edf40wrjww2News:ContentNew
B. Nội dung:
I. Khái niệm ca dao- dân ca:
Ở phần này GV cần đưa ra những câu hỏi:
? Nêu khái niệm ca dao- dân ca em đã được học trong chương trình Ngữ văn 7? (Câu hỏi nhận biết)
Theo SGK Ngữ văn 7 tập 1 trang 35 đã nêu khái niệm về ca dao- dân ca như sau:
– Ca dao- dân ca là tên gọi chung của các thể loại trữ tình dân gian kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
– SGK cũng phân biệt hai khái niệm ca dao và dân ca
+ Dân ca là những sáng tác dân gian kết hợp lời và nhạc.
+ Ca dao là lời thơ của dân ca.
II. Đặc điểm của ca dao, dân ca:
1. Về nội dung.
– Ca dao, dân ca là những bài thơ dân gian do nhân dân lao động sáng tác và thuộc thể loại trữ tình đã diễn tả một cách sinh động và sâu sắc đời sống tâm hồn, tình cảm, tư tưởng của người lao động.
2. Về nghệ thuật.
a, Ngôn ngữ trong ca dao:
– Ngôn ngữ trong ca dao đậm đà màu sắc địa phương, giản dị, chân thực, hồn nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ví dụ như bài ca dao:
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông “.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai
( Trong đó ni= này; tê= kia: tiếng địa phương miền trung).
– Có nhiều bài ca dao được lan truyền nhanh chóng trở thành tiếng nói riêng của nhiều địa phương khác nhau nhờ sự thay đổi địa danh là chủ yếu.
Ví dụ:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ Huế thì vô
…
b,Thể thơ trong ca dao:
Ca dao là phần lời của dân ca, do đó các thể thơ trong ca dao cũng sinh ra từ dân ca. Các thể thơ trong ca dao cũng được dựng trong các loại văn vần dân gian khác (như tục ngữ, câu đố, vè …). Có thể chia các thể thơ trong ca dao thành bốn loại chính là:
– Các thể vãn
– Thể lục bát
– Thể song thất và song thất lục bát
– Thể hỗn hợp (hợp thể)
Trong SGK Ngữ văn 7 tập I các bài ca dao được đưa vào chủ yếu là thể lục bát (mỗi câu gồm hai dòng hay hai vế, dòng trên sáu âm tiết, dòng dưới tám âm tiết nên được gọi là “thượng lục hạ bát”). Đây cũng là thể thơ sở trường nhất của ca dao. Thể thơ này được phân thành hai loại là lục bát chính thể (hay chính thức) và lục bát biến thể (hay biến thức). Ở lục bát chính thể, số âm tiết không thay đổi (6+8), vần gieo ở tiếng thứ sáu (thanh bằng), nhịp thơ phổ biến là nhịp chẵn (2/2/2 …), cũng có thể nhịp thay đổi (3/3 và 4/4). Ở lục bát biến thể, số tiếng (âm tiết) trong mỗi vế có thể tăng, giảm (thường dài hơn bình thường).
Ví dụ: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông .
(12 âm tiết).
c, Kết cấu của ca dao
*Thể cách của ca dao
“Phú”, “tỉ”, “hứng” là ba thể cách của ca dao (cảnh phụ diễn ý tình).
– “Phú” ở đây có nghĩa là phô bày, diễn tả một cách trực tiếp, không qua sự so sánh.
Ví dụ: Cậu cai nón dấu lông gà,
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
– “Tỉ” nghĩa là so sánh (bao gồm cả so sánh trực tiếp – tỉ dụ và so sánh gián tiếp – ẩn dụ).
Ví dụ: Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
– “Hứng” là cảm hứng. Người xưa có câu “Đối cảnh sinh tình”. Những bài ca dao trước nói đến “cảnh” (bao gồm cả cảnh vật, sự việc) sau mới bộc lộ “tình” (tình cảm, ý nghĩa, tâm sự) đều được coi là làm theo thể “hứng”.
Ví dụ: Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ôngg bà bấy nhiêu.
* Phương thức thể hiện
Những bài ca dao trong SGK Ngữ văn 7 chủ yếu có ba phương thức thể hiện là:
– Phương thức đối đáp (đối thoại), chủ yếu là bộ phận lời ca được sáng tác và sử dụng trong hát đối đáp nam nữ, bao gồm cả đối thoại hai vế và một vế.
Ví dụ: Đối thoại hai vế:
– Ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
– Phương thức trần thuật (hay kể chuyện trữ tình, khác với trần thuật trong các loại tự sự).
Ví dụ:
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ríu rít bò ra lấy phần.
Chào mào thì đánh trống quân,
Chim chích cởi trần, vác mõ đi giao.”
– Phương thức miêu tả (miêu tả theo cảm hứng trữ tình, khác với miêu tả khách quan trong các thể loại tự sự).
Ví dụ: Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô
…
– Ngoài ra còn có cả ba phương thức hợp lại (trần thuật kết hợp với đối thọai; trần thuật kết hợp với miêu tả; kết hợp cả ba phương thức)
– Do nhu cầu truyền miệng và nhu cầu ứng tác, nhân dân thường sử dụng những khuôn, dạng có sẵn, tạo nên những đơn vị tác phẩm hoặc dị bản hao hao như nhau.Ví dụ: “Thân em như” … (“hạt mưa sa”, “hạt mưa rào”, “tấm lụa đào”, “trái bần trôi” …)
d, Thời gian và không gian trong ca dao
* Thời gian:
– Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan vừa là thời gian của tưởng tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả.
– Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng “chiều chiều” như: “Chiều chiều xách giỏ hỏi rau”, “Chiều chiều ra đứng bờ sông”,”Chiều chiều lại nhớ chiều chiều”, “Chiều chiều ra đứng ngõ sau” ,… “Chiều chiều” có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra lặp đi lặp lại.
– Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng ngữ (hay cụm từ) chỉ thời gian như : “bây giờ”; “tối qua”; “đêm qua” … thì ai cũng hiểu là người nói đang ở thời điểm hiện tại để nhớ lại và nhắc lại chuyện vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời gian trong ca dao trữ tình là thời gian nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm chỉ (hay phiếm định). Vì thế nó phù hợp với nhiều người, ở nhiều địa điểm và thời điểm khác nhau.
* Không gian
– Khụng gian trong ca dao cũng vừa là không gian thực tại khách quan, vừa là không gian trong trí tưởng tượng mang tính chất tượng trưng của tác giả.
– Khi không gian thuộc về “đối tượng phản ánh, miêu tả thì đó là không gian thực tại được tái hiện trong ca dao”. Ví dụ: xứ Huế, xứ Thanh, sông Lục Đầu, sông Thương … và những nơi khác trong ca dao, nhất là ca dao về phong cảnh và sản vật các địa phương.
Ví dụ:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Cũng giống như thời gian, khi không gian được nói đến như một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, trường hợp để tác giả bộc lộ cảm nghĩ (trực tiếp hoặc gián tiếp) thì đó là không gian mang tính chất tượng trưng do tác giả tưởng tượng, hư cấu hoặc tái tạo theo cảm xúc thẩm mĩ của mình. Ví dụ những hình ảnh về không gian, địa điểm mang tính chất tượng trưng, phiếm chỉ, thường xuyên xuất hiện trong ca dao trữ tình ( “cánh đồng”, “thác”, “ghềnh”, “bờ ao”, “mái nhà”, “ngõ sau” …). Ngay cả những địa điểm có thực khi vào ca dao trữ tình cũng mang tính chất tượng trưng.
d, Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu
Những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau (mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống). Ở đây chỉ đề cập đến những thủ pháp chủ yếu.
– So sánh là thủ pháp nghệ thuật được dùng thường xuyên, phổ biến nhất, bao gồm so sánh trực tiếp (tỉ dụ), so sánh gián tiếp (ẩn dụ). Tỉ dụ là so sánh trực tiếp, thường có những từ chỉ quan hệ so sánh: như, như là, như thể …đặt giữa hai vế (đối tượng và phương diện so sánh).
Vớ dụ: – Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
– Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
– Yêu nhau như thể chân tay
Anh em hoà thuận , hai thân vui vầy.
– Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
– Còn ở ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so sánh mà đối tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn một vế là phương diện so sánh (ở đây đối tượng và phương diện so sánh hoà nhập làm một). Do vậy mà hình thức ẩn dụ hàm súc hơn tỉ dụ.
Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ một cảnh ngộ đáng thương của người lao động:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Đặc biệt ẩn dụ gắn rất chặt với nghệ thuật nhân hóa, mượn thế giới loài vật để nói thế giới loài người.
Ví dụ bài ca dao dưới đây mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, hạng người trong xã hội xưa:
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
Chào mào thì đánh trống quân,
Chim chích cởi trần vác mừ mõ đi giao.
– Biện pháp nghệ thuật đối xứng (đối ý, đối từ):
Ví dụ: Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà.
– Nghệ thuật trùng điệp (bao gồm cả điệp ý, điệp từ).
Ví dụ: Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
– Nghệ thuật phóng đại được sử dụng hầu hết ở những bài ca dao dùng để châm biếm:
Ví dụ: Cậu cai nón dấu lông gà,
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.
Ngoài ra còn có một số biện pháp khác nữa.
III. Các chủ đề chính của ca dao – dân ca đã học trong chương trình Ngữ văn 7.
1. Chủ đề tình cảm gia đình.
– Đây là một trong chủ đề chiếm vị trí khá quan trọng trong ca dao, dân ca Việt Nam.
– Các nhân vật trữ tình xuất hiện trong chùm bài này là người con, người cháu, người vợ, người chồng, những chàng trai, cô gái => Họ trực tiếp cất lên lời ca, bày tỏ suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình về các mối quan hệ trong gia đình cũng như đối với quê hương, đất nước, con người.
* Nội dung thể hiện :
– Ca ngợi công lao trời biển của cha mẹ và lòng biết ơn của con cái với công lao to lớn đó.
VD : “ Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển đông …”
Hay : “ Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”
Hoặc : “ Công cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.”
– Ca dao, dân ca là tình cảm thương nhớ, biết ơn của con cháu với tổ tiên, ông bà.
VD : “Con người có cố có ông,
Như cây có cội như sông có nguồn.’’
– Đó còn là tình cảm, tình nghĩa anh em, chị em trong gia đình.
VD : “ Anh em như thể chân tay,
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”
– Đó là tình cảm nỗi nhớ da diết của người con gái lấy chồng xa nhớ về mẹ, về gia đình, quê hương.
VD : “ Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
2. Chủ đề tình yêu quê hương đất nước, con người.
– Nhân vật trữ tình: chàng trai,cô gái,…
– Ca dao, dân ca còn là lời ca, niềm tự hào về quê hương đất nước đẹp giàu với những địa danh cụ thể.
3. Chủ đề than thân.
– Nhân vật trữ tình : Người nông dân, người đi ở, người phụ nữ…
– Đó là những lời ca, lời than thở đẫm nước mắt, vút lên từ số phận cay đắng luôn gặp nhiều khó khăn, trắc trở, bị chà đạp, vùi dập xuống tận đáy của xã hội.
– Lời than thân khá đa dạng và phong phú : than cho nỗi cay cực vì nghèo khổ, đói rách, than cho kiếp đời đi ở đợ, làm thuê đớn đau tủi nhục, than cho những thiệt thòi bất hạnh, oan trái trong cuộc đời.
– Đằng sau sự than thân còn có ý nghĩa tố cáo xã hội phong kiến.
– Ca dao, dân ca than thân sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, mượn hình ảnh con vật quên thuộc, bé nhỏ yếu ớt (con kiến, con tằm, con rùa, con cò…) để gợi về thân phận, cuộc đời con người.
4. Chủ đề châm biếm.
– Ca dao, dân ca châm biếm chủ yếu tập trung phơi bày các hiên tượng, các mâu thuẫn ngược đời hoặc phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người và những hiện tượng đáng cười trong xã hội.
– Các đối tượng châm biếm :
+ Thầy bói, thầy cúng,, thầy phù thuỷ, kẻ có quyền chức ( Cai lệ, quan lại..)
+ Đó là những kẻ lười biếm, nghiện ngập trong quần chúng nhân dân lao động.
+ Châm biếm, phê phán những hủ tục lạc hậu, xấu xa trong cuộc sống hằng ngày : tảo hôn, sự mê tín…
– Mục đích :
+ Tạo tiếng cười vui vẻ sảng khoái, dí dỏm, hài hước.
+ Tiếng cười mỉa mai, đả kích châm biếm.
IV. Phương pháp phân tích, cảm nhận một bài ca dao
1. Phương pháp:
a) Định hướng
-Thể loại: cảm nhận
-Định hướng:về nội dung và nghệ thuật
b) Phân ý: Nếu văn bản có nhiều ý thì nên chia theo ý để cảm nhận
c) Lập dàn ý
*Mở bài (mở đoạn): dẫn dắt, nêu xuất xứ, trích dẫn bài ca dao, nêu nội dung khái quát và cảm nhận khái quát của em (có thể dùng các cụm từ: thích, ấn tượng, nhớ mãi, cho là đặc sắc, làm cho em thấy rung động..)
*Thân bài (thân đoạn)
Phân tích từng ý nếu bài chia làm nhiều ý thì trình bày theo trình tự sau:
-Câu khái quát ý (câu chủ đề) trích dẫn câu ca dao thuộc ý đó: chỉ ra những dấu hiệu nghệ thuật và tác dụng của từng biện pháp nghệ thuật:
+Phương thức biểu đạt là gì?
+Nghệ thuật tu từ: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp từ, phép đối ….
+Từ loại: động từ, tính từ…
+Giọng điệu
+Hình ảnh
àKhái quát nội dung
-Cảm xúc, đánh giá về những liên tưởng của em
*Kết bài (kết đoạn)
-Nhấn mạnh lại giá trị, cảm xúc và rút ra bài học (nếu có)
2.Vận dụng luyện tập:
Đề 1: Trình bày cảm nhận của em về bài ca dao:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi
Gợi ý:
(1) Tìm hiểu đề
-Yêu cầu: trình bày cảm xúc, tình cảm, đánh giá
-Nội dung: công lao của cha mẹ, đạo làm con
-Nghệ thuật: so sánh, đối xứng, hình ảnh giàu ý nghĩa
-Phương thức: biểu cảm
(2) Lập dàn ý
*Mở bài (mở đoạn):
C1: Ca dao – dân ca là tiếng hát từ trái tim lên miệng, là thơ trữ tình dân gian, phát triển và tồn tại để đáp ứng những nhu cầu và những hình thức bộc lộ tình cảm của nhân dân. Trong những tình cảm cần bộc lộ ấy có tình cảm của cha mẹ đối với con cái được thể hiện rất ấn tượng qua bài ca dao trên.
C2: Em đã được đọc nhiều bài ca dao về tình cảm gia đình như tình cảm của con cái với cha mẹ, tình cảm anh em, tình cảm của con cháu với ông bà. nhưng để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất chính là công lao trời biển của cha mẹ đối với con cái được thể hiện cụ thể trong bài ca dao trên
*Thân bài (thân đoạn)
-ý 1: ca ngợi công lao to lớn của cha mẹ được thể hiện cụ thể qua câu ca dao:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nướcở ngoài biển đông
– câu ca dao 1tác giả dân gian đã so sánh công cha với núi ngất trời, núi cao chót vót, cao đến tận mây xanh, núi cao chọc trời
-Câu thứ hai nói về nghĩa mẹ, nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. nghĩa mẹ được so sánh với nước ở ngoài biển đông
à với nghệ thuật so sánh và hình ảnh đối xứng đã tao nên 2 hình ảnh kì vĩ để ca ngợi nghĩa mẹ công cha với tất cả tình yêu thương sâu nặng. Tiếng thơ khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lên nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe tiếng sóng mà suy ngẫm về công cha nghĩa mẹ
-ý 2: Hai câu thơ cuối, giọng thơ cất lên thiết tha ngọt ngào như lời nhắc lại để nhắn nhủ con cháu về công lao to lớn của cha mẹ và khuyên con cái sống sao cho phải đạo làm con
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi
+Câu trên là một hình ảnh ẩn dụ, nhắc lại, nhấn mạnh công cha nghĩa mẹ.
+Câu cuối cùng của bài ca dao, tác giả dân gian đã sử dụng từ cụm Hán việt cù lao chín chữ để nói lên công ơn to lớn khó nhọc nhiều bề của cha mẹ như sinh thành nuôi dưỡng, dạy bảo…cho con nên người
+Cụm từ ghi lòng con ơi như lời nhăn nhủ ngọt ngào mà thấm thía thiết tha của bà, của mẹ. Đấy cũng chính là lời khuyên nhủ con cái phải ghi lòng tạc dạ những công lao khó nhọc vất vả ấy.
*Kết bài (kết đoạn)
Với thể thơ lục bát ngọt ngào uyển chuyển như một bài hát ru với những hình ảnh nghệ thuật tu từ đặc sắc tác giả đã thể hiện một cách thật hay về công lao trời biển của cha mẹ, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người phải có lòng biết ơn các bậc sinh thành ra chúng ta.
Đề 2: trình bày cảm nhận của em về bài ca dao:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
yêu nhau như thể tay chân
Anh em hoà thuận hai thân vui vầy
*Gợi ý:
(1)Tìm hiểu đề
-Yêu cầu: trình bày cảm xúc, tình cảm, đánh giá
-Nội dung: tình cảm của anh em trong một nhà
-Nghệ thuật: cách dùng từ, nghệ thuật so sánh
-Phương thức: biểu cảm
(2)lập dàn ý
*Mở bài (mở đoạn): ( như đề 1)
Giới thiệu được tình cảm anh em trong gia đình
*Thân bài (thân đoạn)
-Câu thơ thứ nhất: Tác giả dân gian đã dùng cách nói phủ định Anh em nào phải người xa
tức là để khẳng định tình cảm ruột thịt thân thích của anh em trong một gia đình
– anh em là phải có từ hai người trở nên. Trong câu ca dao thứ 2 có các từ cùng, chung, một đã giúp ta hiểu anh em tuy 2, tuy nhiều nhưng lại là một: cùng 1 nhà, cùng một cha mẹ thì cùng vui sống sướng khổ có nhau
Từ đó bài ca dao khuyên:
+Anh em phải yêu nhau như thể tay chân. Cách so sánh này thật cụ thể, gần gũi diễn tả thật gắn bó thiêng liêng ruột thịt của tình anh em
+Anh em hoà thuận để cho cha mẹ vui lòng
*Kết bài (kết đoạn)
-Tình cảm anh em trong một gia đình là tình cảm thiêng liêng gắn bó, là ruột thịt thân thích thì phải thương yêu đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, phải luôn làm cho cha mẹ vui lòng
Đề 3: trình bày cảm nhận của em về bài ca dao:
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng bát ngat mênh mông
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai
*Gợi ý:
(1)Tìm hiểu đề
-Yêu cầu: trình bày cảm xúc, tình cảm, đánh giá
-Nội dung: tình cảm của con ……..
-Nghệ thuật: cách dùng từ ngữ: ngó lên, nghệ thuật so sánh bao nhiêu….. bấy nhiêu
-Phương thức: biểu cảm
(2)lập dàn ý
*Mở bài (mở đoạn): ( như đề 1)
*Thân bài (thân đoạn)
-ý1:Hai câu đầu khác những câu ca bình thường được kéo dài 12 tiếng gợi sự dài rộng, mênh mông bao la, bát ngát của cánh đồng
+Nghệ thuật: điệp ngữ, đảo ngữ, đối xứng: đứng bên ni đồng- đứng bên tê đồng; mênh mông bát ngát – bát ngát mênh mông. Các biện pháp nghệ thuật này đã gợi ra một không gian rộng lớn, mênh mông của cánh đồng, nhìn phía nào cũng thấy rộng lớn mênh mông Không những thế mà cánh đồng còn rất đẹp, trù phú, màu mỡ, đầy sức sống
-ý 2: hai câu ca cuối:
+Cô gái được so sánh như chẽn lúa đòng đòng, phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai có nét tương đồng đó là nét trẻ trung phơi phới và sức sống đang xuân
+So với cánh đồng bao la, bát ngát, cô gái quả là nhỏ bé, mảnh mai. Nhưng chính bàn tay con người nhỏ bé đó đã làm ra cánh đồng mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông kia.
+Bài ca dao là lời của chàng trai, thấy cánh đồng mênh mông bát ngát, bát ngát mênh
mông và thấy cô gái trẻ đẹp, mảnh mai, trẻ trung đầy sức sống chàng trai ca ngợi vẻ đẹp của cánh đồng, ca ngợi vẻ đẹp của cô gái. Đấy là cách bày tỏ tình cảm của chàng trai với cô gái trước cánh đồng rộng lớn, bát ngát tác giả vẫn nhận ra cô gái đáng yêu.
+ Những dòng thơ dài không che lấp những dòng thơ ngắn. hai dòng cuối bài có vẻ đẹp riêng trong sự kết hợp với toàn bài.
*Kết bài (kết đoạn)
ở hai dòng đầu ta mới chỉ thấy cánh đồng bao la chưa thấy cái hồn của cảnh. Đến hai dòng cuối hồn của cảnh đã hiện lên. Đó chính là con người, là cô thôn nữ mảnh mai, nhiều duyên thầm và đầy sức sống.
Đề 4: trình bày cảm nhận của em về bài ca dao:
Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe
*Gợi ý:
(1)Tìm hiểu đề
-Yêu cầu: trình bày cảm xúc, tình cảm, đánh giá
-Nội dung: là lời than của những người nông dân
-Nghệ thuật: sử dụng điệp ngữ thương thay; hình ảnh ẩn dụ
-Phương thức: biểu cảm
(2)lập dàn ý
*Mở bài (mở đoạn) Bài ca dao là lời của người lao động thương cho thân phận của những người khốn khổ và cũng là của chính mình trong xã hội cũ
*Thân bài (thân đoạn)
Trong ca dao, tác giả dân gian có thói quen khi nhìn sự vật thường liên tưởng đến cảnh ngộ mình, vận vào thân phận mình. Đồng thời họ cũng thường có sự đồng cảm tự nhiên với những con vật bé nhỏ tội nghiệp (con sâu, cáI kiến, con cò, con vạc…) mà họ cho là cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình.
Hình ảnh các con vật trong bài là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi khổ khác nhau của người lao động trong xã hội:
+Thương con tằm Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực
+Thương lũ kiến li ti Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn nghèo kho.
+Thương con hạc lánh đường mây, chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho cuộc đời phiêu phạt, lận đận và những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ.
+Thương con cuốc kêu ra máu có người nào nghe là thương cho thân phận thấp cổ bé họng, nỗi khổ đau oan trái không được lẽ công bằng nào soi tỏ của người lao động
Cụm từ thương thay Lặp lại 4 lần là tiếng than biểu hiện sự thương cảm xót xa. Mỗi lần sử dụng là một lần diễn tả một nỗi thương – thương thân phận mình và thân phận người cùng cảnh ngộ. Sự lặp lại tô đậm mối thương cảm, xót xa cho cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân thường. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối và mở ra những nỗi thương khác nhau. Mỗi lần lặp lại tình ý của bài ca lại được phát triển.
Ngoài ra các từ được mấy, nào được lặp lại nhiều lần còn có ý nghĩa tố cáo, phê phán xã hội gây ra những nỗi khổ cho người lao động đồng thời khêu gợi sự đồng cảm nơI người đọc người nghe.
Đề 5: trình bày cảm nhận của em về bài ca dao:
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
*Gợi ý:
(1)Tìm hiểu đề
-Yêu cầu: trình bày cảm xúc, tình cảm, đánh giá
-Nội dung: là lời than của người phụ nữ
-Nghệ thuật: so sánh
-Phương thức: biểu cảm
(2)lập dàn ý
*Mở bài: giới thiệu được hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến: họ phải chịu cay đắng, khó khăn, cực nhọc chính vì thế họ đã cất lên lới than:
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
*Thân bài:
-ý1: những bài ca thuộc chủ đề than thân mở đầu bằng “Thân em” thường nói về thân phận, nỗi khổ đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. Nỗi khổ lớn nhất là số phận bị phụ thuộc, không được quyền quyết định bất cứ việc gì như:
– Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
-Thân em như giếng giữa đàng,
Người thanh rửa mặt người phàm rửa chân.
Mở đầu bằng cụm từ thân em chỉ thân phận tội nghiệp gợi sự đồng cảm sâu sắc
-ý2: bài ca dao trên diễn tả thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có một số nét đặc biệt:
+Tên gọi của hình ảnh trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận nghèo khó. Trái bần bé mọn bị gió dập sóng dồi xô đẩy quăng quật trên sông nước mênh mông, không biết tấp vào đâu. nó gợi số phận chìm nổi, lênh đênh, vô định của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
-Bài ca dao diễn tả xúc động, chân thực cuộc đời, thân phận nhỏ bé, đắng cay của người phụ nữ xưa. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ như trái bần nhỏ bé bị gió dập sóng dồi, chịu nhiều đau khổ. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh. Người phụ nữ không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muốn nhấn chìm họ
-Bài ca dao này như tiếng than than, phản kháng của người phụ nữ phải sống trong xã hội cũ.
C. Kết luận
– Bài học kinh nghiệm khi thực hiện chuyên đề:
+ Cần xác định rõ tên chuyên đề là gì? Phạm vi kiến thức ở những bài nào?
+ Những nội dung của chuyên đề cần đề cập tới là những nội dung nào?
+ Chỉ rõ để thực hiện mỗi nội dung ấy cần đưa ra hệ thống câu hỏi bài tập và các vấn đề cần giải quyết. Sau đó cho biết trong từng nội dung cụ thể cần phải xác định theo bốn mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng ở mức độ thấp, mức độ cao.
+ Đối với học sinh cần phải chuẩn bị chu đáo nội dung của bài liên quan đến chuyên đề. Cần phải trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra trong khâu chuẩn bị bài cũ ở nhà.
– Đề xuất kiến nghị: Không
Tác giả: Nguyễn Thị Chuyền