam Đại” hay “Big Three / Big3”, ngoài ra còn có Big Hit (nay là Hybe), Cube, Pledis, Starship, FNC,…[453] Các công ty chịu trách nhiệm tìm kiếm, phát hiện tài năng, tài trợ, đào tạo, lăng xê,… cho những nghệ sĩ trực thuộc, ngoài ra họ còn quản lý mọi hoạt động liên quan đến âm nhạc, đảm nhận phụ trách thương hiệu và quan hệ công chúng của nghệ sĩ. Tuy vậy, hệ thống này bị truyền thông phương Tây đánh giá là “cực đoan”;[454] thậm chí, đài BBC còn sử dụng cụm từ “hợp đồng nô lệ” để nói về nó.[455]

Hầu hết các sáng kiến ​​của chính phủ nhằm mở rộng sự phổ biến của K-pop trên toàn cầu được thực hiện bởi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đây là cơ quan chịu trách nhiệm chính cho việc thành lập các Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc trên toàn thế giới. Đại sứ quán cùng lãnh sự quán Hàn Quốc cũng đứng ra tổ chức các buổi hòa nhạc K-pop ở nước ngoài và Bộ Ngoại giao nước này thường xuyên mời fan hâm mộ tới tham dự Liên hoan K-Pop Thế giới được tổ chức thường niên tại Hàn Quốc.[456] Ngoài gặt hái những lợi ích kinh tế đến từ sự phổ biến của K-pop, chính phủ Hàn Quốc đã và đang tận dụng ảnh hưởng của K-pop trong vấn đề ngoại giao.[457] Trong thời đại truyền thông đại chúng phát triển mạnh mẽ như hiện nay, quyền lực mềm (văn hóa, kinh tế,…) được coi là một chiến lược ngoại giao hiệu quả, tiềm năng và thực dụng hơn tương đối nhiều so với việc chỉ dựa vào quyền lực cứng (quân sự, vũ khí,…) truyền thống. Ngoại giao văn hóa thông qua K-pop là một chính sách đang được chính phủ Hàn Quốc thực hiện rất thành công.[458]

Năm 2020, Hàn Quốc là thị trường âm nhạc lớn thứ 2 tại khu vực châu Á, xếp hạng 6 toàn cầu (sau Pháp, Đức, Anh, Nhật Bản và Mỹ), mặc dù vẫn giữ nguyên thứ hạng nhưng mức tăng trưởng so với năm 2019 đã tăng thêm 8,2%.[459]

Điện ảnh

 

Ký sinh trùng chiến thắng 4 tượng vàng Oscar và là phim điện ảnh không nói tiếng Anh đầu tiên đoạt giải Oscar cho phim hay nhất

Ký sinh trùng chiến thắng 4 tượng vàng Oscar và là phim điện ảnh không nói tiếng Anh đầu tiên đoạt giải Oscar cho phim hay nhất

 

 

 

 

 

 

 

 

Người hâm mộ hóa trang thành vệ sĩ và các sản phẩm ăn theo loạt phim nổi tiếng Trò chơi con mực

Hàn Quốc là thị trường mà phim nội địa luôn được ưu tiên trước các sản phẩm của Hollywood, thể hiện qua việc tỷ lệ khán giả ra rạp xem phim trong nước thường cao hơn nước ngoài.[460]

Trong những năm 2000, nền công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc bắt đầu được thị trường quốc tế công nhận. Phim nội địa chiếm thị phần vượt trội, một phần do hệ thống hạn ngạch màn hình được áp dụng kể từ năm 1967 quy định thời lượng chiếu phim nội địa ít nhất là 73 ngày trong 1 năm.[461] Năm 2004, Oldboy đoạt giải Grand Prix tại Cannes 2004[462] và bán bản quyền cho nhiều thị trường khác.[463] Quái Vật Sông Hàn (2006), Chuyến tàu băng giá (2013), Đại thủy chiến (2014) hay Chuyến tàu sinh tử (2016) là những phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại ở Hàn Quốc đồng thời được các nhà phê bình nước ngoài đánh giá cao.

Năm 2019, Ký sinh trùng của đạo diễn Bong Joon-ho đoạt giải Cành cọ vàng tại Cannes 2019[464] và sau đó là Oscar. Tại Oscar 92, bộ phim chiến thắng 4 trên 6 đề cử cùng với giải thưởng quan trọng nhất – Best Picture; đồng thời là phim điện ảnh không nói tiếng Anh đầu tiên đoạt giải Oscar cho phim hay nhất.[465] Tại Oscar 93, nữ diễn viên Youn Yuh-jung đoạt giải Oscar cho Nữ phụ xuất sắc nhất với phim độc lập Khát vọng đổi đời, bà là diễn viên Hàn Quốc đầu tiên nhận tượng vàng Oscar về diễn xuất và là diễn viên nữ châu Á thứ hai chiến thắng Oscar cho Nữ phụ xuất sắc nhất sau Miyoshi Umeki của điện ảnh Nhật Bản.[466] Năm 2021, phim truyền hình sinh tồn Trò chơi con mực do Hwang Dong-hyuk đạo diễn nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình cùng sự chú ý rộng rãi tại thị trường quốc tế sau khi phát hành, trở thành phim được xem nhiều nhất trên nền tảng xem phim trực tuyến Netflix khi ra mắt với hơn 142 triệu hộ gia đình trong 4 tuần đầu tiên.[467][468][469][470]

Phim truyền hình Hàn Quốc hay còn được biết đến với tên gọi “K-drama” cũng thu hút số lượng lớn khán giả trên toàn cầu. Hiện nay, ngoài kịch bản tự sáng tạo truyền thống, các nhà sản xuất nước này cũng rất ưa chuộng những dự án được chuyển thể từ tiểu thuyết, Manhwa hay Webtoon.[471]

 

Olympic Pyeongchang 2018

 

Khu liên hợp thể thao Seoul – trung tâm thể thao tổng hợp lớn nhất Hàn Quốc

 

Luyện tập Taekwondo

 

Đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc tại World Cup 2018

 

Đội tuyển thể thao điện tử SK Telecom T1 nâng cao chiếc cúp vô địch Liên Minh Huyền Thoại thế giới năm 2015

Những môn thể thao phổ biến nhất ở Hàn Quốc là Taekwondo, bắn cung, bóng chày và bóng đá.

Đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc thường xuyên giành quyền tham dự các kỳ World Cup với tổng cộng 10 lần tính đến hết World Cup 2018, trong đó có tới 9 lần tham dự liên tiếp, nhiều hơn bất kỳ quốc gia châu Á nào khác. Xếp hạng tư chung cuộc tại World Cup 2002, lọt vào vòng 16 đội tại World Cup 2010, hai lần vô địch Cúp bóng đá châu Á vào các năm 1956 và 1960 bên cạnh 4 lần á quân (1972, 1980, 1988, 2015) và 4 lần hạng 3 (1964, 2000, 2007, 2011). Ngoài ra, đội tuyển Olympic Hàn Quốc cũng giành huy chương đồng tại Thế vận hội mùa hè 2012 và hai lần vô địch Á vận hội, Hàn Quốc cùng với Nhật Bản là hai quốc gia châu Á đầu tiên giành quyền đăng cai tổ chức World Cup.

Bóng chày được du nhập vào Hàn Quốc từ năm 1905 và nhanh chóng trở thành môn thể thao được nhiều người yêu thích cũng như theo dõi thường xuyên. Liên đoàn Bóng chày Hàn Quốc được thành lập năm 1982 là liên đoàn thể thao chuyên nghiệp đầu tiên ở Hàn Quốc. Đội tuyển bóng chày Hàn Quốc đoạt hạng 3 tại Giải Vô địch Bóng chày Thế giới năm 2006, giải nhì năm 2009 và huy chương vàng tại Olympic Bắc Kinh (2008).[472]

Năm 1988, Hàn Quốc đăng cai tổ chức Thế vận hội Mùa hè 1988 ở Seoul, quốc gia này xếp hạng 4 chung cuộc với 12 huy chương vàng, 10 bạc, 11 đồng.[472] Tại Thế vận hội Mùa đông 2010, các đội tuyển Hàn Quốc giành được 14 (6 vàng, 6 bạc và 2 đồng) trên tổng số 45 huy chương.[472] Năm 2018, Hàn Quốc đăng cai tổ chức Thế vận hội Mùa đông 2018 ở Pyeongchang và đây cũng là lần đầu tiên một kỳ Thế vận hội được tổ chức tại vùng ngoại ô, đoàn thể thao Hàn Quốc đoạt 17 huy chương (5 vàng, 8 bạc và 4 đồng). Năm 2016 tại Olympic Rio, đoàn thể thao Hàn Quốc đoạt 9 huy chương vàng, 3 bạc và 9 đồng – xếp hạng 8 chung cuộc.[473][474] Hàn Quốc đã đăng cai tổ chức các kỳ Đại hội thể thao châu Á trong các năm 1986 (Seoul), 2002 (Busan) và 2014 (Incheon)[475], Đại hội thể thao Mùa đông châu Á (1999), sự kiện thể thao liên minh các trường đại học thế giới Universiade mùa đông năm 1997 và mùa hè năm 2003. Đồng đăng cai tổ chức World Cup 2002 cùng với Nhật Bản. Đây là đội tuyển châu Á đầu tiên lọt vào đến vòng bán kết của một kỳ World Cup.

Thể thao điện tử (eSports) rất phổ biến tại Hàn Quốc, trở thành một nét văn hóa riêng biệt[476] và được chính phủ nước này công nhận là một ngành nghề hợp pháp.[477] Quốc gia này là khu vực trọng điểm mà eSports phát triển mạnh mẽ.[477] Tuy nhiên, sự cạnh tranh trong nghề là vô cùng nghiêm túc và khốc liệt.[478] 3 trò chơi được tranh tài thường xuyên là Liên Minh Huyền Thoại (Hàn Quốc có tổng cộng 6 lần vô địch thế giới ở bộ môn này tính đến năm 2020), StarCraft[479] và PUBG (3 lần vô địch thế giới các năm 2017[480], 2018[481], 2019[482] và 1 lần Á quân cùng năm 2019 ở cấp độ đội tuyển quốc gia).[483] Các giải đấu eSports tại Hàn Quốc được quản lý bởi Hiệp hội Thể thao điện tử Hàn Quốc. Một số tuyển thủ, danh thủ nổi tiếng có thể kể tới như: Lim “BoxeR” Yo-Hwan, Lee “Faker” Sang-hyeok, Hong “MadLife” Min-gi, Choi “inSec” In-seok, Heo “ShowMaker” Su, Cha “Pio” Seung-hoon hay Lee “The Tyrant” Jae-Dong,…

Hàn Quốc còn là quốc gia rất mạnh về bộ môn cờ Vây với các danh thủ như: Cho Hun-hyun, Lee Chang-ho, Lee Se-dol hay Jo Ji-hun,…

Ngày
Tên tiếng Việt
Hangul
Romaja
Ghi chú
1 tháng 1
Tết Dương lịch
양력설
Yanglyeogseol
1 tháng 1 (âm lịch)
Tết Nguyên Đán
설날
Seollal

1 tháng 3
Phong trào 1 tháng 3
3.1절
Samiljeol
Kỷ niệm ngày nổi dậy đấu tranh đòi độc lập
5 tháng 4
Tết cây xanh
식목일
Singmogil

8 tháng 4 (âm lịch)
Lễ Phật Đản
부처님 오신날
Bucheonim Osinnal
Kỷ niệm ngày sinh của Đức Phật
5 tháng 5
Tết thiếu nhi
어린이날
Eorininal

6 tháng 6
Ngày tưởng niệm
현충일
Hyeonchung-il
Tưởng niệm những người đã hy sinh vì đất nước
17 tháng 7
Ngày lập hiến (Chế Hiến tiết)
제헌절
Jehyeonjeol
Kỷ niệm ngày ban hành Hiến pháp Hàn Quốc lần đầu tiên
15 tháng 8
Ngày độc lập (Quang Phục tiết)
광복절
Gwangbokjeol
Kỷ niệm ngày giành độc lập từ tay phát xít Nhật
15 tháng 8 (âm lịch)
Tết Trung thu
추석
Chuseok

3 tháng 10
Ngày khai sinh dân tộc (Khai Thiên tiết)
개천절
Gaecheonjeol
Kỷ niệm sự thành lập của nhà nước Cổ Triều Tiên
9 tháng 10
Ngày Hàn văn
한글날
Hangeullal
Kỷ niệm sự sáng lập (1443) và tuyên bố sử dụng (1446) của chữ Hangul
25 tháng 12
Lễ Giáng Sinh
크리스마스
Keuliseumaseu

  • Triều Tiên (thực thể văn hóa)

  1. ^

    19,7% theo đạo Tin lành, 7,9% theo Công giáo

  2. ^

    Tiếng Hàn Quốc:

    한국

    /

    韓國

    , RR: Hanguk; nghĩa đen

    남한

    /

    南韓

    , RR: Namhan, hay

    남조선

    /

    南朝鮮

    , MR: Namchosŏn theo cách sử dụng của Bắc Triều Tiên

  3. ^

    Tiếng Hàn Quốc:

    대한민국

    /

    大韓民國

    , RR: Daehan Minguk

  1. ^

    “A New Way of Seeing Country Social Responsibility”

    (PDF)

    . Faculty of Philosophy and Social-Political Sciences. Alexandru Ioan Cuza University: 6. Bản gốc

    (PDF)

    lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2013 .

  2. ^

    [시행 2016.8.4.] [법률 제13978호, 2016.2.3., 제정] [Enforcement 2016.8.4. Law No. 13978, enacted on February 3, 2016] (bằng tiếng Hàn). 2016 .

  3. ^ a b

    “Foreign population in Korea tops 2.5 million”. koreatimes. 24 tháng 2 năm 2020.

  4. ^

    Kim, Han-soo; Shon, Jin-seok (20 tháng 12 năm 2016). 신자 수, 개신교 1위… “종교 없다” 56%. Chosun Ilbo .

  5. ^ a b

    South Korea National Statistical Office’s 19th Population and Housing Census (2015): “Religion organizations’ statistics”. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2016

  6. ^

    http://image.kmib.co.kr/online_image/2016/1219/201612191738_61220011145071_1.jpg

  7. ^

    Quinn, Joseph Peter (2019). “South Korea”. Trong Demy, Timothy J.; Shaw, Jeffrey M. (biên tập). Religion and Contemporary Politics: A Global Encyclopedia. ABC-CLIO. tr. 365. ISBN 978-1-4408-3933-7 .

  8. ^

    Kosis 100대 지표.

  9. ^

    Worldometer & United Nations (23 tháng 11 năm 2021). “South Korea Population”. www.worldometers.info.

  10. ^ a b c d

    “World Economic Outlook Database, October 2020”. IMF.org. International Monetary Fund .

  11. ^

    Inequality – Income inequality – OECD Data. OECD .

  12. ^

    “Fragile States Index 2021”. Fund for Peace. 20 tháng 5 năm 2021.

  13. ^

    “Country Dashboard”. Fund for Peace.

  14. ^

    “Human Development Indicators”. United Nations Development Programme .

  15. ^

    U.S. News & World Report. “South Korea: Overview of South Korea – 2020 Overall Best Countries Ranking”. www.usnews.com.

  16. ^ a b

    Muscato, Christopher. “South Korea Ethnic Groups”. study.com .

  17. ^

    World Bank. “World Bank Country and Lending Groups: High-Income Economies”. datahelpdesk.worldbank.org.

  18. ^

    “About Korea” Lưu trữ 1 tháng 1 2016 tại Wayback Machine. Paris: OECD.

  19. ^

    “South Korea history – geography: Economic and social developments”. www.britannica.com. Encyclopedia Britannica. 18 tháng 2 năm 2015 .

  20. ^ a b

    “2019 Human Development Index Ranking”. hdr.undp.org. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2020.

  21. ^

    UNDP. “Latest Human Development Index Ranking: Human Development Index (HDI) Ranking – From the 2020 Human Development Report”. hdr.undp.org.

  22. ^ a b

    IMF. “World Economic Outlook Database: Report for Selected Countries and Subjects: October 2020”. www.imf.org .

  23. ^ a b

    IMF (20 tháng 11 năm 2020). “Projected GDP Ranking 2020”. statisticstimes.com.

  24. ^

    https://www.credit-suisse.com/media/assets/corporate/docs/about-us/research/publications/global-wealth-databook-2021.pdf

  25. ^

    “Press Releases”. The Bank of Korea .

  26. ^

    The Economist Intelligence Unit. “Democracy Index 2019: A year of democratic setbacks and popular protest”

    (PDF)

    . www.in.gr.

  27. ^

    Economist Intelligence Unit. “Democracy Index 2019”. www.eiu.com.

  28. ^ a b

    “SOCIAL PROGRESS SUMMARY: Republic of Korea”. www.socialprogress.org .

  29. ^ a b

    “2020 Social Progress Index rankings”. www.socialprogress.org .

  30. ^ a b

    “2020 Social Progress Index rankings”

    (PDF)

    . www.socialprogress.org .

  31. ^ a b

    Global Firepower. “Defense Spending by Country (2021)”. www.globalfirepower.com.

  32. ^

    Trần Hoài (QĐND) (1 tháng 11 năm 2021). “Hàn Quốc “lặng lẽ” lọt Top 10 các quốc gia xuất khẩu vũ khí”. www.qdnd.vn.

  33. ^

    The Global Economy & Stockholm International Peace Research Institute. “Arms exports – Country rankings”. www.theglobaleconomy.com.

  34. ^

    Sheridan, Greg (27 tháng 11 năm 2008). “The plucky country and the lucky country draw closer”. www.theaustralian.news.com.au.

  35. ^

    Jongryn Mo (JSTOR Collection). “South Korea’s middle power diplomacy”. www.jstor.org.

  36. ^ a b

    President Obama Vows Strengthened U.S.-South Korea Ties Lưu trữ 2009-07-04 tại Wayback Machine 2 Apr 2009. Embassy of the United States, Seoul.

  37. ^

    Vũ Hoàng (theo NY Times) (5 tháng 11 năm 2021). “Làn sóng Hàn Quốc càn quét thế giới”. vnexpress.net.

  38. ^

    Hoàng Phong (theo Bloomberg) (31 tháng 5 năm 2021). “Giới trẻ Hàn Quốc lười kết hôn, ngại sinh con”. vnexpress.net.

  39. ^

    Thùy Linh (theo Koreantimes) (24 tháng 6 năm 2020). “Giới trẻ Hàn Quốc nghĩ ‘sinh con là không cần thiết

    ”. vnexpress.net.

  40. ^

    Jung Suk-yee (31 tháng 8 năm 2020). “Korean Society Is Aging Rapidly”. www.businesskorea.co.kr.

  41. ^

    Claire Lee (8 tháng 11 năm 2018). “Human rights report says Korea has ‘serious racism problem

    ”. www.koreaherald.com.

  42. ^

    Katrin Park (17 tháng 11 năm 2020). “South Korea Struggles to Confront Its Own Racial Prejudices”. foreignpolicy.com.

  43. ^ a b

    Hồng Hạnh (Theo Reuters) (13 tháng 5 năm 2019). “Làn sóng cử nhân thất nghiệp đổ xô ra nước ngoài của Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  44. ^

    Julian Ryall (15 tháng 9 năm 2020). “South Korea’s soaring suicide, self-harm rates pinned on pandemic”. www.dw.com.

  45. ^

    David D. Lee & Park Chan-kyong (13 tháng 12 năm 2020). “Young South Korean women are turning to suicide in ever greater numbers. Covid-19 is just the start of their problems”. www.scmp.com.

  46. ^ a b

    SCMP/Reuters (3 tháng 12 năm 2019). “Thanh niên Hàn Quốc chật vật trong phân hóa giàu nghèo”. vnexpress.net .

  47. ^

    Yunn, Seung-Yong (1996), “Muslims earlier contact with Korea”, Religious culture of Korea, Hollym International, tr. 99

  48. ^

    Seth, Michael J (2010). Lịch sử Hàn Quốc: Từ thời cổ đại đến nay. Rowman & Littlefield Publishers. tr. 225. ISBN 978-0742567160.

  49. ^

    An Chi. Sông Hán và Hàn Quốc. Ngày 10 tháng 12 năm 2012.

  50. ^

    “Ancient civilizations” (Thông cáo báo chí). Canada: Royal Ontario Museum. 12 tháng 12 năm 2005 .

  51. ^

    “Prehistoric Korea”. About Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2008 .

    , Office of the Prime Minister.

  52. ^

    “News”. Royal Ontario Museum.

  53. ^

    Im, Hyo-jae 1995. Dữ liệu khảo cổ học mới liên quan đến mối quan hệ văn hóa giữa Hàn Quốc và Nhật Bản trong thời đại đồ đá mới. Korea Journal 35 (3):31-40.

  54. ^

    Im, Hyo-jae 2000. Hanguk Sinseokgi Munhwa [Văn hóa đồ đá mới ở Hàn Quốc]. Jibmundang, Seoul.

  55. ^

    Lee 2001

  56. ^

    Choe and Bale 2002

  57. ^

    KBS WORLD Radio (29 tháng 10 năm 2012). “Gwanggaeto, nhà chinh phục vĩ đại (Gwanggaeto, The Great Conqueror)”. rki.kbs.co.kr.

  58. ^

    Prehistoric Times – Gojoseon & Korean Cultural Center New York. “Korea Information – History: Three Kingdoms And Other State”. www.koreanculture.org.

  59. ^

    Conroy, Hilary. The Japanese Seizure of Korea, 1868-1910: A Study of Realism and Idealism in International Relations. Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 1960.

  60. ^

    “Korea’s Queen Min Killed by Japanese Assassins”. The History Channel.

  61. ^

    Duus, Peter (1998). Bàn tính và thanh kiếm: Sự thâm nhập của Nhật Bản vào Hàn Quốc. Nhà xuất bản Đại học California. ISBN 0-52092-090-2.

  62. ^

    Franklin Rausch, jckim (24 tháng 8 năm 2009). “Ahn Jung-geun – An ordinary man, an extra-ordinary life: Why Did Ahn Jung-geun Kill Hirobumi Ito?”. www.koreatimes.co.kr .

  63. ^

    Kimberly Amadeo (28 tháng 2 năm 2021). “Korean War Facts, Costs, and Timeline: The History of the War and How Much Money Was Spent”. www.thebalance.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2021 .

  64. ^ a b c d e f

    BBC News Vietnamese (28 tháng 5 năm 2019). “Lịch sử dân chủ hóa đẫm máu của Hàn Quốc”. www.bbc.com.

  65. ^

    “[한국갤럽 여론조사] ‘나라 잘 이끈 대통령’에 국민 44% “박정희

    ”. news.kmib.co.kr.

  66. ^

    Se Young Jang (17 tháng 7 năm 2017). “The Gwangju Uprising: A Battle over South Korea’s History”. www.wilsoncenter.org.

  67. ^

    Nguyễn Hạnh (theo BBC) (19 tháng 5 năm 2005). “Vụ thảm sát Kwangju ở Hàn Quốc và di sản”. vnexpress.net.

  68. ^

    Plunk, Daryl M. “South Korea’s Kwangju Incident Revisited.” Asian Studies Backgrounder No. 35 (September 16) 1985: p. 5.

  69. ^

    “Flashback: The Kwangju massacre”. BBC News. ngày 17 tháng 5 năm 2000.

  70. ^ a b

    “S. Korean junta punished civilians with military camp in early 1980s: Report”.

  71. ^ a b

    Ngọc Ánh (theo Reuters) (23 tháng 11 năm 2021). “Cựu tổng thống Hàn Quốc Chun Doo-hwan qua đời”. vnexpress.net.

  72. ^

    “Two Decedes After Seoul Olympics”. Korea Times. ngày 30 tháng 10 năm 2007.

  73. ^

    Gunnar Berge: Chairman of The Norwegian Nobel Committee. “The Nobel Peace Prize 2000: Kim Dae-jung”. www.nobelprize.org.

  74. ^

    Khánh Minh (19 tháng 2 năm 2020). “Cựu Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak bị kết án 17 năm tù”. laodong.vn.

  75. ^

    Demick, Barbara; Choi, Jung-yoon (19 tháng 12 năm 2012). “South Korea elects first female president”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0458-3035 .

  76. ^

    Choe Sang-hun (9 tháng 12 năm 2016). “South Korea Parliament Votes to Impeach President Park Geun-hye”. The New York Times .

  77. ^

    Sang-hun, Choe (9 tháng 3 năm 2017). “South Korea Removes President Park Geun-hye”. The New York Times .

  78. ^

    Phan Yến (theo Korea Times) (31 tháng 3 năm 2017). “Các đời Tổng thống Hàn Quốc: Người tự vẫn, người ngồi tù”. www.tienphong.vn.

  79. ^

    Thành Đạt (27 tháng 3 năm 2018). “Vòng xoáy lao lý của các cựu tổng thống Hàn Quốc”. dantri.com.vn.

  80. ^

    Vũ Hoàng (theo Guardian, Straits Times, New York Times) (10 tháng 7 năm 2020). “Loạt bê bối tình dục từng rúng động Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  81. ^ a b

    “Hàn Quốc trục xuất một Hàn kiều vì dám ca ngợi Triều Tiên”. Một Thế giới. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2015 .

  82. ^ a b

    Huyền Lê (theo AFP) (4 tháng 5 năm 2021). “Hồi ký Kim Nhật Thành gây tranh cãi ở Hàn Quốc (đoạn 9)”. vnexpress.net.

  83. ^ a b

    CHOE SANG-HUN (10 tháng 1 năm 2015). “South Korea Deports American Over Warm Words for Trips to North” (bằng tiếng Anh). The New York Times .

  84. ^ a b

    “South Korea to deport Korean-American accused of praising North”. www.theguardian.com. The Guardian.

  85. ^

    McCurry, Justin (ngày 15 tháng 8 năm 2019). “Korean peninsula will be united by 2045, says Seoul amid Japan row”. The Guardian .

  86. ^

    Phương Anh (16 tháng 9 năm 2017). “Triều Tiên ngồi trên nguồn tài nguyên khoáng sản trị giá 10.000 tỷ USD”. thanhnien.vn.

  87. ^

    Hwang, Kyung Moon A History of Korea, London: Macmillan, 2010 page 230.

  88. ^

    “Park Chung-hee Quotes”. BrainyQuote.

  89. ^

    Michael Schuman (2009). The Miracle. The Epic Story of Asia’s Quest for Wealth. HarperCollins Publishers. New York. Tr. 36

  90. ^

    Lie, Han Unbound, 73.

  91. ^

    Woo, Race to the Swift, 132.

  92. ^

    Michael Schuman (2009). Sđd. Tr. 31.

  93. ^

    Developmental Dictatorship and the Park Chung-hee Era p. 253 (Homa & Sekey, 2006)

  94. ^

    Developmental Dictatorship and the Park Chung-hee Era p. 258 (Homa & Sekey, 2006)

  95. ^

    Ku, Su-Jeong (2 tháng 9 năm 1999). “The secret tragedy of Vietnam”. The Hankyoreh .

  96. ^

    Developmental Dictatorship and the Park Chung-hee Era p. 260 (Homa & Sekey, 2006)

  97. ^

    Developmental Dictatorship and the Park Chung-hee Era p. 248 (Homa & Sekey, 2006)

  98. ^

    “Chapter VI: The Republic of Korea”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2010 .

  99. ^

    Tucker, Spencer, ed. Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History. Oxford, UK: Oxford University Press, 1998. tr 902

  100. ^

    Tucker, Spencer, ed. Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History. Oxford, UK: Oxford University Press, 1998. tr 64

  101. ^ a b c d e f

    yhchoi65 (2 tháng 7 năm 2008). “[책갈피 속의 오늘]1965년 전투병 베트남 파병 의결”. www.donga.com.

  102. ^

    Cumings, Bruce. Korea’s Place in the Sun: a Modern History. New York: Norton, 2005. Print.

  103. ^

    Eighth US Army Chronology 1972

    (PDF)

    (Bản báo cáo). tr. 22–24 – qua Nautilus Institute for Security and Sustainability.

  104. ^

    “A Perspective on Korea’s Participation in the Vietnam War”.

  105. ^

    American Studies Association. “The Legacies of Korean Participation in the Vietnam War: The Rise of Formal Dictatorship”. www.allacademic.com .

  106. ^

    Nguyễn Văn Thịnh (8 tháng 7 năm 2017). “Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 456: Chuyện người chuyện ta”. tuanbaovannghetphcm.vn.

  107. ^

    Stewart Peter Lone and Gavan McCormack, Korea since 1850 (Melbourne, Australia: Longman, 1994), 148.

  108. ^

    T. W. Kang, Is Korea the Next Japan? Understanding the Structure, Strategy, and Tactics of America’s Next Competitor (New York: The Free Press, 1989), cited in Byoung-lo Philo Kim, Two Koreas in Development: A Comparative Study of Principles and Strategies of Capitalist and Communist Third World Development, (New Brunswick, NJ: Transaction, 1992), 193.

  109. ^

    Inglehart, Ronald & Christian Welzel (2009). How Development Leads to Democracy. “Foreign Affairs”, March/ April.

  110. ^

    “Park Chung-hee Quotes”. BrainyQuote.

  111. ^

    “Ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hoá gia đình Hàn Quốc hiện đại (Phần 1)”. cks.inas.gov.vn. Trung Tâm Nghiên Cứu Hàn Quốc.

  112. ^

    “South Korea – Society under Park”. countrystudies.us.

  113. ^

    Hà Thu. “Gyeongbu – cao tốc được làm bằng ý chí của người Hàn”. vnexpress.net.

  114. ^ a b

    Hwang, Kyung Moon A History of Korea, London: Macmillan, 2010 page 244.

  115. ^

    Ana Maria Santacreu (20 tháng 3 năm 2018). “How Did South Korea’s Economy Develop So Quickly?”. www.stlouisfed.org .

  116. ^ a b

    Eichengreen, et al., From Miracle to Maturity, 44–45.

  117. ^

    Kleiner, Jürgen (2001). Korea, A Century of Change. River Edge, NJ: World Scientific. ISBN 978-981-02-4657-0.

  118. ^

    “chaebol”. Merriam-Webster .

  119. ^ a b

    Jung, Dong-Hyeon (ngày 1 tháng 8 năm 2004). “Korean Chaebol in Transition”. Sage. 40 (3): 299–303. doi:10.1177/000944550404000306. S2CID 154720682 .

  120. ^

    Moskalev, Sviatoslav; Park, Seung Chan (2010). “South Korean Chaebols and Value-Based Management”. Journal of Business Ethics. 92: 49–62. doi:10.1007/s10551-009-0138-5. S2CID 154121368.

  121. ^

    Coverage of Roh Moo-hyun campaign financing scandal: Donald Macintyre (1 tháng 12 năm 2003). “Losing Face”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2013 .

  122. ^

    Hyondok Choi (2011). Sđd. Tr. 104-105.

  123. ^

    Hàn Quốc bắt đầu giảm thời gian làm việc tối đa xuống 52 giờ/tuần, KBS WORLD, 2018-07-02

  124. ^ a b c d e f

    Geography of Korea, Asia Info Organization

  125. ^

    행정구역(구시군)별 국토적. Korea Statistical Information Service (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2004 .

  126. ^

    “Korea’s Geography (Land, Territory, Landforms, Climate and Weather, Four Seasons)”. www.asianinfo.org.

  127. ^

    Peter Prokosch. “The Tidal Flats of the Yellow Sea within the East Asia Pacific Flyway of Coastal Birds: Saemangeum Seawall, built at the expense of international important tidal flats, South Korea”. www.grida.no.

  128. ^

    “Korea National Park Service official site” .

  129. ^

    South Korea climate Lưu trữ 30 tháng 3 2014 tại Wayback Machine, U.S. Library of Congress, Country studies

  130. ^

    Climate data in seoul, 1971 ~ 2000

    (tiếng Triều Tiên)

    , Korea Meteorological Administration.

  131. ^

    Haberman, Clyde (30 tháng 9 năm 1984). “North Korea Delivers Flood Aid Supplies to the South”. The New York Times .

  132. ^ a b

    “Korea Air Pollution Problems”. American University of Washington. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2010 .

  133. ^

    Randolph T. Hester (28 tháng 8 năm 2009). “Letter to Lee administration: Save the Songdo Tidal Flat”. The Hankyoreh. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011 .

  134. ^

    Wang, Ucilla (28 July 2008 ) South Korea Boosts Renewable-Energy Investments by 60%. Greentechmedia.com

  135. ^

    “South Korea’s green new deal”. CNN.com. 18 tháng 10 năm 2009 .

  136. ^

    R&D status and prospects on fuel cells in Korea. fuelcellseminar.com

  137. ^

    Renewable Energy Policy Mechanisms by Paul Gipe Lưu trữ 10 tháng 5 2012 tại Wayback Machine (1.3MB)
    Lauber, V. (2004). “REFIT and RPS: Options for a harmonized Community framework”, Energy Policy, Vol. 32, Issue 12, pp. 1405–1414.
    Lauber, V. (2008). “Certificate Trading – Part of the Solution or Part of the Problem?”
    Ljubljana Conference on the Future of GHG Emissions Trading in the EU, March 2008. Salzburg, Austria: University of Salzburg. Retrieved 16 March 2009 at www.uni-salzburg.at/politikwissenschaft/lauber

  138. ^

    The fuel cell industry review 2012. fuelcelltoday.com.

  139. ^

    Cha, Josh Smith, Sangmi (8 tháng 6 năm 2020). “Jobs come first in South Korea’s ambitious ‘Green New Deal’ climate plan”. Reuters (bằng tiếng Anh) .

  140. ^

    Herald, The Korea (8 tháng 9 năm 2020). “Moon vows to shut down 30 more coal plants to bring cleaner air and battle climate change”. www.koreaherald.com (bằng tiếng Anh) .

  141. ^

    “Seoul City holds 2nd Arisu Festival to show tap water is safe to drink”. Newsworld. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007.

  142. ^

    “Seoul Metropolitan Government – “A Clean, Attractive & Global City, Seoul!

    ”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2009.

  143. ^

    Grantham, H. S.; và đồng nghiệp (2020). “Anthropogenic modification of forests means only 40% of remaining forests have high ecosystem integrity – Supplementary Material”. Nature Communications. 11 (1): 5978. doi:10.1038/s41467-020-19493-3. ISSN 2041-1723. PMC 

    7723057

    . PMID 33293507.

  144. ^

     

     Bài viết này kết hợp các tài liệu thuộc phạm vi công cộng từ website hay thư mục thuộc CIA World Factbook.

  145. ^

    “Party Groupings”. United Nations Framework Convention on Climate Change. 28 tháng 11 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2013 .

  146. ^ a b

    Cox, Wendell (4 tháng 11 năm 2019). “2019 DEMOGRAPHIA WORLD URBAN AREAS: POPULATION, LAND AREA & URBAN DENSITIES”. www.newgeography.com .

  147. ^

    PricewaterhouseCoopers. “The 150 richest cities in the world by GDP in 2020: Richest cities and urban areas in 2020”. www.citymayors.com.

  148. ^

    Milken Institute. “Worlds Best Cities: Best Performing Cities 2020”. www.bestcities.org.

  149. ^

    2015년 인구주택총조사 전수집계결과 보도자료 [2015 Population and Housing Census]. Statistics Korea.

  150. ^

    “Japan, South Korea And Taiwan Upgraded To “Full Democracies” In The EIU’s 2020 Democracy Index”. Scoop News Group .

    “S. Korea Reclassified as “Full Democracy” on EIU’s Global Democracy Index 2020”. KBS World .

  151. ^

    KBS WORLD Radio & YONHAP News (3 tháng 2 năm 2021). “S. Korea Reclassified as “Full Democracy” on EIU’s Global Democracy Index 2020”. world.kbs.co.kr.

  152. ^

    Transparency International. “Corruption Perceptions Index 2020 for South Korea”. www.transparency.org.

  153. ^

    GlobalSecurity on Military of Republic of Korea, Globalsecurity.org

  154. ^

    Grace Oh (Yonhap) (16 tháng 1 năm 2021). “S. Korea’s military strength 6th in world: report”. en.yna.co.kr.

  155. ^

    Bhupinder Singh (3 tháng 3 năm 2021). “21 Strongest Militaries Around The World In 2021 You Should Know About”. www.indiatimes.com.

  156. ^

    Global Firepower. “2021 Military Strength Ranking”. www.globalfirepower.com.

  157. ^

    “South Korea’s Armed Forces, CSIS (Page 24)”

    (PDF)

    . ngày 25 tháng 7 năm 2006. Bản gốc

    (PDF)

    lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018.

  158. ^

    Tian, Nan; Fleurant, Aude; Kuimova, Alexandra; Wezeman, Pieter D.; Wezeman, Siemon T. (ngày 27 tháng 4 năm 2020). “Trends in World Military Expenditure, 2019”

    (PDF)

    . Stockholm International Peace Research Institute .

  159. ^

    Nan Tian, Alexandra Kuimova, Diego Lopes da Silva, Pieter D. Wezeman, Siemon T. Wezeman. “TRENDS IN WORLD MILITARY EXPENDITURE, 2019”

    (PDF)

    . www.sipri.org.

  160. ^

    Duffin, Erin (11 tháng 5 năm 2020). “The 15 countries with the highest military spending worldwide in 2019”. www.statista.com .

  161. ^

    최수향 (ngày 2 tháng 12 năm 2020). “S. Korea’s defense budget rises 5.4 pct to 52.8 tln won in 2021”. Yonhap News Agency (bằng tiếng Anh) .

  162. ^

    수정 2016.11.14 16:14, 입력 2016 11 13 00:01 (13 tháng 11 năm 2016). “[커버스토리] 대한민국임시정부가 만든 광복군, 어떤 군대였을까”. 중앙일보 (bằng tiếng Hàn) .

  163. ^

    “North Korea vs South Korea”. 22 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2013 .

  164. ^

    “OPLAN 5027 Major Theater War – West”. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2013.

  165. ^

    Caleb Larson (10 tháng 4 năm 2020). “K2 Black Panther: The Most Expensive Tank in the World”. nationalinterest.org.

  166. ^

    SuccessStory. “Most Expensive Tanks”. successstory.com.

  167. ^

    Duy Sơn (21 tháng 4 năm 2017). “Thiết giáp lưỡng cư có khả năng diệt trực thăng của Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  168. ^

    David Hambling (Aerospace & Defense) (4 tháng 12 năm 2020). “Why South Korea Is Building Robotic Artillery”. www.forbes.com.

  169. ^

    Báo điện tử Hà Nội mới (theo BBC). “Robot sát thủ của Hàn Quốc”. www.hanoimoi.com.vn.

  170. ^

    Nguyễn Tiến (theo Hanwha Defense) (19 tháng 10 năm 2021). “Robot Hàn Quốc nghe súng địch để khóa mục tiêu”. vnexpress.net.

  171. ^

    World Population Review. “Largest Navies In The World 2021”. worldpopulationreview.com.

  172. ^

    PickyTop (3 tháng 8 năm 2021). “Top 10 Largest Navies in the World”. pickytop.com.

  173. ^

    Military-Today. “Top 10 Navies in the World”. www.military-today.com.

  174. ^

    Vũ Anh (theo Yonhap) (7 tháng 9 năm 2021). “Tàu ngầm Hàn Quốc lần đầu phóng tên lửa đạn đạo”. vnexpress.net.

  175. ^

    Dominguez, Gabriel; Kim, Dae Young (24 tháng 2 năm 2021). “South Korea to begin work on light aircraft carrier in 2022”. Janes (bằng tiếng Anh) .

  176. ^

    “[제주해군기지 준공] 대양해군 전초기지 역할 ‘톡톡

    ”. jeju.news1.kr (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019 .

  177. ^ a b

    Mộc Miên (21 tháng 4 năm 2020). “Thủy quân lục chiến Hàn Quốc: Nơi tạo nên những “con sói biển” nguy hiểm”. www.doisongphapluat.com .

  178. ^

    “대한민국 해병대”. www.rokmc.mil.kr .

  179. ^

    Lê Ngọc (theo special-ops) (25 tháng 11 năm 2020). “5 lực lượng lính thủy đánh bộ danh tiếng nhất thế giới”. vov.vn.

  180. ^

    World Population Review. “Largest Air Forces In The World 2021”. worldpopulationreview.com.

  181. ^

    Nancy Levin (4 tháng 12 năm 2018). “10 Largest Air Forces in the World”. largest.org.

  182. ^

    KBS WORLD Radio (26 tháng 5 năm 2011). “Hàn Quốc ký kết xuất khẩu máy bay huấn luyện siêu âm T-50 sang Indonesia”. world.kbs.co.kr.

  183. ^

    TTXVN (26 tháng 5 năm 2011). “Indonesia nhập máy bay siêu thanh của Hàn Quốc”. vov.vn.

  184. ^

    Vũ Anh (23 tháng 12 năm 2019). “Hàn Quốc nhận UAV hơn 120 triệu USD”. vnexpress.net .

  185. ^

    Vũ Anh (theo Reuters) (9 tháng 4 năm 2021). “Hàn Quốc ra mắt tiêm kích đắt nhất lịch sử”. vnexpress.net.

  186. ^

    Thế Việt (theo Yonhap) (21 tháng 7 năm 2020). “Hàn Quốc ghi tên vào danh sách 10 quốc gia có vệ tinh liên lạc quân sự”. baoquocte.vn.

  187. ^

    Phương Anh (theo Yonhap) (25 tháng 8 năm 2016). “KATUSA: Biểu tượng quan hệ đồng minh Mỹ-Hàn”. baotintuc.vn.

  188. ^

    Heo, Man-ho (25 tháng 3 năm 2009). “North Korea’s Continued Detention of South Korean POWs since the Korean and Vietnam Wars North Korea’s Continued Detention of South Korean POWs since the Korean and Vietnam Wars”. Man-ho Heo. 14 (2): 141–165. doi:10.1080/10163270209464030.

  189. ^

    Sohn Suk-joo (21 tháng 9 năm 2006). “S. Korea split over whether to keep Zaytun Division in Kurdistan-Iraq”. ekurd.net.

  190. ^

    JungSung-ki (25 tháng 6 năm 2008). “S. Korean Troops in Lebanon Honored”. The Korea Times .

  191. ^

    Department Global Communication and Contents Division. “International Relations”. www.korea.net.

  192. ^

    McCurry, Justin (ngày 15 tháng 8 năm 2019). “Korean peninsula will be united by 2045, says Seoul amid Japan row”. The Guardian .

  193. ^

    “통일연구원”. www.kinu.or.kr .

  194. ^

    2014 World Service Poll Lưu trữ 2015-03-05 tại Wayback Machine BBC

  195. ^

    Vietnam+ (31 tháng 12 năm 2019). “Hàn Quốc là quốc gia viện trợ nhiều nhất cho Triều Tiên trong năm 2019”. www.vietnamplus.vn.

  196. ^

    “South Korea Country Profile”. MIT. ngày 10 tháng 3 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2019 .

  197. ^

    Trọng Thuấn (theo AFP) (9 tháng 3 năm 2019). “Bóng ma thực dân Nhật Bản và sự chia rẽ 100 năm chưa nguôi ở Hàn Quốc”. zingnews.vn.

  198. ^

    The official Dokdo site by Gyeonsangbuk-do Province of Republic of Korea Official videos and a few more promotional materials in many languages.

  199. ^

    Dokdo in the East Sea Detailed consideration, old maps and other resources on Dokdo Historical Issues by Northeast Asian History Foundation, in 4 languages

  200. ^

    The Issue of Takeshima The Ministry of Foreign Affairs of Japan

  201. ^

    Denyer, Simon (ngày 29 tháng 11 năm 2018). “S. Korea oourt orders Japan’s Mitsubishi to pay compensation for wartima labor” [Phán quyết mới của tòa án Hàn Quốc chọc giận Nhật Bản, khủng hoảng sâu sắc giữa các đồng minh thân thiết nhất Thái Bình Dương của Mỹ]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2019 .

  202. ^

    “Mitsubishi Heavy ordered to compensate forced S Korean war workers” [Mitsubishi Heavy bị yêu cầu phải bồi thường cho những lao động bị cưỡng ép người Hàn Quốc]. BBC (bằng tiếng Anh). ngày 29 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2018 .

  203. ^

    “Nhật đưa Hàn Quốc khỏi ‘danh sách trắng’ hưởng ưu đãi xuất khẩu”. Báo Tuổi Trẻ. Ngày 2 tháng 8 năm 2019.

  204. ^

    “Hàn Quốc loại Nhật Bản khỏi danh sách đối tác thương mại tin cậy”. Báo điện tử đài truyền hình Việt Nam VTV. Ngày 12 tháng 8 năm 2019.

  205. ^

    Ánh Ngọc (theo SCMP). “Làn sóng tẩy chay hàng Nhật Bản tại Hàn Quốc giữa căng thẳng thương mại”. vnexpress.net.

  206. ^

    Bảo Anh (theo SCMP). “Hàn Quốc cảnh báo Nhật Bản không hạn chế xuất khẩu công nghệ cao”. vnexpress.net.

  207. ^ a b

    Hà Thu (theo Diplomat/CNN). “Căng thẳng thương mại Nhật – Hàn ngày càng trầm trọng”. vnexpress.net.

  208. ^

    Vũ Anh (theo AFP). “Hàn Quốc ngừng chia sẻ tin tình báo với Nhật”. vnexpress.net.

  209. ^

    Như Phúc (theo CNN). “Mâu thuẫn Nhật – Hàn đe dọa nguồn cung chip nhớ toàn cầu”. vnexpress.net.

  210. ^

    Bảo Anh (theo Bloomberg, Reuters). “Các hãng công nghệ có thể rơi vào cuộc chiến thương mại mới”. vnexpress.net.

  211. ^

    Bảo Lâm (theo CNBC). “Xung đột Nhật – Hàn có thể đẩy giá smartphone lên cao”. vnexpress.net.

  212. ^

    “韓国政府による日本文化開放政策(概要)” [Chính sách mở văn hóa đại chúng Nhật Bản của chính phủ Hàn Quốc (bản thảo)]. Đại sứ quán Nhật Bản tại Hàn Quốc (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2010.

  213. ^

    “정병국 “일본 드라마 개방할 때 됐다”(종합)” [Chung Byoung-guk: ‘Đã đến lúc mở cửa cho phim truyền hình Nhật Bản’]. www.yna.co.kr (bằng tiếng Hàn).

  214. ^

    Yonhap News. <芸能>韓国アイドルの新曲 日本語使用で「放送不適合」 2014/04/03

  215. ^

    Ashcraft, Brian. “Korean TV Network Bans Pop Song for Using Japanese”. Kotaku (bằng tiếng Anh) .

  216. ^

    . “<芸能>韓国アイドルの新曲 日本語使用で「放送不適合」”. jp.yna.co.kr.

  217. ^

    Kenta Kawasaki (Fuji News Network). “今や韓国に完敗!? 日本の大衆文化開放から20年”. www.fnn.jp (bằng tiếng Nhật).

  218. ^

    Kristof, Nicholas D. (24 tháng 8 năm 1992). “Chinese and South Koreans Formally Establish Relations”. The New York Times.

  219. ^

    Tselichtchev, Ivan (8 tháng 10 năm 2017). “Beyond THAAD: the real reason why China is angry with South Korea”. www.scmp.com .

  220. ^

    “Background Briefing with a Senior Administration Official on National Security Advisor Susan Rice’s Visit to China ngày 26 tháng 7 năm 2016.” Beijing/China. Embassy of the United States, n.d. Web.

  221. ^

    “Lotte của Hàn Quốc đành rút khỏi Trung Quốc”. www.bbc.com/vietnamese. 15 tháng 9 năm 2017 .

  222. ^

    Mullen, Jethro; Han, Sol (ngày 7 tháng 3 năm 2017). “One company is bearing the brunt of China’s anger over U.S. missile system”. CNN Money .

  223. ^

    Hernandez, Javier; Guo, Owen; McMorrow, Ryan (ngày 9 tháng 3 năm 2017). “South Korean Stores Feel China’s Wrath as U.S. Missile System Is Deployed”. The New York Times .

  224. ^

    News Agencies (23 tháng 12 năm 2019). “South Korea and China look to improve ties after THAAD dispute”. www.aljazeera.com .

  225. ^

    Tisdall, Simon. “Wikileaks Cables Reveal China ‘ready to Abandon North Korea'” The Guardian, 29 Nov. 2010. Web. 7 Dec. 2010.<https://www.theguardian.com/world/2010/nov/29/wikileaks-cables-china-reunified-korea>

  226. ^

    “People around the globe are divided in their opinions of China”. Pew Research Center. ngày 30 tháng 9 năm 2019.

  227. ^ a b

    Thanh Tâm (theo SCMP) (15 tháng 4 năm 2021). “Người Hàn ngày càng mất thiện cảm với Trung Quốc”. vnexpress.net.

  228. ^

    Choe Sang-Hun (The New York Times) (20 tháng 8 năm 2021). “South Koreans Now Dislike China More Than They Dislike Japan”. www.nytimes.com.

  229. ^

    Hồng Hạnh (theo Guardian) (1 tháng 12 năm 2020). “Dân Trung – Hàn đấu khẩu vì kimchi”. vnexpress.net.

  230. ^

    Josephine Tee, Elaine Yau & Jonathan Wong (12 tháng 2 năm 2021). “Chinese niangao vs Korean tteokbokki – which rice cake dish came first, and what’s the origin story of the tasty Lunar New Year staple?”. www.scmp.com.

  231. ^

    Quốc Thắng (17 tháng 2 năm 2019). “

    Ông Park là cầu nối mạnh nhất giữa Việt Nam – Hàn Quốc

    ”. tuoitre.vn.

  232. ^

    Mai Trâm (ngày 19 tháng 5 năm 2019). “Cầu Vàm Cống khánh thành, nối liền Cần Thơ và Đồng Tháp”. Thanh Niên .

  233. ^

    Thanh Thủy (26 tháng 11 năm 2019). “Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam: Samsung Electronics Thái Nguyên vẫn “giữ chặt” ngôi vương”. baodautu.vn .

  234. ^

    Ngọc Hiển (16 tháng 1 năm 2019). “Doanh nghiệp FDI đứng đầu danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất VN”. tuoitre.vn .

  235. ^

    Ambitious Man (15 tháng 3 năm 2019). “Samsung đóng góp tới 28% tổng GDP của Việt Nam năm 2018”. vnreview.vn .

  236. ^

    Hoàng Nam (16 tháng 5 năm 2016). “Hà Nội đưa tiếng Hàn Quốc vào chương trình cấp THCS và THPT”. vov.vn.

  237. ^

    Thanh Hùng (4 tháng 3 năm 2021). “Giáo dục: Tiếng Hàn trở thành môn học ‘bắt buộc’ từ lớp 3”. vietnamnet.vn.

  238. ^

    Dương Tâm (4 tháng 10 năm 2020). “Một ngành học lấy điểm chuẩn là 30”. vnexpress.net.

  239. ^

    Dương Tâm (18 tháng 9 năm 2021). “Điểm chuẩn các ngành tiếng Hàn Quốc vượt trội”. vnexpress.net.

  240. ^

    Trung Nhân (23 tháng 3 năm 2022). “Chủ tịch nước điện đàm với Tổng thống đắc cử Hàn Quốc”. vnexpress.net .

  241. ^

    “South Korea – Trade – European Commission”. European Commission .

  242. ^

    Ramon Pacheco Pardo, Linde Desmaele and Maximilian Ernst (tháng 10 năm 2018). “Putting the EU-South Korea partnership to ‘work”.

  243. ^

    Hữu Tuyên (TTXVN) (31 tháng 1 năm 2020). “Hàn Quốc, EU nhất trí hợp tác chặt chẽ trong vấn đề Bán đảo Triều Tiên”. baotintuc.vn.

  244. ^

    Phương Oanh (TTXVN) (24 tháng 6 năm 2021). “Hàn Quốc, EU tăng cường quan hệ quốc phòng”. baotintuc.vn.

  245. ^

    Vũ Hoàng (theo Kyodo) (29 tháng 6 năm 2020). “Nhật phản đối Hàn Quốc tham gia G7”. vnexpress.net.

  246. ^ a b

    Valentin Voloshchak (9 tháng 1 năm 2019). “A Closer Look at South Korea’s Plan for Cooperation With Russia”. thediplomat.com .

  247. ^

    Thảo Nguyên (23 tháng 6 năm 2018). “Nga – Hàn Quốc tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực”. nhandan.vn.

  248. ^

    TASS (29 tháng 3 năm 2021). “Russian, South Korean defense officials agree to expand cooperation”. tass.com .

  249. ^

    Adams, Rod. “Moon Jae-in Making Friends By Importing More Gas”. Forbes .

  250. ^

    “Are Warming Russia-South Korea Relations a Game-changer?”. The Diplomat. ngày 18 tháng 7 năm 2018.

  251. ^

    “South Korea, Russia to begin preparations for FTA negotiations: Moon”. The Straits Times. ngày 22 tháng 6 năm 2018.

  252. ^

    Vũ Anh (8 tháng 11 năm 2019). “Mỹ muốn Hàn Quốc trả gần 5 tỷ USD ‘phí bảo vệ

    ”. vnexpress.net .

  253. ^

    Ánh Ngọc (15 tháng 11 năm 2019). “Mỹ nói Hàn Quốc giàu, cần chi thêm ‘phí bảo vệ

    ”. vnexpress.net .

  254. ^

    Huyền Lê (10 tháng 2 năm 2019). “Hàn Quốc chấp thuận gánh thêm chi phí quân sự với Mỹ”. vnexpress.net .

  255. ^

    Vũ Anh (8 tháng 8 năm 2019). “Trump: Hàn Quốc đồng ý trả thêm ‘phí bảo vệ’ cho Mỹ”. vnexpress.net .

  256. ^

    Phương Vũ (19 tháng 12 năm 2019). “Mỹ – Hàn bất đồng về ‘phí bảo vệ

    ”. vnexpress.net .

  257. ^

    Vũ Anh (theo Reuters) (10 tháng 3 năm 2021). “Hàn Quốc trả hơn một tỷ USD ‘phí bảo vệ’ cho Mỹ”. vnexpress.net.

  258. ^

    Tử Quỳnh (28 tháng 10 năm 2017). “Hàn Quốc đòi Mỹ trao quyền chỉ huy quân đội trong thời chiến”. vnexpress.net.

  259. ^ a b

    “Major Indicators of Korea”. Korean Statistical Information Service .

  260. ^

    “South Korea”. CIA Country Studies .

  261. ^

    World Population Review. “Seoul Population 2021”. worldpopulationreview.com.

  262. ^

    Populations for all cities tính đến năm 2005[cập nhật], “Summary of Census Population (by administrative district/sex/age)”. NSO Database. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2010 .

  263. ^

    Anh Minh (Theo CNN) (7 tháng 1 năm 2021). “Ba nước châu Á đứng top đầu hộ chiếu quyền lực nhất 2021”. vnexpress.net.

  264. ^

    Ngọc Ánh (theo Hindustan Times) (7 tháng 10 năm 2021). “Mỹ tiếp tục rớt khỏi top 5 hộ chiếu quyền lực thế giới”. vnexpress.net.

  265. ^

    Phạm Huyền (22 tháng 2 năm 2018). “Hàn Quốc lập kỷ lục khi sở hữu hộ chiếu quyền lực nhất thế giới”. vnexpress.net .

  266. ^

    Kim Rahn (ngày 22 tháng 5 năm 2009). “South Korea’s birthrate world’s lowest”. The Korea Times. Seoul .

  267. ^

    “South Korea: Lowest Birthrate in the World”. LifeSiteNews. ngày 28 tháng 8 năm 2006 .

  268. ^

    “South Korea”. CIA World Factbook. ngày 26 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2015 .

  269. ^

    Anh Ngọc (Theo Bloomberg). “Hàn Quốc đau đầu trước xu hướng phụ nữ quay lưng với hôn nhân”. vnexpress.net.

  270. ^

    “Childbirths in S. Korea grow 5.7 pct in 2010” Lưu trữ 2012-05-26 tại Wayback Machine. Yonhap News Agency. ngày 24 tháng 8 năm 2011.

  271. ^

    “Korea’s Total Fertility Rate Still Near the Bottom of the World” Lưu trữ 2011-11-19 tại Wayback Machine. The Chosun Ilbo. ngày 17 tháng 11 năm 2011.

  272. ^

    “The World Factbook”. CIA. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018 .

  273. ^

    Life expectancy at birth, total (years) |Data |Table. Data.worldbank.org. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2016.

  274. ^

    Leipziger, Danny (ngày 6 tháng 2 năm 2014). “South Korea’s Japanese Mirror”. The Diplomat. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2014 .

  275. ^

    An Hồng. “Thanh niên Hàn Quốc ngại hẹn hò, sợ kết hôn, không sinh con”. vnexpress.net.

  276. ^

    Hồng Hạnh (theo CNN/FT). “Hàn Quốc đối mặt tỷ lệ sinh thấp kỷ lục”. vnexpress.net.

  277. ^

    Hoài Thu (11 tháng 7 năm 2021). “

    Thế hệ Sampo” Hàn Quốc: Thích sống độc thân, không sinh con”. baophapluat.vn.

  278. ^

    Park, Hyejeong (1 tháng 2 năm 2012). “20’s and 30’s, four in every 10 people “I’m a Sampo Generation (20~30대 10명중 4명 “나는 삼포세대”)”. asia economy. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014 .

  279. ^

    Mai Lâm (7 tháng 12 năm 2019). “Những cô gái thề ‘chết cũng không lấy chồng

    ”. vnexpress.net .

  280. ^

    Hồng Hạnh (14 tháng 7 năm 2019). “Chính sách thúc đẩy đàn ông Hàn Quốc ‘mua’ cô dâu nước ngoài”. vnexpress.net .

  281. ^

    Ngọc Ánh (theo Korea Times) (31 tháng 5 năm 2021). “Thành phố Hàn khuyến khích nông dân cưới du học sinh Việt”. vnexpress.net.

  282. ^

    “문서뷰어”. viewer.moj.go.kr.

  283. ^

    An Hồng (20 tháng 11 năm 2017). “Phụ nữ Việt trở thành nhóm cô dâu ngoại quốc đông nhất Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  284. ^

    Anh Ngọc (1 tháng 3 năm 2018). “Hơn 70% cô dâu ngoại ở Hàn Quốc là người Việt”. vnexpress.net.

  285. ^

    Việt Anh (5 tháng 9 năm 2018). “Mỗi năm có 6.000 cô dâu Việt đến Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  286. ^

    Tạ Lư (12 tháng 7 năm 2019). “Thực trạng cô dâu ngoại ở Hàn Quốc”. vnexpress.net .

  287. ^

    Vũ Hoàng (11 tháng 7 năm 2019). “Những cô dâu ngoại bị chối bỏ ở Hàn Quốc”. vnexpress.net .

  288. ^

    Thùy Linh (theo CNN). “Người Hàn Quốc quay cuồng trong áp lực làm thêm giờ”. vnexpress.net.

  289. ^

    An Hồng (29 tháng 5 năm 2017). “Cuộc chiến tìm việc gian nan của thanh niên Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  290. ^

    An Hồng (7 tháng 7 năm 2017). “Làn sóng người trẻ Hàn Quốc muốn rời khỏi đất nước”. vnexpress.net.

  291. ^

    “Japan’s suicide rate exceeds world average: WHO report The Japan Times”. The Japan Times .

  292. ^

    Young-ha Kim (2 tháng 4 năm 2014). “South Korea’s Struggle With Suicide”. www.nytimes.com.

  293. ^

    “North Korea’s suicide rate among worst in world, says WHO report”. the Guardian .

  294. ^ a b c

    Hoàng Phong (theo Korea Herald) (23 tháng 6 năm 2021). “Người già Hàn Quốc chật vật mưu sinh”. vnexpress.net.

  295. ^

    Trần Phương (19 tháng 12 năm 2018). “Băng đảng thanh niên Hàn Quốc không đáng lo bằng… ‘tội phạm tóc bạc

    ”. tuoitre.vn .

  296. ^

    Anh Duy (19 tháng 12 năm 2018). “Làn sóng tội phạm “đầu bạc” phản ánh góc tối xã hội Hàn Quốc”. congan.com.vn .

  297. ^

    Hồng Hạnh. “Làm việc đến khi chết – bi kịch của người già Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  298. ^

    “Death rate from suicides”. Our World in Data .

  299. ^

    “Share of deaths from suicide”. Our World in Data .

  300. ^

    Värnik, Peeter (2012). “Suicide in the World”. International Journal of Environmental Research and Public Health. 9 (3): 760–771. doi:

    10.3390/ijerph9030760

    . PMC 

    3367275

    . PMID 22690161.

  301. ^

    Đăng Khoa (14 tháng 5 năm 2010). “Nạn tự tử tập thể ở Hàn Quốc”. plo.vn.

  302. ^

    Khóa học chết thử ở Hàn Quốc VnExpress. 11/7/2011. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.

  303. ^

    Thùy Linh (dịch theo Worldatlas) (24 tháng 10 năm 2019). “5 quốc gia người lao động phải làm việc nhiều nhất trên thế giới”. giadinhvietnam.com.

  304. ^

    Hồng Hạnh (6 tháng 7 năm 2017). “Làm việc tới chết ở Hàn Quốc”. vnexpress.net .

  305. ^

    Hendin, Herbert, Shuiyuan Xiao, Xianyun Li, Tran Thanh Huong, Hong Wang, and Ulrich Hegerl. “Suicide Prevention in Asia: Future Directions.” WHO. Truy cập November 4, 2014. http://www.who.int/mental_health/resources/suicide_prevention_asia_chapter10.pdf

  306. ^

    South Korea has the highest rate of deaths by suicide in the developed world — but a 2011 law helped decrease rates by 15% – Business Insider ngày 9 tháng 7 năm 2018

  307. ^

    “6 facts about Christianity in South Korea”.

  308. ^

    “International Religious Freedom Report 2008 – Korea, Republic of”. State.gov .

  309. ^

    “The Korea Times:Islam takes root and blooms”. Islamawareness.net. ngày 22 tháng 11 năm 2002 .

  310. ^

    Phương Vũ (Theo SCMP/NYTimes) (5 tháng 3 năm 2020). “Những bê bối giáo phái ám ảnh Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  311. ^

    “South Korea Infant Mortality Rate 1950-2020”. www.macrotrends.net.

  312. ^

    “Infant Mortality Rate”. www.cia.gov. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2020.

  313. ^

    Logan Chamberlain (16 tháng 11 năm 2020). “Life Expectancy for Countries: The places where people live the longest”. www.infoplease.com.

  314. ^

    “Intentional Homicide Victims”. dataunodc.un.org .

  315. ^

    “Victims of intentional homicide, 1990-2018”. dataunodc.un.org .

  316. ^

    The Institute for Economics & Peace (IEP). “GLOBAL TERRORISM INDEX 2020: MEASURING THE IMPACT OF TERRORISM”

    (PDF)

    . visionofhumanity.org.

  317. ^

    Macrotrends LLC (Data Source: World Bank). “South Korea Literacy Rate 1990-2021”. www.macrotrends.net.

  318. ^

    “World Happiness Report 2019”. worldhappiness.report.

  319. ^

    Vân Trang – Đức Minh (17 tháng 9 năm 2020). “Cuộc chiến thi đại học Hàn Quốc: Học 16 tiếng/ngày, nhốt mình trong phòng biệt giam trắng, ám ảnh đến mức cần thôi miên để trấn tĩnh”. phapluat.suckhoedoisong.vn.

  320. ^

    Lê Chung (4 tháng 1 năm 2021). “Hàn Quốc chính thức miễn phí giáo dục 3 cấp từ năm 2021”. tuoitre.vn.

  321. ^

    “Range of rank on the PISA 2006 science scale”

    (PDF)

    .

  322. ^

    Thùy Linh. “Quá trình vươn lên top đầu thế giới của nền giáo dục Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  323. ^

    Ngọc Lan (4 tháng 1 năm 2011). “Phát triển nền kinh tế không tài nguyên ở Hàn Quốc”. cks.inas.gov.vn.

  324. ^ a b

    Thùy Linh. “Mặt tối của nền giáo dục Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  325. ^ a b

    WEF (6 tháng 11 năm 2020). “5 quốc gia chi nhiều nhất cho nghiên cứu và phát triển”. vnexpress.net.

  326. ^

    Kim Kwang-tae (29 tháng 8 năm 2019). “S. Korea unveils record high budget for 2020”. en.yna.co.kr.

  327. ^

    EF English Proficiency Index. “The world’s largest ranking of countries and regions by English skills: Global Ranking of Countries and Regions”. www.ef.com.

  328. ^

    “Hệ thống giáo dục Hàn Quốc thành công nhất thế giới”. nhandan.com.vn. 1 tháng 11 năm 2005.

  329. ^

    Diamond, Anna (17 tháng 11 năm 2016). “Why South Korea Is So Fixated With the College-Entrance Exam”.

  330. ^

    Ripley, Amanda (25 tháng 9 năm 2011). “South Korea: Kids, Stop Studying So Hard!”. Time.

  331. ^

    “Korea Awash with the Under-Skilled and Overeducated”. The Chosun Ilbo. 8 tháng 12 năm 2011 .

  332. ^

    Thanh Hằng (theo Education in South Korea) (14 tháng 1 năm 2020). “Những điểm khác biệt của giáo dục Hàn Quốc”. vnexpress.net .

  333. ^

    “The Pressures of the South Korean Education System”. 20 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016 .

  334. ^

    BloombergQuint: Michelle Jamrisko, Wei Lu & Alexandre Tanzi (3 tháng 2 năm 2021). “South Korea Leads World in Innovation as U.S. Exits Top Ten”. www.bloombergquint.com.

  335. ^

    Leigh Dayton (27 tháng 5 năm 2020). “Nature Index: How South Korea made itself a global innovation leader”. www.nature.com.

  336. ^

    Damm, Christoph (26 tháng 1 năm 2020). “These are the world’s most innovative countries. The US isn’t even in the top 5”. www.businessinsider.com.

  337. ^

    “Global Innovation Index 2020”

    (PDF)

    . www.wipo.int.

  338. ^

    “Korea”

    (PDF)

    . OECD. Bản gốc

    (PDF)

    lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2019 .

  339. ^

    “Korea: Overview of the Education System (EAG 2019)” (2019). GPSEducation.OECD.org. OECD. Retrieved February 21, 2020.

  340. ^

    Reeta Chakrabarti (2 tháng 12 năm 2013). “South Korea’s schools: Long days, high results”. BBC News .

  341. ^

    “S Korea faces problem of ‘over-education’ – FT.com”. Financial Times .

  342. ^

    “Destination Guides: Study in South Korea”. www.topuniversities.com .

  343. ^

    Kwon, Soonman (2009). “Thirty years of national health insurance in South Korea: lessons for achieving universal health care coverage”. Health Policy and Planning. 24 (1): 63–71. doi:

    10.1093/heapol/czn037

    . PMID 19004861.

  344. ^

    Cho, Soo-Yeon (2007). The origins and implementation of the national health insurance programs in Korea, 1961–1979. University of Missouri – Columbia.

  345. ^

    Osental, Duffie. “Private health insurance still booming in South Korea”. Insurance Business (bằng tiếng Anh) .

  346. ^

    “Song, Y. J. (2009). The South Korean Health Care System. International Medical Community, 52(3), 206-209. DOI:February 25, 2014”

  347. ^

    World Population Review. “Most Technologically Advanced Countries 2020”. worldpopulationreview.com.

  348. ^

    Marc Getzoff, Phạm Bình (17 tháng 1 năm 2020). “Most Technologically Advanced Countries In The World 2020”. www.gfmag.com.

  349. ^

    South Korea: Introduction >> globalEDGE: Your source for Global Business Knowledge. Globaledge.msu.edu. Retrieved 5 October 2016.

  350. ^

    SOUTH KOREA Market overview Lưu trữ 25 tháng 10 2016 tại Wayback Machine. tiq.qld.gov.au

  351. ^

    Kerr, Anne; Wright, Edmund (2015). A Dictionary of World History. Oxford University Press. tr. 367–. ISBN 978-0-19-968569-1.

  352. ^

    “GDP per capita growth (annual %) – Data”. data.worldbank.org.

  353. ^

    Economic Growth Rates of Advanced Economies. International Monetary Fund .

  354. ^

    Nattavud Pimpa (6 tháng 12 năm 2013). “Lessons from South Korea’s Chaebol economy”. The Conversation Australia .

  355. ^

    “S Korea stands among world’s highest-level fiscal reserve holders: IMF”. Xinhua. Beijing. 7 tháng 9 năm 2010 .

  356. ^

    AFP (30 tháng 3 năm 2011). “South Korea GDP grew revised 6.2pc in 2010”. www.brecorder.com.

  357. ^

    “World’s Top Export Countries”. www.worldstopexports.com.

  358. ^

    “Leading import countries worldwide in 2019”. www.statista.com.

  359. ^

    “Discover the strongest country brands”

    (PDF)

    .

  360. ^

    Schwab, Klaus. “Insight Report: The Global Competitiveness Report 2019”

    (PDF)

    . World Economic Forum.

  361. ^

    Richard Haigh (Brand Finance). “Nation Brands 2021 Ranking”. brandirectory.com .

  362. ^

    The Heritage Foundation. “2020 Index of Economic Freedom: Country Rankings”. www.heritage.org.

  363. ^

    IMF. “World Economic Outlook Database: Report for Selected Countries and Subjects: October 2020”. www.imf.org .

  364. ^

    IMF. “World Economic Outlook Database: Report for Selected Countries and Subjects: October 2020”. www.imf.org .

  365. ^

    IMF. “World Economic Outlook Database: Report for Selected Countries and Subjects: October 2020”. www.imf.org .

  366. ^

    Như Phúc (theo GizChina) (23 tháng 8 năm 2021). “Samsung vượt Intel ở mảng bán dẫn”. vnexpress.net.

  367. ^

    Đăng Thiên (theo Korea Times) (20 tháng 10 năm 2020). “Samsung ‘đi sau, về trước’ trong cuộc đua gia công chip”. vnexpress.net.

  368. ^

    Minh Vũ (21 tháng 3 năm 2022). “10 nhà máy sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới”. vnexpress.net .

  369. ^ a b

    Phạm Trung (30 tháng 4 năm 2021). “Hyundai là xe châu Á bán chạy nhất tại Đức”. vnexpress.net.

  370. ^

    Phạm Trung (29 tháng 11 năm 2019). “10 hãng bán xe nhiều nhất tại Đức”. vnexpress.net.

  371. ^

    Kraftfahrt-Bundesamt (KBA) (5 tháng 1 năm 2022). “2021 (Full Year) Germany: Best-Selling Car Brands”. www.best-selling-cars.com.

  372. ^

    UNTWO (tháng 7 năm 2017). UNWTO Tourism Highlights 2017. doi:10.18111/9789284419029. ISBN 978-92-844-1902-9.

  373. ^

    Kolesnikov-Jessop, Sonia (11 tháng 11 năm 2010). “South Korea Sets Its Sights on Foreign Tourists”. The New York Times.

  374. ^

    “Double-digit Growth”. BusinessKorea. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2015 .

  375. ^

    “Hallyu fuels foreign investment in Korea”. The Korea Times. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2015 .

  376. ^

    Government of Korea biên tập (2010). “Journals”. Korea.net. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011 .

  377. ^

    Government of Korea biên tập (2010). “Radio”. Korea.net. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011 .

  378. ^

    Government of Korea biên tập (2010). “TV”. Korea.net. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011 .

  379. ^ a b

    Fastmetrics. “Fastest Internet In The World – Median Download Speeds 2020”. www.fastmetrics.com.

  380. ^ a b

    Speedtest Global Index. “Global Speeds July 2021”. www.speedtest.net.

  381. ^

    Government of Korea biên tập (2010). “Internet service”. Korea.net. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011 .

  382. ^

    “Roads Paved(% of Total Roads) by Country”. ChartsBin.

  383. ^

    “TGV South Korea High Speed Rail Route Operated by Korail”. www.railway-technology.com.

  384. ^

    “Railways in the Republic of Korea”. www.sinfin.net.

  385. ^

    Express bus terminal guide Lưu trữ tháng 9 23, 2010 tại Wayback Machine, Korea Express Bus Lines Association.

  386. ^

    Miller, Peter (5 tháng 11 năm 2020). “The World’s Best Airports in 2020 are announced”. www.worldairportawards.com.

  387. ^

    Coffey, Helen (25 tháng 11 năm 2019). “The world’s best airline for 2020”. www.independent.co.uk.

  388. ^

    Rosen, Eric (27 tháng 11 năm 2019). “The 2020 List Of The World’s Best Airlines Is Out Now”. www.forbes.com.

  389. ^

    Châu Trần (16 tháng 10 năm 2020). “10 sân bay tốt nhất thế giới 2020”. vnexpress.net .

  390. ^

    SkyTeam. “SkyTeam: A History of Excellence”. www.skyteam.com.

  391. ^

    “Surging Seoul: Traffic at Incheon Airport is booming. But can South Korea’s Big Two airlines capitalize?”. Airline Weekly. 23 tháng 10 năm 2017 .

  392. ^

    “Company Info”. Korean Air .

  393. ^

    Lee Eun-joo (July 2, 2010). “If you’re looking for a ticket to Jeju, leave late”. Joongang Daily (Seoul). Truy cập July 15, 2010.

  394. ^

    Ramsey, Syed (2016). Tools of War: History of Weapons in Early Modern Times. Alpha Edition. ISBN 978-9386101679.

  395. ^

    “Thư tịch y học cổ Hàn Quốc được công nhận di sản thế giới”. Đài KBS. ngày 3 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2012 .

  396. ^

    “The very first Printed Book – The Diamond Sutra”. scihi.org. Harald Sack. 11 tháng 5 năm 2021 .

  397. ^

    “Haeinsa Temple Janggyeong Panjeon, the Depositories for the Tripitaka Koreana Woodblocks”

    (PDF)

    . UNESCO World Heritage Centre. United Nations .

  398. ^

    Hawley, Samuel: The Imjin War. Japan’s Sixteenth-Century Invasion of Korea and Attempt to Conquer China, The Royal Asiatic Society, Korea Branch, Seoul 2005, ISBN 89-954424-2-5, p.195f.

  399. ^

    Turnbull, Stephen: Samurai Invasion. Japan’s Korean War 1592-98 (Luân Đôn, 2002), Cassell & Co ISBN 0-304-35948-3, p.244

  400. ^

    Roh, Young-koo: “Yi Sun-shin, an Admiral Who Became a Myth”, The Review of Korean Studies, Vol. 7, No. 3 (2004), p.13

  401. ^

    Florida, Richard (3 tháng 10 năm 2011). “The World’s Leading Nations for Innovation and Technology”. www.bloomberg.com.

  402. ^

    Radu, Sintia (28 tháng 1 năm 2020). “Top 10 Countries for Technological Expertise, Ranked by Perception”. www.usnews.com.

  403. ^

    Newsroom (3 tháng 6 năm 2016). “12 most technologically advanced nations in the world”. en.protothema.gr.

  404. ^

    Michelle Jamrisko, Wei Lu & Alexandre Tanzi (3 tháng 2 năm 2021). “Economics: South Korea Leads World in Innovation as U.S. Exits Top Ten”. www.bloomberg.com.

  405. ^

    STRAITS TIMES, BLOOMBERG (3 tháng 2 năm 2021). “South Korea, Singapore lead world in innovation; US drops out of top 10”. www.straitstimes.com.

  406. ^

    Kan Hyeong-woo (3 tháng 2 năm 2021). “S. Korea tops list of world’s most innovative countries”. www.koreaherald.com.

  407. ^

    Samsung number One in the World Lưu trữ tháng 1 15, 2013 tại Wayback Machine, International Data Corporation, January 29, 2010. Truy cập July 7, 2010.

  408. ^

    “LG Brand Ranking”. www.rankingthebrands.com.

  409. ^

    Interbrand (20 tháng 10 năm 2020). “Samsung Electronics Becomes Top Five in Interbrand’s Best Global Brands 2020”. news.samsung.com/us.

  410. ^

    Tuấn Hưng (17 tháng 9 năm 2021). “LG đứng đầu thị trường thiết bị gia dụng toàn cầu”. vnexpress.net.

  411. ^

    Mỹ Anh (22 tháng 10 năm 2020). “Những thương hiệu ôtô đắt giá nhất thế giới 2020”. vnexpress.net .

  412. ^

    Gorton, David (14 tháng 11 năm 2019). “6 Countries That Produce the Most Cars”. www.investopedia.com.

  413. ^

    Workman, Daniel (23 tháng 10 năm 2020). “Car Exports by Country”. www.worldstopexports.com.

  414. ^

    Mỹ Anh (20 tháng 6 năm 2019). “Xe Hàn chiếm đỉnh bảng xếp hạng về chất lượng”. vnexpress.net.

  415. ^

    “Koreans love their mobile phones”, Joongang Daily, January 28, 2009. Truy cập July 7, 2010.

  416. ^

    Thanh Hương (TTXVN). “

    Vượt mặt’ Mỹ-Trung, Hàn Quốc là nước đầu tiên triển khai mạng 5G toàn quốc”. baotintuc.vn.

  417. ^

    Nam Nguyễn (theo BNews). “Hàn Quốc thương mại hóa mạng 5G đầu tiên trên thế giới”. www.techtimes.vn.

  418. ^

    VOV. “Hàn Quốc trở thành nước đầu tiên cung cấp dịch vụ 5G”. vov.vn.

  419. ^

    Trung tâm Tin Tức VTV24. “Hàn Quốc là nước đầu tiên triển khai mạng 5G toàn quốc”. vtv.vn.

  420. ^

    Phan Văn Hòa (1 tháng 7 năm 2020). “Hàn Quốc dẫn đầu cuộc đua về tốc độ mạng 5G”. vietnamnet.vn .

  421. ^

    Điệp Anh (9 tháng 12 năm 2020). “Khác biệt giữa mạng 5G ở Hàn Quốc và Mỹ”. vnexpress.net .

  422. ^

    Minh Hải. “Hàn Quốc ra mắt mạng 5G đầu tiên trên thế giới”. nguoilambao.vn.

  423. ^

    “KITSAT-1 mission page from SSTL”. SSTL. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2016 .

  424. ^

    Soumitra Dutta, Bruno Lanvin. “THE NETWORK READINESS INDEX 2020”

    (PDF)

    . networkreadinessindex.org.

  425. ^ a b c

    Slade Johnson (27 tháng 8 năm 2020). “South Korea is one of the world’s largest nuclear power producers”. www.eia.gov.

  426. ^

    “ITER Members”. ITER .

  427. ^

    “South Korea wins landmark Gulf nuclear power deal”. Reuters. 29 tháng 12 năm 2009.

  428. ^

    “All systems go for Jordan’s first nuclear reactor”. UPI. 31 tháng 3 năm 2010.

  429. ^

    “South Korea-Jordan sign $130M nuclear deal”. World Nuclear News. 27 tháng 7 năm 2010.

  430. ^

    “Korea, Argentina Sign MOU for Nuclear Plant Project”. The Chosun Ilbo. Seoul. 18 tháng 9 năm 2010.

  431. ^

    “Argentina eyes nuclear role in S. America”. UPI. 17 tháng 9 năm 2010.

  432. ^ a b

    “Korea nearing Turkey nuclear plant contract”. The Korea Times. Seoul. 15 tháng 6 năm 2010.

  433. ^

    An Khang (theo New Atlas) (25 tháng 11 năm 2021). “

    Mặt Trời nhân tạo’ của Hàn Quốc lập kỷ lục mới”. vnexpress.net.

  434. ^

    Herald, The Korea (16 tháng 12 năm 2020). “South Korea’s lotus lantern lighting festival inscribed as UNESCO world heritage”. www.koreaherald.com (bằng tiếng Anh) .

  435. ^

    “Seokguram Grotto [UNESCO World Heritage] (경주 석굴암)”.

  436. ^

    “Republic of Korea – intangible heritage”.

  437. ^ a b

    “Republic of Korea”. UNESCO .

  438. ^

    Global Drinking Demographics. “Sources: Alcohol Consumption by Country 2021”. worldpopulationreview.com.

  439. ^

    The VinePair Team. “MAP: What Country Drinks the Most Alcohol?”. vinepair.com.

  440. ^

    재미있는 동양3국의 젓가락 문화비교 Lưu trữ 19 tháng 6 2018 tại Wayback Machine. Article.joins.com (19 May 2012). Retrieved 5 October 2016.

  441. ^

    Christy Choi & Amy Nip (30 tháng 11 năm 2012). “How Korean culture stormed the world”. www.scmp.com .

  442. ^

    Martin Roll. “Korean Wave (Hallyu) – The Rise of Korea’s Cultural Economy & Pop Culture”. martinroll.com.

  443. ^

    Korean Wave’ piracy hits music industry”. BBC News. 9 tháng 11 năm 2001 .

  444. ^

    Chow, Kat. “How The South Korean Government Made K-Pop A Thing”. npr.org. National Public Radio .

  445. ^

    Seo Taiji, KBS World

  446. ^

    Bảo Lâm (3 tháng 11 năm 2020). “

    Baby Shark’ là video YouTube được xem nhiều nhất mọi thời đại”. vnexpress.net.

  447. ^

    Ben Beaumont-Thomas (2 tháng 11 năm 2020). “Baby Shark becomes most viewed YouTube video ever, beating Despacito”. www.theguardian.com.

  448. ^

    Alves, Vera (4 tháng 9 năm 2018). “Everything you should know about the Baby Shark phenomenon”. www.nzherald.co.nz.

  449. ^

    Gibson, Caitlin (14 tháng 9 năm 2018). “The story of ‘Baby Shark’: How toddlers around the world made a K-pop earworm go viral”. www.washingtonpost.com.

  450. ^

    Hiểu Nhân (21 tháng 8 năm 2020). “BTS phá kỷ lục của Blackpink”. vnexpress.net .

  451. ^

    Rolli, Bryan (21 tháng 8 năm 2020). “BTS’s ‘Dynamite’ Video Obliterates YouTube Premiere Record [Updated]”. Forbes.com.

  452. ^

    “Top 7 of the biggest Korean entertainment companies”. weproject.media. 21 tháng 5 năm 2020.

  453. ^

    “K-Pop takes America: how South Korea’s music machine is conquering the world”. The Verge. 18 tháng 10 năm 2012 .

  454. ^

    Williamson, Lucy (ngày 15 tháng 6 năm 2011). “The dark side of South Korean pop music”. BBC News (bằng tiếng Anh) .

  455. ^

    “K-POP World Festival (케이팝월드페스티벌)”. Visit Korea. Korean Tourism Organization .

  456. ^

    An Hồng (16 tháng 8 năm 2017). “Kpop – công cụ tuyên truyền hòa bình của Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  457. ^

    Kim, Tae Young; Jin, Dal Young (2016). “Cultural Policy in the Korean Wave: An Analysis of Cultural Diplomacy Embedded in Presidential Speeches”

    (PDF)

    . International Journal of Communication. 10: 5514–5534.

  458. ^

    Smirke, Richard (5 tháng 4 năm 2020). “IFPI Global Music Report 2020: Music Revenues Rise For Fifth Straight Year to $20 Billion”. www.billboard.com.

  459. ^

    Nguyễn Minh Tiệp & Hoàng Thị Thu Thủy – Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam (21 tháng 8 năm 2020). “Phát triển ngành công nghiệp điện ảnh trong chính sách gia tăng “sức mạnh mềm” văn hóa của Hàn Quốc”. www.tapchicongsan.org.vn.

  460. ^

    “S.Korea’s Screen Quota Hinders Market Access” Lưu trữ 3 tháng 7 2018 tại Wayback Machine, KBS World, 16 July 2010.

  461. ^

    “All The Awards (2004)”. Cannes Film Festival. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2006 .

  462. ^

    “Spike Lee Confirmed to Direct ‘Oldboy

    ”. /Film. 11 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2022 .

  463. ^

    Ân Nguyễn. “Phim Hàn Quốc lần đầu giành giải Cành Cọ Vàng”. vnexpress.net.

  464. ^

    KBS World (10 tháng 2 năm 2020). “

    Ký sinh trùng” thắng lớn với 4 tượng vàng Oscar”. world.kbs.co.kr .

  465. ^

    Thiên Lam (26 tháng 4 năm 2021). “Người Hàn vỡ òa khi Youn Yuh Jung thắng Oscar”. vnexpress.net.

  466. ^

    Park, Ji-won (26 tháng 9 năm 2021). “Squid Game tops global Netflix chart”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2021 .

  467. ^

    Wong, Henry (28 tháng 9 năm 2021). “Squid Game: the hellish horrorshow taking the whole world by storm”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021 .

  468. ^

    White, Peter (19 tháng 10 năm 2021). “

    Squid Game’: Netflix Reveals A “Mind-Boggling” 142M Households Have Watched Korean Drama”. Deadline Hollywood .

  469. ^

    Keck, Catie (12 tháng 10 năm 2021). “Netflix calls Squid Game its ‘biggest ever series at launch

    ”. The Verge .

  470. ^

    Hiểu Nhân (26 tháng 1 năm 2022). “Webtoon – ngành công nghiệp tỷ USD của Hàn Quốc”. vnexpress.net.

  471. ^ a b c

    COI (2010). “Republic of Korea”. Olympic.org (bằng tiếng Anh) .

  472. ^

    InsideTheGames. “Rio 2016 Olympics Medal Table”. www.insidethegames.biz.

  473. ^

    sports-reference.com. “Rio Summer Olympics 2016 Results – Athletes, Medals & Results”. www.nytimes.com.

  474. ^

    “Asian Games” (bằng tiếng Anh). Consejo Olímpico de Asia .

  475. ^

    KaioShin (theo NA Lolesports) (3 tháng 10 năm 2014). “LCK/LPL: Thể thao điện tử trong nền văn hóa Hàn Quốc”. lienminh360.vn.

  476. ^ a b

    Loris CarryUs (Theo Helino) (3 tháng 7 năm 2019). “LMHT: Hàn Quốc công nhận thể thao điện tử là ‘quốc bảo’, xây cả Sân vận động quốc gia dành riêng cho Esports”. gamek.vn.

  477. ^

    Điệp Anh (theo New York Times) (23 tháng 6 năm 2021). “Cuộc cạnh tranh khốc liệt để thành game thủ eSport”. vnexpress.net.

  478. ^

    “Why Is StarCraft So Popular In Korea?”. Kotaku.com. 24 tháng 7 năm 2010 .

  479. ^

    Hạ San (24 tháng 8 năm 2017). “PUBG: Người Hàn vô địch giải Solo chuyên nghiệp đầu tiên nhờ ‘cáo già

    ”. thanhnien.vn.

  480. ^

    “PGI 2018: Người Hàn vô địch thể thức TPP”. gamesao.vietnamnet.vn. 27 tháng 7 năm 2018.

  481. ^

    Thành Hưng (25 tháng 11 năm 2019). “Kết quả PUBG thế giới Global Championship 2019: GEN.G vô địch”. webthethao.vn.

  482. ^

    PUBGRANK.ORG. “PUBG Nations Cup 2019: Leaderboard”. esports.pubgrank.org.

  • Alice H. Asia’s Next Giant: South Korea and Late Industrialization. Oxford University Press, New York: Amsden. 1989.

  • Appleman, Roy E (1961). History, Department of the Army. South to the Naktong, North to the Yalu. Washington: Office of the Chief of Military.

  • Ed, Wayne Surdam. Ann Arbor (1990). Bibliography of Asian Studies, 1985. Michigan: Association for Asian Studies.

  • Blair, Clay (1988). The Forgotten War: America in Korea, 1950-1953. New York: Times Books.

  • Buss, Claude A (1982). The United States and the Republic of Korea: Background for Policy. Stanford: Hoover Institution Press.

  • Chandra, Vipan. Imperialism, Resistance, and Reform in Late Nineteenth-Century Korea: Enlightenment and the Independence.

  • Club (1988). Korea Research Monograph No. 13. University of California: Berkeley Center for Korean Studies, Institute of East Asian Studies.

  • Cho, Soon Sung (1984). Korea in World Politics, 1940-1950. Berkeley: University of California Press.

  • Amsden, Alice (1992). Asia’s Next Giant: South Korea and Late Industrialization. Oxford University Press. ISBN 978-0195076035.

  • Breen, Michael (2004). The Koreans: Who They Are, What They Want, Where Their Future Lies. St. Martin’s Griffin. ISBN 978-0-312-32609-8.

  • Hart, Dennis (2003). From Tradition to Consumption: Constructing a Capitalist Culture in South Korea. Seoul: Author. ISBN 978-89-88095-44-7.

  • Cumings, Bruce (1997).

    Korea’s place in the sun

    . New York: W.W. Norton. ISBN 978-0-393-31681-0.

  • Lew, Yong Ick. The Making of the First Korean President: Syngman Rhee’s Quest for Independence (University of Hawai’i Press; 2013); scholarly biography; 576 pages;
  • Nahm, Andrew C. (1996). Korea: A history of the Korean people (2nd ed.). Seoul: Hollym. ISBN 978-1-56591-070-6.

  • Schneidewind, Dieter K. (2016). Economic Miracle Market South Korea: A Blueprint for Economic Growth in Developing Nations. Springer. ISBN 978-981-10-0613-5.

  • Yang Sung-chul (1999). The North and South Korean political systems: A comparative analysis (rev. ed.). Seoul: Hollym. ISBN 978-1-56591-105-5.

  • Yonhap News Agency (2004). Korea Annual 2004. Seoul. ISBN 978-89-7433-070-5.

  • Yuan, Robert T. (1988). Biotechnology in Singapore, South Korea, and Taiwan. Macmillan Publishers ltd. ISBN 978-1-349-10768-1.

  • Đại sứ quán Đại Hàn Dân Quốc tại Việt Nam
  • KBS 월드라디오 베트남어 방송
  • Trang chính thức của Đại Hàn Dân Quốc (Korea.net)
  • Trang hướng dẫn du lịch chính thức của Hàn Quốc
  • Văn phòng thống kê quốc gia Hàn Quốc
  • Mục trên trang của CIA World Factbook.
  • Quốc gia giáo dục: Hàn Quốc trên Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
  • Hàn Quốc Lưu trữ 2012-08-29 tại Wayback Machine từ UCB Libraries GovPubs
  • Hàn Quốc trên DMOZ
  • Korea OECD
  • Thông tin Hàn Quốc từ BBC News
  • Hàn Quốc trên Encyclopædia Britannica
  • Dự báo phát triển chính cho Hàn Quốc từ Tương lai quốc tế
  •  

    Wikimedia Atlas của Hàn Quốc

 

Biển Hoàng Hải

 

 CHDCND Triều Tiên

Biển Nhật Bản

 

Biển Hoàng Hải

B

Biển Nhật Bản

T

   

 

 Hàn Quốc    

Đ

N

Biển Hoàng Hải

Biển Hoa Đông

Eo biển Triều Tiên

Rate this post

Viết một bình luận